Phân tích hai dòng cuối trong bài Thương vợ của Tú Xương cung cấp 2 dàn ý chi tiết kèm 4 mẫu văn mẫu, giúp các bạn có thêm tài liệu tham khảo, nâng cao vốn từ vựng và kỹ năng phân tích 2 dòng thơ cuối cùng của bài Thương vợ.
Hai câu kết trong bài Thương vợ được xem như một lời chửi mắng: phê phán cuộc sống hiện thực, đề cập đến sự suy đồi của xã hội hiện nay, với sự hỗn loạn, mất mát đạo đức, và sự không công bằng. Điều này khiến cho những người tài năng và có nhân cách phải chịu đựng và vất vả để sống qua ngày, gánh chịu sự bất công và khổ đau. Dưới đây là 2 dàn ý và 4 mẫu văn mẫu phân tích hai câu cuối trong bài Thương vợ, mời các bạn tải về để tham khảo.
Dàn ý phân tích hai dòng cuối bài Thương vợ
Dàn ý thứ nhất
I. Khởi đầu
- Một vài thông tin về nhà thơ Tú Xương (Trần Tế Xương): một tác giả theo triết lý Nho giáo, dù cuộc đời anh ngắn ngủi
- Bài thơ Thương vợ được xem là một trong những tác phẩm hay và đầy cảm xúc nhất của Tú Xương, nói về bà Tú
- Giới thiệu tầm quan trọng của hai dòng thơ cuối cùng.
II. Nội dung chính
– Sống trong xã hội đầy mâu thuẫn, nơi công danh có thể mua bằng tiền, ngay cả những người tài năng như Tú Xương cũng phải trải qua những khó khăn trong cuộc sống với thi cử và sự cạnh tranh trong việc kiếm sống.
– Dù theo đuổi sự nghiệp và mục tiêu lớn trong cuộc đời, Tú Xương không thể đảm nhận vai trò trụ cột của một người đàn ông trong gia đình. Mọi gánh nặng của cuộc sống, trách nhiệm với gia đình đều nén lại trên vai yếu ớt của bà Tú.
– Bà Tú đã hy sinh với sự chăm chỉ, cần cù trong công việc buôn bán để nuôi sống gia đình mình mặc cho khó khăn và bon chen.
– Tú Xương tự mỉa mai bản thân mình khi xem mình không khác gì bốn đứa con nhỏ.
– Ông châm biếm với bản thân, đồng thời thể hiện sự trân trọng và đồng cảm với sự vất vả, cống hiến của bà Tú khi ông nói về cuộc sống của bà như “lặn lội thân cò”, “eo sèo mặt nước”.
– Hiểu rõ hơn nỗi đau của bà Tú, Tú Xương tự trách mình nhiều hơn.
– Sử dụng ngôn ngữ gần gũi, Tú Xương lên án xã hội phong kiến đầy bạc bẽo, gây ra nhiều thách thức cho con người.
–> Xã hội phức tạp đó khiến Tú Xương phải đối mặt với cuộc thi cử và trở thành một người vô dụng, gánh nặng cho vợ và con cái.
– Tác giả nhận ra nỗi đau của vợ mình và nhận thức về sự thiếu sót của bản thân trong việc chăm sóc gia đình, do đó ông thừa nhận mình đã làm người chồng hờ hững.
III. Kết luận
- Đề cao những đặc điểm nghệ thuật đặc sắc của hai câu kết trong bài Thương vợ.
- Liên kết, diễn đạt quan điểm, suy nghĩ cá nhân về vai trò của phụ nữ trong xã hội hiện đại.
Dàn ý thứ 2
1. Khởi đầu
- Trong cuộc đời ngắn ngủi chỉ kéo dài khoảng 37 năm, Tú Xương đã để lại một sự nghiệp thơ với hơn 100 tác phẩm, đặc biệt là việc ông dành phần lớn cho việc viết về người vợ mến yêu - bà Tú.
- Bài thơ Thương vợ được xem là một trong những tác phẩm đặc sắc và xúc động nhất của Tú Xương khi miêu tả về bà Tú. Tình cảm đó được thể hiện một cách chân thực và rõ ràng nhất ở hai câu cuối tựa như lời 'chửi' của bài thơ 'Cha mẹ thói đời ăn ở bạc/Có chồng hờ hững cũng như không'.
* Tổng quan:
- Thương vợ được xem là một bài thơ tiêu biểu về đề tài tình yêu của Tú Xương, trong bối cảnh xã hội phong kiến cổ điển, mà ở đó, việc trọng nam khinh nữ là điều bình thường và hiển nhiên, ít có các tác phẩm tập trung vào phụ nữ.
- Nam giới trong xã hội phong kiến thường coi việc phụ nữ phải chịu đựng khó khăn, gánh nặng của gia đình là điều tự nhiên.
- Tú Xương là một nhà thơ có tâm hồn sâu sắc và tài năng vượt trội, điều này đã thể hiện trong cách ông hiểu biết và chia sẻ nỗi đau của vợ trong thơ ca của mình một cách chân thành và gần gũi.
- Sự nghiệp thơ của Tú Xương, dù vĩ đại, cũng phần nào được đóng góp bởi người vợ nhiệt tình và kiên nhẫn, người luôn chăm sóc cho gia đình mình mà không ngại khó khăn, cống hiến cho chồng và con cái.
* Hai câu cuối thơ thực chất là một phần 'trách'
- Trong bài thơ, Tú Xương chỉ trích cuộc sống, xã hội hiện tại với sự bất ổn và sự suy đồi đạo đức, khiến cho những người tài năng và đầy lòng nhân ái phải đối mặt với những khó khăn, cảnh người vợ phải vật vả kiếm sống.
- Tú Xương cũng tự trách mình khi không thể làm được nhiều hơn, chỉ biết nhận lương vợ và nhìn người vợ mưu sinh vất vả, không khỏi cảm thấy đau lòng và vô cùng bất lực.
- Trách cuộc sống, trách bản thân, Tú Xương cũng chỉ trách những người chồng lười biếng, ham thú vui, không quan tâm đến khổ cực của vợ mình, không sẻ chia và thông cảm.
3. Kết bài
- Bài thơ Thương vợ đã thể hiện một cách sâu sắc và cảm động tình cảm chân thành của người chồng dành cho vợ mình là bà Tú.
- Hai câu thơ cuối là lời từ tâm sâu thẳm, là sự phản kháng của Tú Xương trước gian nan của cuộc sống, là lời tự trách đầy đau thương, chua xót của ông với chính bản thân và với những người chồng không đáng để vợ phải gánh vác mọi khó khăn, gánh nặng của cuộc đời.
Phân tích hai câu cuối bài Thương vợ - Mẫu 1
Trần Tế Xương (1870-1907), thường được biết đến với biệt danh Tú Xương, quê gốc tại Nam Định, là một nhà thơ có tâm hồn sâu lắng và tài năng. Ông không gặp may mắn trong con đường công danh do không thành công trong kỳ thi cử. Thay vào đó, ông tìm sự an ủi và niềm vui trong việc sáng tác văn chương để xua tan nỗi buồn và sự day dứt. Thơ văn của ông kết hợp giữa tình cảm trữ tình, trào phúng và hiện thực sâu sắc, tạo nên những tác phẩm đặc sắc về thời đại đầy rẫy biến động xã hội. Mặc dù cuộc đời ông ngắn ngủi chỉ kéo dài khoảng 37 năm, nhưng ông để lại một di sản thơ ca phong phú với 100 tác phẩm, trong đó có bài thơ Thương Vợ, một trong những tác phẩm đặc sắc nhất của ông viết về người vợ tào khang - bà Tú. Trong bài thơ này, tình cảm của ông dành cho vợ được thể hiện một cách chân thực và rõ nét, đặc biệt là qua hai câu kết tựa như lời 'chửi' của bài thơ: 'Cha mẹ thói đời ăn ở bạc/Có chồng hờ hững cũng như không'.
Bài thơ Thương Vợ của Tú Xương là một minh chứng rõ ràng cho tình yêu trung thành và sâu sắc của ông dành cho vợ mình là bà Tú. Trong một thời kỳ mà văn chương thường ít quan tâm đến đề tài về người vợ và phụ nữ, bài thơ này nổi bật với sự trữ tình và lòng trân trọng đối với người phụ nữ trong gia đình. Thường thì, nam giới được coi là trung tâm và phụ nữ phải hy sinh hết mình cho hạnh phúc của chồng con, nhưng Tú Xương đã có cái nhìn khác. Ông không chỉ viết để ca ngợi vợ mình, mà còn là để thể hiện sự thông cảm và đồng cảm với những gánh nặng mà vợ phải chịu đựng. Ông không lấy việc viết thơ như một cách để trốn tránh trách nhiệm, mà ngược lại, ông đưa những tâm hồn và tình cảm chân thành của mình vào những dòng văn chương, với ngôn từ giản dị và chân thực, thể hiện sự trùng khơi và hiện thực của cuộc sống.
Hai câu kết trong bài thơ Thương Vợ của Tú Xương, đích xác, có vẻ như là một lời 'chửi' nhẹ nhàng. 'Cha mẹ thói đời ăn ở bạc, Có chồng hờ hững cũng như không'. Từ 'Cha mẹ' ở đây không có ý chỉ trích phụ huynh, mà thể hiện sự bất mãn của Tú Xương với một cuộc sống mà ông không thể thành công, không thể thể hiện hết tài năng của mình, dù đã cố gắng thi đỗ và lao đầu vào công việc văn chương. Ông cảm thấy sống trong một xã hội mà giá trị văn hóa và đạo đức đã bị mất đi, khiến những người tài năng như ông không được công nhận và đánh giá đúng mức. Tú Xương biểu đạt sự buồn bã và tiếc nuối trước sự mất mát của tài năng và cơ hội trong cuộc đời, cũng như sự mất đi của những giá trị truyền thống.
'Chửi đời, chửi mình', Tú Xương không chỉ trách móc bản thân mình, mà còn trách móc những người chồng lười biếng, ham vui chơi, không quan tâm đến sự khó khăn của vợ mình, không chia sẻ và không thông cảm.
'Thương vợ' của Tú Xương là một bài thơ sâu sắc, đầy cảm xúc, thể hiện lòng trung thành và tôn trọng của một người chồng dành cho vợ. Hai câu kết cuối cùng của bài thơ này không chỉ là những lời tỏ lòng bi thương và phản đối của Tú Xương đối với cuộc sống đầy gian truân và không công bằng, mà còn là sự phản ứng chân thành của ông trước sự bất công và đau thương trong cuộc sống, cũng như sự không công bằng và thất vọng của mình, với cả những người chồng không đáng để vợ phải chịu đựng mọi gian khổ, gánh nặng của cuộc đời.
Tiếng chửi đời ấy, cũng là tiếng tự chửi mình của Tú Xương, ông tự trách mình bất tài, vô dụng không thể san sẻ bớt gánh nặng cho vợ, mà chỉ biết làm một người chồng ngày ngày ăn lương vợ, giương mắt nhìn vợ mình chịu biết bao khó nhọc. Như vậy bà Tú đúng như lời Tú Xương nói 'Có chồng hờ hững cũng như không', dưới chế độ phong kiến, đạo lí vẫn là người chồng gồng gánh việc mưu sinh, là trụ cột của cả gia đình, còn người vợ có trách nhiệm tề gia nội trợ, nuôi dạy con cái, thượng đế sinh ra đàn ông và đàn bà thực tế cũng đã có ý như thế rồi. Thế nhưng trong gia đình của Tú Xương thì lại khác, một mình bà Tú gánh cả hai gánh nặng ấy trên vai, bà không nỡ để chồng đi làm thuê cho bè lũ tay sai, cho quân xâm lược mà ông vốn ghét cay ghét đắng, bà cũng chẳng yên tâm để ông bếp núc, con cái, thế là bà ôm tất. Ý thức được hoàn cảnh gia đình, Tú Xương lại càng thêm tự trách, càng thêm đau đớn và căm ghét cái xã hội đẩy đưa, đốn mạt lúc bấy giờ.
Nhưng phải chăng Tú Xương chỉ chửi đời, chửi mình? Tú Xương còn chửi cả những kẻ giống mình nữa, ông chửi những kẻ bạc bẽo, tinh ăn lười làm, thích hưởng thụ, coi vợ là người ăn kẻ ở, phải phục dịch cho những thói ăn chơi, hưởng thụ của mình. Chửi những ông chồng, những kẻ đốn mạt, nỡ vứt lên đôi vai người vợ kết tóc những gánh nặng chất chồng, nhưng lại chẳng có lấy một sự day dứt, thương cảm, không biết tôn trọng yêu quý vợ mình, để những người phụ nữ bất hạnh ấy phải chịu biết bao đắng cay, khổ cực của cuộc đời. Như vậy đúng với cái câu 'Có chồng hờ hững cũng như không' thật, chẳng bằng họ không lấy chồng có khi cuộc đời lại đỡ vất vả.
Bài thơ Thương vợ đã thể hiện một cách sâu sắc và cảm động tình cảm chân thành của người chồng dành cho vợ mình, dẫu rằng ông không cho bà được một cuộc sống ấm no, êm đềm thế nhưng cách mà ông tôn trọng, yêu thương bà Tú khiến bà có một chỗ dựa tinh thần vững chắc, là động lực để bà Tú tiếp tục cố gắng vì gia đình, điều ấy khiến người ta thật ngưỡng mộ. Hai câu thơ cuối là những lời tâm huyết tận đáy lòng, cũng là tiếng phản kháng của Tú Xương trước cuộc đời đen bạc, là lời tự trách đầy chua xót, cay đắng của ông với chính bản thân, với cả những đức ông chồng tệ hại, vô dụng, để vợ phải vất vả cực nhọc cả cuộc đời.
Phân tích hai câu cuối bài Thương vợ - Mẫu 2
Ai cũng biết hai câu kết trong bài Thương vợ là Trần Tế Xương mượn lời bà Tú để chửi đời và chửi mình. Chính cái thời buổi nhố nhăng dở tây dở ta lúc bấy giờ đã buộc một người giỏi thơ phú văn chương như ông phải lận đận ở chốn trường thi. “Thi không ăn ớt thế mà cay“, “Đau quá đòn hằn rát hơn lửa bỏng“, “Đệ nhất buồn là cái hỏng thi” ...Vì hỏng thi liên tục nên Tú Xương không thể đỡ đần san sẻ cái gánh nặng gia đình với vợ. Ông đành để một mình bà “nuôi đủ năm con với một chồng”. Ông chửi cái vô tích sự của mình nhưng chỉ dừng lại ở đó tôi e chúng ta chưa hiểu hết Tú Xương và nỗi niềm thương vợ của ông
Tú Xương không chỉ yêu thương sự cực nhọc của bà Tú khi bà 'lặn lội thân cò', 'eo sèo mặt nước'... mà còn sự thiếu vắng hạnh phúc trong cuộc sống tình cảm của bà. Chỉ khi nào nhà thơ hiểu rõ tận cùng nỗi lòng của bà Tú, thì mới có thể viết ra hai câu kết đầy ẩn ý như vậy. Sức nặng của bài thơ nằm ở hai câu này. Bà Tú chấp nhận mọi gian khổ trong việc kinh doanh. Dù phải nuôi chồng, nuôi con, bà cũng chấp nhận như là định mệnh. Bà không than phiền trách móc ông. Bà hiểu rõ hơn ai hết rằng chồng bà đang phải mất nhiều công sức để làm thơ thảo với mọi người. Nếu có lúc ông Tú hờ hững với bà, chắc bà cũng sẽ thông cảm và tha thứ.
Điều mà nhà thơ ân hận nhất, đau đớn nhất và luôn cắn rứt lương tâm nhất có lẽ là ông tự nhận ra rằng có thể ông đã từng lúc nào đó thờ ơ với vợ. Ông là người hào phóng và nhiều tình. Chính ông đã từng 'đi hát mất ô', chính ông đã từng nói ra những lời trêu đùa nhưng cũng là thật:
'Chỉ e rày gió mai mưa
Lấy gì đi sớm về trưa với tình'
Chính ông đã từng nhắn với người mà ông dùng áo bông che đầu khi trời đổ mưa:
'Ai ơi có nhớ ai không
Trời mưa một chiếc áo bông che đầu
Nào ai có tiếc ai đâu
Áo bông ai ướt khăn đầu ai khô”.
Vì vậy, ông tự nhận ra rằng mình đã ít nhiều coi thường bà Tú. Bỏ qua người 'lặn lội thân cò', 'eo sèo mặt nước' để nuôi con và nuôi chính bản thân. Sự thờ ơ đó thực sự là đáng trách. Tú Xương thừa nhận mình có lỗi với bà. Mỗi khi tự trách, ông lại yêu vợ hơn. Nhà thơ hiểu rằng sự thờ ơ của ông làm cho bà Tú thức trắn đêm đêm. Nếu bà có phản ứng tức giận, đó là điều dễ hiểu. Ông cha đã nói “ớt nào mà không cay, gái nào mà không ghen chồng”. Trước kia, nữ sĩ Hồ Xuân Hương đã từng phê phán:
“Chém cha cái kiếp lấy chồng chung
Năm thì mười hoạ hay chăng chớ
Một tháng đôi lần có cũng không ...”
Sự thờ ơ này khiến ông Tú cảm thấy mình bất lương với bà. Ông đặt bản thân và con cái vào hàng đầu nhưng lại có suy nghĩ về người khác, điều đó mới thực sự là bất lương! Sự không quan tâm này không giúp được gì cho vợ vì phải lo công việc chưa chắc đã là bất lương. Bất lương ở đây chính là sự bất lương trong tình cảm. Tú Xương cảm thấy mình xứng đáng bị chỉ trích.
Thời Tú Xương, việc đàn ông có nhiều vợ hay nhiều thiếp là điều thông thường. Huống chi, nhà thơ còn là người phóng túng và nhiều tình. Việc ông sáng tác thơ tặng người khác không phải là hiếm. Tiên sinh Tản Đà cũng từng làm thơ tặng những người tình không quen biết, nhưng chỉ có Tú Xương là công khai thừa nhận sự thờ ơ của mình đối với vợ.
Theo tôi, từ “hờ hững” là từ quan trọng nhất trong bài thơ vì nó chứa đựng rất nhiều ý nghĩa. Hiểu được nhu cầu tình cảm của bà Tú và phụ nữ nói chung là một phần của giá trị nhân văn. “Có chồng hờ hững cũng như không” không chỉ là tâm trạng của bà Tú mà còn là tâm trạng của tất cả phụ nữ trên thế giới.
“Có chồng hờ hững cũng như không” là một lời cảnh báo mạnh mẽ của Tú Xương đến tất cả những người đàn ông lãng tử và phóng túng như ông: Hãy quan tâm đến cảm xúc của phụ nữ! Điều đó không chỉ là một thông điệp mà còn là một trong những chìa khóa quan trọng để giữ cho hạnh phúc gia đình được bền vững.
Phân tích hai câu cuối bài Thương vợ - Mẫu 3
Bài thơ “Thương vợ” không chỉ thể hiện sự yêu thương và sự trân trọng của Trần Tế Xương đối với sự hy sinh và tận tâm của bà Tú mà còn là lời tự trách, tự châm biếm về bản thân của nhà thơ khi mặc dù là nam giới nhưng lại không thể hoàn thành trách nhiệm với gia đình mà mãi lạc hậu với con đường sự nghiệp, gánh nặng cho đôi vai yếu ớt của vợ. Sự bất mãn với thời đại, lời tự trách về sự lơ đễnh của bản thân được Trần Tế Xương thể hiện rõ nét qua hai câu thơ cuối của bài thơ:
“Cha mẹ thói đời ăn ở bạc
Có chồng hờ hững cũng như không”
Sống trong xã hội hiện đại, nơi danh vọng có thể được mua với tiền, thì ngay cả những con người tài năng như Trần Tế Xương cũng phải chịu cảm giác mất mát trong cuộc đấu tranh với sự nghiệp, với việc phải đối mặt với những thử thách của cuộc sống. Ông đã từng nhiều lần bày tỏ sự thất vọng về sự khắc nghiệt của cuộc sống và sự đau đớn của việc chiến đấu cho sự thành công, như trong câu: “Thi không ăn ớt thế mà cay” hay “Đau quá đòn hằn rát hơn lửa bỏng”.
Suốt cuộc đời, Tú Xương mãi theo đuổi con đường danh vọng, nhưng không thể hoàn thành vai trò quan trọng trong gia đình. Gánh nặng cuộc sống đè nặng lên đôi vai gầy yếu của bà Tú, khiến chồng con phải cật lực kiếm sống.
Tác giả Tú Xương tự giễu mình khi đặt bản thân vào vai trò ngang hàng với bốn đứa con. Ông thể hiện sự trân trọng và cảm thương đối với vất vả của bà Tú, người luôn chịu đựng mọi khó khăn để lo cho gia đình.
Càng hiểu được nỗi đau của bà Tú, tác giả Tế Xương càng tự trách mình. Hai câu thơ cuối cùng của bài thơ phản ánh sự phẫn uất trước cái bạc bẽo của cuộc sống và sự vô dụng của bản thân.
“Cha mẹ sống trong cảnh nghèo khó, chồng hờ hững nhưng không hơn không kém.”
Bằng ngôn từ đời thường, tác giả Tế Xương lên án xã hội phong kiến đầy bạc bẽo, mang đến những thử thách khắc nghiệt cho con người. Xã hội đã làm cho Tú Xương trở nên vô dụng trong cuộc sống gia đình.
“Châm chọc cha mẹ, kết hôn không bền lâu.
Vì theo đuổi sự nghiệp, Tế Xương trở thành người chồng không quan tâm đến vợ. Ông nhận ra sự thiếu sót trong trách nhiệm gia đình của mình và thừa nhận mình là người chồng lơ đẹp.
Hai câu cuối của bài thơ thể hiện sự bất mãn của Tế Xương trước cuộc sống bạc bẽo. Ông tự nhận mình chưa hoàn thành trách nhiệm với gia đình và trân trọng lòng của vợ.
Phân tích 2 câu cuối trong bài Thương vợ - Mẫu 4
Trần Tế Xương (hay còn gọi là Tú Xương) là một nhà thơ trào phúng nổi tiếng, được biết đến với dòng thơ trữ tình mang tính chất châm biếm và đả kích.
Trong 2 câu thơ cuối, tình cảm yêu thương vợ của ông Tú được thể hiện rõ.
“Cha mẹ sống trong cảnh nghèo khó, có chồng không quan tâm cũng chẳng khác gì không.”
Đây là lời tự trách bản thân của ông Tú khiến lòng bà Tú đau khổ. Ông tự cho mình là kẻ vô trách nhiệm, khiến vợ phải chịu đựng nhiều khổ cực hơn.
“Quan đó ăn lương của vợ, nhưng lại đem ra nói chuyện trăm năm trước.”
(Quan tại nhà)
Thơ của Tú Xương mang sự cay đắng nhưng lại chân thành, trào phúng nhưng cũng trữ tình, phong lưu nhưng không quên chung thủy. Ông chửi đời nhưng cũng chửi mình, cười mình nhưng cũng khóc mình, trong những nỗi đau về công danh và thân phận.
Từ đó, chúng ta thấy rõ hiện thực, nơi con người coi thường phụ nữ, họ chỉ quan tâm đến danh vọng và tiền bạc.
Ngôn từ bình dị nhưng đầy cảm xúc, là một đặc điểm nổi bật trong thơ của Tú Xương. Ông cũng sử dụng hình ảnh con cò trong dân gian để miêu tả bà Tú.
Ngoài ra, chúng ta cảm nhận được sự ngợi ca, trân trọng mà tác giả dành cho vợ, nhưng đằng sau đó là sự tự trách và niềm tiếc nuối của chính ông.
Phân tích 2 câu thơ cuối của bài Thương vợ, chúng ta cảm nhận được phong cách nghệ thuật của Tú Xương: nghiêm túc nhưng cũng hài hước, trào phúng. Thông qua bài thơ, người đọc cảm nhận được sự chân thành và thấm thía của Tú Xương về cuộc đời và thời cuộc mình sống.