Hai đứa nhóc của Thạch Lam không chỉ là hình ảnh của cuộc sống thực tế ở vùng nông thôn nghèo, mà còn là một tác phẩm thơ đặc sắc. Tác phẩm Hai đứa nhóc đã đem lại cho độc giả một cảm xúc buồn về cuộc sống con người. Dưới đây là 6 bài phân tích giá trị thực tế trong Hai đứa nhóc, mời các bạn cùng đọc.
Dàn ý giá trị thực tế trong tác phẩm Hai đứa nhóc
I. Giới thiệu:
- Giới thiệu về tác giả và tác phẩm Hai đứa nhóc. Đặc biệt nhấn mạnh giá trị thực tế.
- Chủ đề của truyện: Cuộc sống cơ cực, vùng vẫy trong sự tẻ nhạt, không vị và khát vọng hướng tới cuộc sống rạng rỡ của người lao động nghèo.
II. Phần chính: Trình bày các diễn biến tạo ra giá trị thực tế của tác phẩm:
– Tác phẩm bắt đầu bằng câu chuyện về một ngày u ám, một phiên chợ u ám, và những cuộc sống u ám
- Hình ảnh của ngày u ám: tiếng trống thu không; mặt trời khuất; bóng tối nhanh chóng bao trùm.
- Miêu tả phiên chợ tắng: mọi người đã đi hết và tiếng ồn ào cũng tan biến. Chỉ còn lại rác rưởi trên đường phố; hình ảnh của những đứa trẻ đi lang thang. Tất cả gợi lên cảm giác u sầu, cơ cực.
- Miêu tả về những cuộc sống u ám; Một nhóm nhân vật lặng lẽ trong bóng tối, ít nói, ít hành động. Ngày lao động mệt mỏi, đêm về buôn bán kiếm sống nhưng rất khó khăn. Cuộc sống mòn mỏi, tẻ nhạt quanh quẩn trong cuộc sống nghèo.
– Tác phẩm cũng kể về khát khao tiến tới cuộc sống tươi đẹp hơn (chú ý hình ảnh của đoàn tàu và sự mong chờ háo hức của người dân phố huyện hướng về đoàn tàu, đặc biệt chú ý tâm trạng của hai chị em Liên).
- Ý nghĩa của hình ảnh đoàn tàu: Đoàn tàu như một phần của thế giới khác mang lại: tươi sáng, sôi động, xa hoa (khác biệt hoàn toàn so với cuộc sống u ám, tăm tối, buồn tẻ, nghèo nàn của họ). Mọi người nhìn thấy đoàn tàu đi qua, trong lòng mơ mộng. Họ ao ước, khát khao cuộc sống tươi đẹp hơn.
III. Tổng kết:
– Khẳng định lại tài năng của Thạch Lam
– Cùng với những tác phẩm ngắn khác của ông, Hai đứa nhóc đã chứng minh sự tài năng, xuất sắc của Thạch Lam trong viết truyện ngắn trước Cách mạng tháng Tám 1945.
Giá trị thực tế trong tác phẩm Hai đứa nhóc - Mẫu 1
Thạch Lam - một nhà văn ủng hộ văn hóa sáng tạo, tiên tiến và có biệt tài trong viết truyện ngắn, ông sáng tạo ra những câu chuyện mà tâm hồn chính là nguồn cảm hứng chính cho những tác phẩm ngắn của mình. Truyện ngắn 'Hai đứa nhóc' là một ví dụ nổi bật cho phong cách sáng tác của Thạch Lam, truyện không chỉ kết hợp giữa hiện thực và lãng mạn trữ tình mà còn mang lại những giá trị thực tế và nhân đạo sâu sắc.
Truyện ngắn 'Hai đứa nhóc' tập trung vào cuộc sống của những người dân nghèo ở vùng quê trong bối cảnh đất nước khó khăn trước Cách mạng tháng Tám, với nhân vật chính là hai chị em Liên - An, truyện được kể từ góc nhìn của Liên đã gần gũi hơn với cuộc sống, suy nghĩ và cảm xúc của người dân nghèo từ đó tạo ra sự đồng cảm và thấu hiểu sâu sắc hơn với những cuộc sống khốn khó, mỏi mòn, tối tăm, vất vả. Có thể thấy, tác giả Thạch Lam đã thành công trong việc phản ánh bối cảnh thực tế của xã hội vào tác phẩm, với một cảnh làng nghèo khó trước cách mạng.
Trước hết, là một hình ảnh thiên nhiên lãng mạn nhưng u buồn, cảnh phố huyện lúc chiều muộn với tiếng trống thu không, 'áng mây hồng như hòn than sắp tàn', tiếng ếch kêu, tiếng muỗi vo ve, mùi ẩm ướt, tất cả đã quen thuộc với hai chị em Liên và những người dân phố huyện nghèo khổ. Cuộc sống của họ giống như khung cảnh u ám, xơ xác của thiên nhiên phố huyện, là cuộc sống nghèo khó, khốn khổ, cảnh chợ tàn chỉ còn rác rưởi, những đứa trẻ nghèo đang lùng sục tìm kiếm những thứ còn sót lại của những người bán hàng. Bức tranh đã phản ánh thực tế đời sống người dân miền Bắc nước ta trước Cách mạng năm 1945, là cuộc sống nghèo khó. Cuộc sống về đêm khi tất cả chìm trong bóng tối càng làm rõ hơn cuộc sống tối tăm, u ám, lâm vào tình trạng bế tắc của người dân phố huyện. Trước hoàn cảnh đó, con người luôn có những ước muốn, khát khao, giống như cảnh đợi tàu của hai chị em Liên, đợi tàu chỉ để thấy được ánh sáng, sự náo nhiệt, mong chờ để thấy điều gì đó sáng sủa hơn, mong mỏi về một cuộc sống tốt đẹp hơn.
Ngoài giá trị hiện thực, truyện ngắn 'Hai đứa trẻ' còn chứa đựng giá trị nhân đạo sâu sắc và cao cả, bắt nguồn từ lòng thương xót, cảm thông và tình cảm của tác giả đối với số phận khốn khổ của người dân nghèo phố huyện. Thông qua cách miêu tả và kể chuyện về cuộc sống của những con người trong phố huyện như cửa hàng nước của mẹ con chị Tí, quán phở của bác Siêu, cửa hàng tạp hóa của hai chị em Liên hay bà cụ Thi Điên, tác giả đã thể hiện sự thương xót trước cảnh nghèo đói, u ám 'An và Liên ngửi thấy mùi phở thơm, nhưng ở cái huyện nhỏ này, quà bác Siêu là một thứ quà xa xỉ, nhiều tiền, hai chị em không bao giờ mua được'. Không chỉ là sự đồng cảm với nghèo khó, tác giả còn thấu hiểu cuộc sống tẻ nhạt, đơn điệu của người dân phố huyện, và từ sự thấu hiểu đó, Thạch Lam cũng phát hiện ra những phẩm chất tốt đẹp bên trong con người họ. Đó là sự chăm chỉ, cần cù, kiên nhẫn, dù nghèo nhưng vẫn cố gắng làm việc, dù kiếm được chút ít vẫn cố gắng duy trì, vẫn luôn yêu thương lẫn nhau và đặc biệt là vẫn luôn nuôi hi vọng và mơ ước về một tương lai tươi sáng, tốt đẹp hơn. Thạch Lam trân trọng những ước mơ, khát khao đó, mong muốn một chuyến tàu đi qua mang theo một thế giới mới, một tia sáng mới khác với ánh sáng từ bếp lửa của bác Siêu, ngọn đèn dầu của chị Tí và chị em Liên.
Đọc truyện 'Hai đứa trẻ' ta như được trở về với bối cảnh xã hội cũ năm 1945, cảm nhận rõ cái nghèo, cái đói bủa vây. Giá trị hiện thực và giá trị nhân đạo của tác phẩm đã cho người đọc thấy được tài năng và tấm lòng đáng quý của nhà văn Thạch Lam.
Giá trị thực tế trong tác phẩm Hai đứa trẻ - Mẫu 2
Hai đứa trẻ là một truyện ngắn không có cốt truyện, nó chỉ ghi lại một phần cuộc sống thường nhật của những số phận cơ hàn, nhưng mà Hai đứa trẻ đã thể hiện yếu tố hiện thực và tấm lòng nhân đạo cao quý của Thạch Lam thông qua câu chuyện dễ thương nhưng rất thực tế này.
Một chiều rực rỡ bên phương Tây, đám mây hồng ánh sáng...
Buổi chiều êm đềm, như lời ru dịu dàng, bao phủ đường phố...
Trải qua những ngày vất vả, chị em Liên và những người phụ nữ khác của phố huyện nhỏ đang sống qua những thử thách của cuộc đời...
Dù cuộc sống êm đềm nhưng cứng nhắc của họ, giữa không gian yên bình, tiếng cười vang lên của bà già luôn vượt qua những khó khăn...
Điều gì đang chờ đợi họ ở phía trước? Con đường trước mắt họ còn đầy khó khăn và bất ngờ...
Trong bóng tối của hiện tại, quá khứ xa xăm ấy hiện lên như ánh sáng mờ ảo từ những ngọn đèn. Thạch Lam đã tinh tế sử dụng ánh sáng ấy để tạo ra một không gian gợi nhớ quá khứ...
Nhờ ánh sáng ấy, chị em Liên nhận ra giá trị của quá khứ và hy vọng cho tương lai. Đó không chỉ là lãng mạn mà còn là sự an ủi...
Những kỷ niệm đẹp sẽ không bao giờ phai nhạt, dù chúng trôi qua, nhưng nó vẫn ấm áp trong lòng chị em Liên, đem lại cho họ niềm tin vào một ngày mai tươi sáng hơn...
Câu chuyện kết thúc nhưng còn đọng lại nhiều suy tư. Thạch Lam đã kết hợp lãng mạn và hiện thực một cách tinh tế, tạo ra một câu chuyện đậm chất nhân văn...
Truyện ngắn này của Thạch Lam mang đầy giá trị nhân bản và hy vọng cho mọi người. Đó là câu chuyện về quá khứ đã qua, nhưng vẫn để lại nhiều dấu ấn đáng trân trọng...
Tầm quan trọng của hiện thực trong tác phẩm Hai đứa trẻ - Mẫu 3
“Văn chương là ngôn ngữ của nhân loại” (M. Gorki), trong văn chương, vẻ đẹp tồn tại của con người luôn là một công cụ thẩm mỹ mà ở đó sự tinh tế và sự hiện thực kết hợp với nhau. Để làm rõ điều này, câu chuyện về “hai đứa trẻ” của Thạch Lam sẽ là một minh chứng đáng chú ý.
Trong Hai đứa trẻ, chúng ta nhìn thấy một bức tranh thực tế về cuộc sống của người dân nghèo, cũng như một bài thơ đặc sắc về tình yêu. Tác phẩm đã gửi gắm vào tâm trí của người đọc một cảm xúc buồn về cuộc sống con người.
Bức tranh về cuộc sống thực tế trong một ngôi làng nghèo khó đến tan tác, và càng thêm u ám khi nhìn từ góc độ của một nhà văn. Đó là lúc bình minh của một ngày dài ở miền quê “mặt trời đã khuất sau rặng tre, chỉ còn thấy những bóng tre đen trên bầu trời đỏ lửa.” Tiếng ve và ếch kêu râm ran trong đồng, tạo nên bầu không khí êm đềm, như bao buổi chiều khác.
Là một biểu tượng nghệ thuật, cảnh làng quê tĩnh lặng hiện ra trong bức tranh của một thị trấn vắng vẻ vào buổi chiều, chỉ còn lại một vài người bán hàng dọn dẹp, và một vài đứa trẻ nghèo đang lượm nhặt những thứ không còn sử dụng được… Bức tranh ấy đã được tái hiện trong “cơn gió lạnh đầu mùa” nhưng vẫn mang một nỗi buồn không thể diễn tả được vào thời điểm hoàng hôn của ngày tàn trong Hai đứa trẻ.
Tuy nhiên, bức tranh về cuộc sống ở thị trấn không chỉ là phong cảnh mà còn là hình ảnh của cuộc sống con người. Đó là một hiện thực ở vùng quê xa xôi, một ít hơi ấm của thành thị được mang đến từ con tàu đêm đêm. Cuộc sống ở thị trấn là gì? Đó là công việc kiếm sống của những người mà đối với Liên, nhân vật chính trong tác phẩm, mỗi người có một thói quen riêng. Như ông phở Siêu, chị Tí, bố con người hát xẩm, cụ Thi điên và thậm chí cả Liên. Hoạt động chính là nghe tiếng trống thu không rồi đóng cửa quán và chờ đợi. Hiện thực không khiến ta ngạc nhiên, đó là một thị trấn nghèo với những người lao động cần cù một cách vất vả.
Tất cả những hiện thực như vậy đều được đặt trong con mắt của một người quan sát giàu tình cảm.
Thời gian không trôi qua nhanh chóng hoặc tan biến vào bóng tối. Thời gian diễn ra từ từ theo sự phát triển của tâm trí. Từ “tiếng trống thu không' đến “chiều, chiều tối” nhẹ nhàng vang lên, sau đó trời dần tối và không gian trở nên im lặng, chỉ còn lại “vòm trời với ngàn ngôi sao lấp lánh”. Mỗi thời điểm lại mang đến một cái nhìn mới mẻ nhưng được tô điểm bởi những câu văn tươi mới, mềm mại.
Có phải có bất kỳ buổi chiều nào êm đềm như thế trong tác phẩm của Nam Cao, Vũ Trọng Phụng không? Chỉ có tâm hồn lãng mạn của Thạch Lam mới có thể đúc kết được cảm xúc thơ mộng như vậy.
Sự tài năng nằm ở chỗ nhà văn đã kết hợp hai tâm trạng quan sát - nhà văn và nhân vật - thành một. Hiểu là nhà văn quan sát cũng đúng, nhưng hiểu là cảnh vật diễn ra trong mắt của nhân vật Liên cũng không sai. Điều này được thể hiện rõ qua sự bất ngờ của nhân vật. “Liên mải ngồi quên mất! Bây giờ Liên vội vàng vào thắp đèn xếp những quả san đen lại”.
Khi bóng đêm bắt đầu phủ lên, một đêm mùa hạ nhẹ nhàng và thoáng qua với làn gió se lạnh”. Có rất nhiều câu văn như vậy, được sử dụng một cách tinh tế và chính xác đạt được chuẩn mực. Cảm nhận đó có thể bắt nguồn từ tâm hồn của nhà văn cũng như từ tâm hồn của nhân vật Liên khi phố huyện đã chìm trong im lặng của đêm tĩnh lặng. Trong con mắt “theo dõi những bóng người trở về muộn từ từ trong đêm”.
Nếu vào đầu tối, phố huyện được “trang trí” bởi ánh đèn phát ra từ những quán ăn ven đường thì bây giờ chỉ còn là bóng tối. Chỉ có một vài tia sáng le lói từ khe cửa nhà ai. Mắt thơ mộng không chỉ dừng lại ở những ánh sáng thực tế mà còn tìm kiếm sự mong manh của ánh đèn. Đó là ánh sáng dù “ngàn sao đua nhau nhấp nhô” nhưng vẫn có hạn trong bầu trời bao la. Ánh sáng vẫn lẻ loi, ánh sáng của đèn nhỏ lấp lánh giữa bóng tối càng khiến ta cảm thấy buồn rầu. Ánh sáng hiếm hoi của thiên nhiên được nhà văn “chộp nhanh trong cái nhìn lãng mạn. Chính ở đó là sự thơ mộng. Vừa có hiện thực vừa có sự bay bổng của con người nổi bật lên và vẫn tồn tại trong văn chương. Nhưng tất cả đều là phần của cuộc sống hàng ngày trong một cảnh sống bình thường.
Ánh sáng từ ánh đèn của chị Tí đã làm sáng lên một phần nhỏ. Nếu nhìn từ xa, bạn sẽ thấy một bức tranh hoàn chỉnh về mặt nghệ thuật với hai “gam màu' sáng tối. Khuôn mặt của phụ nữ quê mùa chất phác đã trải qua những gian khổ để kiếm bát cơm, tấm áo. Cuộc sống gia đình bận rộn và tăm tối. Nhưng mỗi tối, chị vẫn đóng góp một chút ánh sáng như thế. Mặc dù với mục đích kiếm thêm thu nhập, nhưng dường như họ chỉ bán để kiếm lời.
Vậy thì điều gì đã đưa họ ra đây? Có lẽ đó là lối sống của họ. Và phố huyện ban đêm là nơi họ tìm kiếm sự sống… Âm thanh của cuộc sống được phát ra từ những lời đối thoại, những hoạt động của con người ở đây. Mỗi người đều đóng góp một chút ánh sáng, một chút hương vị, âm thanh. Tất cả tạo nên một bức tranh về cuộc sống nghèo nàn.
Chỉ cần một vài đường nét nhỏ nhưng tất cả những người nhỏ bé xuất hiện trong tác phẩm đã tạo nên bức tranh tổng thể về cuộc sống.
Nếu ở Nam Cao là những khung cảnh thực tế đầy khốn khổ với nước mắt và đói kém, miếng ăn và sự áp bức, thì trong văn của Thạch Lam, cuộc sống thực tế được 'định lượng' bằng một lượng 'lãng mạn' nhất định. Bút pháp của ông đã mô tả một cách nhẹ nhàng và uyển chuyển. Phố huyện nghèo cũng có nhiều lý do để dân chúng phải chiến đấu để tồn tại. Nhưng ở đây có một không khí thực sự hòa hợp, ấm áp và mọi người khi rời khỏi chắc chắn giữ được sự ấm áp, dù buồn.
Sự kết hợp hài hòa giữa thực tế và lãng mạn đã giúp cho Thạch Lam có được một văn phong nhẹ nhàng, trang nhã, ẩn chứa 'bộ mặt buồn' nhân từ tuyệt vời của ông.
Quay trở lại vào sinh hoạt ban đêm tại phố huyện, sự lãng mạn không chỉ hiện diện ở cảnh quan tổng thể mà còn được tập trung vào việc miêu tả về chị em Liên. Đây là điểm nhấn mà nhà văn đã tập trung vẽ lên. Liên làm cho độc giả 'ấn tượng bởi tâm hồn sâu sắc của một con người đa cảm.
Khi bóng đêm buông xuống, cũng là lúc Liên cảm thấy nỗi buồn đầy rẫy trước sự tàn nhẫn của thời gian. Cảm giác buồn đó bắt nguồn từ phố huyện trở nên cô đơn trong tiếng trống thu không vang vọng như làm say lòng người. Một cảnh tượng làm cho chị không thể không cảm thấy thương xót. Đó là những đứa trẻ nhỏ, gầy guộc đứng giữa chợ đã vắng lặng từ lâu để tìm những mẩu kẹo que và những vật dụng cần thiết. Ấn tượng đầu tiên là Liên không phải là một trẻ con bình thường. Nỗi buồn trong lòng Liên là dấu hiệu của một sự 'trưởng thành' tâm lý.
Bức tranh về phố huyện nghèo lạc hậu, bị che giấu trong bóng tối huyền bí của phố huyện. Cuộc sống ở phố huyện đã ăn sâu vào tâm trí của Liên. Dường như nếu thiếu đi một cái gì đó của cảnh ngoại ô kia, Liên đã thốt lên rằng...
Tuy nhiên, dù có lúc tiếng cụ Thi khiến Liên sợ hãi, nhưng vẫn là một cảm giác quen thuộc, Liên vẫn thấy cụ đáng yêu và đáng thương. Mỗi cảnh đời, mỗi khung cảnh sống của mỗi người đã đi qua tâm hồn non nớt của Liên.
Cuộc sống của mỗi người đã cùng nhau tạo nên cuộc sống của cả một cộng đồng nhỏ ở vùng quê nghèo khó. Từ những mảnh đời giống như của Liên, chúng ta thấy một điểm chung rất rõ, đó là sự hạn hẹp của môi trường xã hội. Ngày qua ngày, vẫn chỉ là chợ với một vài hàng quán và những con người quen thuộc.
Nhưng ở Liên lại có một điều đặc biệt. Một hành động tưởng chừng quái dị và không ý nghĩa, đó là việc 'đợi tàu'. Nhưng đó mới thực sự là cốt lõi của tác phẩm khi tác giả vẽ nên hình ảnh Liên đợi tàu với niềm háo hức của một đứa trẻ. Chờ đợi kiên nhẫn, đón nhận, săn tìm một tín hiệu vui.
Và tàu đã đến như mong đợi, nhưng cũng chẳng kéo dài lâu. Tàu hôm nay trống trải, ánh sáng trong toa tàu cũng nhạt nhòa. Điều đó khiến lòng Liên chất chứa nỗi buồn không rõ nguồn gốc. Tàu lạnh lùng đem lại niềm vui nhất thời nhưng cũng làm nảy lên nỗi buồn không thể diễn tả. Tiếng rầm của tàu đã bị nuốt chửng bởi đêm dày, không gian của phố huyện yên lặng trở lại. Bây giờ, tâm trạng của Liên không biết nên vui hay buồn, khi niềm vui vụt tắt như nến, nhưng vui buồn có gì quan trọng, khi tất cả đều chìm trong cái ao tù của cuộc sống bé nhỏ, và việc chờ đợi chuyến tàu đêm vẫn là niềm hy vọng của Liên. 'Liên thấy mình sống giữa bao nhiêu sự xa xôi', nhưng rồi cũng 'ngập vào giấc ngủ yên tĩnh, cũng yên tĩnh như đêm ở trong phố, tĩnh mịch và đầy bóng tối'. Tương lai của Liên, một cô bé chưa trưởng thành, có khác biệt gì so với tương lai của chị Dậu trong 'Tắt đèn' của Ngô Tất Tố, cùng một bối cảnh xã hội, khi cả hai đều chạy ra giữa đêm tối, tối tăm như bóng đen của họ. Với chị Dậu, phía trước là sự tối tăm, không có ánh sáng, còn với Liên, ánh sáng trước mắt chỉ là ảo vọng, dù cuộc đời hai người này xuất phát từ hai thế giới khác nhau.
Nhưng chính sự lãng mạn nằm ở việc đợi chờ tàu và ý nghĩa của nó. Cuộc sống hối hả không làm cho Liên chìm vào sự yếu đuối và cô đơn. Đằng sau đó là một tâm hồn thèm khát sự sống có hy vọng. Mặc dù cuộc sống khó khăn, nhưng Liên vẫn tìm thấy niềm vui, tạo ra ý nghĩa trong cuộc sống. Thật sự, tâm hồn của Liên như một bài thơ hoàn chỉnh, đó là một sự thật rõ ràng mà Thạch Lam mang lại. Liên là biểu tượng của sự thật và lãng mạn trong tác phẩm, được hình thành từ một cuộc sống, được sáng tạo như một nhân vật kể chuyện.
Thành công của Thạch Lam đến từ việc kết hợp một cách hài hòa giữa bút pháp lãng mạn và xu hướng hiện thực, nhân đạo. Điều này đã làm cho mỗi tác phẩm của ông trở nên sống động và lưu luyến trong lòng độc giả. Tình người của nhà văn với nhân vật đã làm nổi bật ý nghĩa của câu chuyện lên một tầng cao mới.
Mấy mươi năm sau này, khi xã hội đã thay đổi về bản chất so với thời của những nhân vật như chị em Liên, Tố Hữu đã định nghĩa: “Thơ là hiện thực, thơ là cuộc sống, cũng là thơ.” Tuy nhiên, so sánh với truyện ngắn “Hai đứa trẻ” và nhiều tác phẩm khác của Thạch Lam, ta vẫn thấy chúng mang đậm phong cách của một bài thơ trữ tình đặc sắc, đồng thời cũng chứa đựng sâu sắc hiện thực.
Giá trị hiện thực trong tác phẩm Hai đứa trẻ - Mẫu 4
Nhà văn Thạch Lam là một trong những cây bút hàng đầu của nhóm Tự lực văn đoàn. Tác phẩm của ông thường gắn liền với cuộc sống của người nông dân, với thế mạnh và khó khăn của họ.
Mỗi truyện ngắn của nhà văn Thạch Lam đều phản ánh hiện thực cuộc sống của mình. Hai đứa trẻ là một ví dụ thành công về truyện ngắn không cần một cốt truyện phức tạp.
Trong truyện ngắn Hai đứa trẻ, không có cốt truyện phức tạp, nhưng lại chứa đựng những triết lý sâu sắc về cuộc sống, phản ánh giá trị hiện thực, về số phận đau khổ của những người sống trong bóng tối của phố huyện nghèo.
Sau khi đọc xong 'Hai đứa trẻ', ta cảm nhận rằng toàn bộ câu chuyện là một bức tranh chân thực về cuộc sống cơ cực của những người dân nghèo. Thạch Lam đã tái hiện nó một cách sống động, đặc trưng cho buổi chiều tàn lụi.
Trong tiếng trống thu không vang lên, bầu trời phương Tây nhuốm màu đỏ như lửa cháy, tiếng ếch nhái kêu từ cánh đồng xa xa vang vọng, những đám mây như hòn than sắp tàn… Thạch Lam thể hiện sự quan sát tinh tế, tỉ mỉ trong mô tả.
Khoảng không gian bao la của bầu trời và cánh đồng đẹp đẽ nhưng buồn bã hiện ra trước mắt độc giả với sự thật tuyệt đối. Trong bối cảnh đó, cuộc sống của những người nông dân nghèo khổ được Thạch Lam mô tả một cách sâu sắc.
Trên nền của cảnh đẹp đó, hai chị em Liên dọn dẹp cửa hàng tạp hóa của gia đình và ghi lại số tiền bán hàng vào sổ sách mỗi ngày. Bà cụ Thi điên đến cửa hàng mua rượu, uống một ngụm hết sạch rồi vui vẻ cười khanh khách.
Bác Siêu mang gánh phở ra bếp lửa than đỏ bùng cháy trong bóng tối. Ông hát Xẩm ngồi chờ đợi trong bóng tối. Sau đó, hai mẹ con nhà chị Tý dọn gánh hàng nước của mình. Mỗi tối, chị đều làm việc từ sớm đến khuya, bán được ít nhưng vẫn kiên trì dọn hàng.
Với ngòi bút tinh tế, sâu sắc, nhà văn Thạch Lam đã mô tả cuộc sống của những người dân ở đây một cách cực kỳ hiện thực, trong một phố huyện nghèo nàn đang chìm đắm trong cảnh chiều tàn.
Mỗi đêm, những người dân ở phố huyện nghèo khổ này đều chờ đợi một chuyến tàu đi qua. Chuyến tàu từ Hà Nội mang theo chút ánh sáng, chút hy vọng cho cuộc sống của họ.
Mỗi khi chiếc tàu đi qua với tiếng còi và tiếng bánh xe vang lên, hai chị em Liên nhìn thấy chuyến tàu với ánh sáng chói lóa vụt qua, thể hiện sức hút của nó và làm cho phố huyện sáng bừng trong một thoáng chốc.
Trên chiếc tàu, những toa tàu sang trọng chiếu sáng lung linh, ánh sáng ấy vụt qua và tan vào bóng tối của đêm tĩnh lặng, nhưng vẫn mang lại cho những người dân nhỏ bé ở đây một ít niềm vui.
Khi nhìn thấy chuyến tàu ấy, hai chị em Liên lại nhớ về những biến cố trong gia đình. Đó là những kỷ niệm xa xăm về quá khứ ở Hà Nội. Với hai chị em Liên, con tàu mang theo một phần của một thế giới khác, một thế giới sáng sủa.
Sau khi đọc xong truyện ngắn 'Hai đứa trẻ', người đọc không thể không suy ngẫm về số phận của những người dân ở đây. Hai chị em Liên và những người sống ở phố huyện mong chờ đoàn tàu đến với ánh sáng, mang theo điều gì mới mẻ.
Bởi trong cuộc sống của người dân ở phố huyện, chỉ có bóng tối vây quanh, cuộc sống khốn khổ và nghèo nàn. Họ không có niềm vui, cuộc sống mưu sinh của họ đã quá khổ nạn.
Truyện ngắn 'Hai đứa trẻ' là một tác phẩm vô cùng xuất sắc, thể hiện rõ phong cách của nhà văn Thạch Lam. Qua tác phẩm này, ta nhìn thấy rõ tinh thần nhân đạo và tính hiện thực của nhà văn Thạch Lam đối với những người dân nông dân nghèo khó.
Trong câu chuyện, màu u tối buồn bã nhưng lại phản ánh chân thực bối cảnh xã hội vào thời điểm đó.
Giá trị thực tế trong tác phẩm Hai đứa trẻ - Mẫu 5
Tác giả Thạch Lam - một nhà văn tôn trọng văn chương lành mạnh, tiến bộ và có tài về truyện ngắn, ông viết truyện mà không cần câu chuyện, nguồn tài nguyên chính để tạo nên những truyện ngắn của Thạch Lam là thế giới nội tâm của nhân vật và những cảm xúc trong cuộc sống hàng ngày. Truyện ngắn 'Hai đứa trẻ' là một tác phẩm đặc sắc thể hiện phong cách sáng tạo của Thạch Lam, không chỉ kết hợp một cách hài hòa giữa yếu tố thực tế và lãng mạn trữ tình mà còn mang trong mình những giá trị thực tế sâu sắc.
Truyện ngắn 'Hai đứa trẻ' lồng ghép cuộc sống của những người dân nghèo trong phố huyện vào bối cảnh khó khăn của đất nước trước Cách mạng tháng Tám. Hai chị em Liên - An là nhân vật chính, và câu chuyện được kể qua góc nhìn của Liên, từ đó đưa người đọc gần hơn với cuộc sống, suy nghĩ và cảm xúc của những người dân phố huyện, từ đó càng thấm thía và xót xa hơn với số phận khốn khổ, đau buồn, cuộc sống khó khăn, u tối của họ. Tác giả Thạch Lam đã thành công trong việc phản ánh bối cảnh xã hội thực tế vào tác phẩm, tạo ra hình ảnh của một phố huyện nghèo nàn trước cách mạng.
Trước hết là bức tranh của thiên nhiên thơ mộng nhưng buồn bã, cảnh phố huyện vào buổi chiều muộn với tiếng trống thu, 'áng mây hồng như hòn than sắp tàn', tiếng ếch nhái, tiếng muỗi vo ve, không khí ẩm ướt, mốc me, tất cả đều quen thuộc với hai chị em Liên và những người dân nghèo của phố huyện. Cuộc sống của họ giống như bức tranh đìu hiu, xơ xác của thiên nhiên phố huyện, là một cuộc sống nghèo khổ, khốn khó, cảnh chợ tàn chỉ còn là rác rưởi, những đứa trẻ nghèo đang vật lộn, tìm kiếm những thứ còn sót lại của những người bán hàng. Bức tranh này phản ánh thực tế của cuộc sống người dân miền Bắc nước ta trước cách mạng năm 1945, là một cuộc sống nghèo khổ. Cuộc sống về đêm, khi mọi thứ chìm trong bóng tối, càng làm nổi bật hơn cuộc sống tăm tối, u ám, rối ren, khốn khó của những người dân phố huyện. Trước tình hình đó, con người luôn ấp ủ ước mơ, khát khao, giống như cảnh đợi tàu của hai chị em Liên, đợi tàu chỉ để tìm thấy ánh sáng, sự sống động, chờ đợi để thấy điều gì đó sáng sủa hơn, khao khát một cuộc sống tốt đẹp hơn.
Ngoài giá trị thực tế, truyện ngắn 'Hai đứa trẻ' còn chứa đựng những giá trị nhân đạo sâu sắc và cao cả, bắt nguồn từ lòng thương xót, cảm thông và tình cảm của tác giả đối với số phận của những người dân nghèo phố huyện. Qua cách miêu tả và kể chuyện về cuộc sống của những con người trong phố huyện như gánh hàng nước của mẹ con chị Tí, gánh phở của bác Siêu, quán tạp hóa của chị em Liên hoặc bà cụ Thi Điên, tác giả đã thể hiện rõ sự xót xa trước tình cảnh nghèo đói, tăm tối 'An và Liên ngửi thấy mùi phở thơm, nhưng ở cái huyện nhỏ này, quà bác Siêu là một thứ quà xa xỉ, nhiều tiền, hai chị em không bao giờ mua được'. Không chỉ thương xót về sự nghèo khổ, tác giả còn cảm thấy thương cho cuộc sống đơn điệu, nhạt nhẽo của người dân phố huyện, từ sự thương xót đó Thạch Lam cũng phát hiện ra những phẩm chất tốt đẹp bên trong con người họ. Đó là sự cần cù, chăm chỉ, kiên trì, dù khó khăn nhưng vẫn cố gắng phấn đấu, dù kiếm được ít lợi nhuận nhưng vẫn cố gắng duy trì, vẫn luôn có tình yêu thương lẫn nhau và đặc biệt là vẫn luôn nuôi hy vọng và mơ ước về một tương lai sáng sủa, tốt đẹp hơn. Thạch Lam trân trọng những ước mơ, khát vọng đó, mong một chuyến tàu đi qua mang lại một thế giới mới, một nguồn ánh sáng mới khác với ánh sáng từ bếp lửa của bác Siêu, ngọn đèn dầu của chị Tí và chị em Liên.
Đọc 'Hai đứa trẻ' giống như quay lại thời xưa năm 1945, cảm nhận sâu sắc cái nghèo, cái đói vây quanh. Giá trị thực tế và nhân đạo của tác phẩm đã làm cho người đọc hiểu rõ tài năng và lòng nhân ái đáng trân trọng của nhà văn Thạch Lam.
Giá trị thực tế trong Hai đứa trẻ - Mẫu 6
Nhắc đến nhà văn Thạch Lam, ta không chỉ nhớ về một ngôn từ trong sáng, giản dị, sâu lắng mà còn nhớ về ông với những truyện ngắn kết hợp giữa thực tế và lãng mạn. 'Hai đứa trẻ' là một ví dụ điển hình.
Tác phẩm được đăng trong tập 'Nắng trong vườn' (1938), truyện ngắn này không chỉ tái hiện cuộc sống của một phố huyện nghèo mà còn như một bài thơ trữ tình đầy xúc động. Chất thực tế là chính là cuộc sống, là điều chân thực nhất, không hối hả. Chất thực tế của truyện này được thể hiện qua cuộc sống của những con người ở phố huyện. Họ sống trong cảnh ao ước, đầm lầy của cuộc đời.
Chị Tí ban ngày đi kiếm cua, tép, tối về mới bán hàng nước, hàng ngày cả ngày chỉ kiếm được ít lắm. Khách hàng của chị rất ít. Chị bán nước cho mấy ông phu gạo, phu xe, đôi khi có mấy anh lính trong huyện hoặc những người thân của thầy thừa đến mua chân tổ tôm.
Gánh hàng phở của bác Siêu trở nên quý giá hơn trong cuộc sống của người dân ở đây, vì nó là một món quà đắt đỏ. Bên cạnh đó, vợ chồng nhà bác xẩm thể hiện tình cảm bằng những tiếng đàn bầu trong im lặng, con trai nhỏ chơi đùa trên đất, nhặt rác bẩn ở ven đường. Cửa hàng của chị em Liên cũng không khác gì, ngày nào cũng chỉ bán được hai bánh rưỡi xà phòng. Bà cụ Thi rời cửa hàng với tiếng cười đầy ma quái, tan vào bóng tối. Chợ họp giữa phố đã lâu ngày không còn, chỉ còn lại rác rưởi, vỏ bưởi, lá nhân và lá mía. Dân làng dựa vào cảnh chợ để đánh giá mức sống, nhưng ở đây, Thạch Lam mô tả cảnh chợ tàn tảo. Mọi người sống bằng nghề buôn bán nhỏ, cuộc sống lảng trôi, đầy đau thương.
Đó là bức tranh chân thực về con người và cảnh vật thiên nhiên ở đây cũng không mấy tươi đẹp. Tiếng trống thu không vang lên, không gian im lặng. Âm thanh của ếch nhái, tiếng muỗi vo ve không đủ phá vỡ bầu không khí yên bình. Mọi người chỉ hy vọng vào chuyến tàu đêm đi qua để có ít ánh sáng và sự sống.
Ngoài chất hiện thực, chất lãng mạn của truyện này cũng rất rõ ràng.
Chất lãng mạn được thể hiện qua tâm trạng của nhân vật, cảnh thiên nhiên, giọng điệu và ngôn từ. Thạch Lam đưa chúng ta vào bức tranh quê yên bình nhưng thơ mộng. Có 'phương tây đỏ như lửa cháy và đám mây đỏ như hoàng hôn sắp tàn'. Buổi chiều êm đềm, với tiếng ếch kêu trong gió nhẹ. Miền quê không có ánh sáng đèn điện, chỉ có những vệt sáng nhỏ. Buổi tối ở phố huyện lãng mạn và trữ tình: 'Trời đã bắt đầu đếm, đêm mùa hạ êm như nhung, với hàng ngàn vì sao lấp lánh'. Chị em Liên nhìn vì sao, tìm kiếm Ngân Hà và con vịt theo ông Thần Nông. Bức tranh quê thú vị này làm tăng thêm sự lãng mạn cho truyện.
Nghệ thuật miêu tả tâm lý nhân vật cũng làm tăng sự lãng mạn của bức tranh này. Thạch Lam miêu tả tâm trạng của Liên rất chi tiết. Cô ấy cảm thấy 'buồn bã trước cái giờ khắc của ngày tàn'. Liên nhận biết được mùi đất, mùi quê hương. Cô ấy thương những đứa trẻ nghèo. Sau chợ, cô ấy cũng không có gì để cho chúng. Liên thương những số phận khốn khổ trong cuộc sống. Cô ấy là người nhân từ. Khi đoàn tàu đi qua, Liên nhận ra phố huyện tối đến thế nào. Trong giấc mơ, cô ấy thấy mình như ngọn đèn của hàng nước, càng sáng thì càng nhỏ bé.
Trong 'Hai đứa trẻ', không có cốt truyện phức tạp, chỉ có một sự kiện duy nhất là đoàn tàu của chị em Liên. Văn phong nhẹ nhàng, đầy màu sắc trữ tình thơ mộng. Chất hiện thực và chất lãng mạn hòa quyện để tạo nên thành công của tác phẩm và của Thạch Lam.