Phân tích hình ảnh nhân vật ông Tú giúp ta hiểu sâu sắc tình cảm của ông Tú đối với vợ, điều này góp phần tạo nên sự hay của bài thơ. Dưới đây là 6 bài phân tích hình ảnh ông Tú hay nhất, mời các bạn cùng theo dõi.
Dàn ý phân tích hình ảnh nhân vật ông Tú trong bài thơ Thương vợ
a) Mở đầu
- Giới thiệu sơ lược về tác giả và tác phẩm:
- Trần Tế Xương - một tác giả nổi tiếng trong văn học Việt Nam với những bài thơ sâu sắc ảnh hưởng bởi tư tưởng Nho giáo.
- Thương vợ là một bài thơ đáng chú ý của Trần Tế Xương.
- Tổng quan về hình ảnh nhân vật ông Tú: không chỉ thành công trong việc vẽ nét bà Tú mà bài thơ còn thành công trong việc vẽ nét nhân vật ông Tú với những phẩm chất tốt đẹp.
b) Thân thơ
* Ông Tú là người có trái tim thương vợ sâu sắc
- Ông Tú cảm thông với sự vất vả, lao động của bà Tú
- Ông thương bà Tú vì cô phải chịu đựng gánh nặng của gia đình, suốt cả năm phải làm việc chăm chỉ ở 'mom sông':
- 'Quanh năm': làm việc liên tục, không nghỉ ngơi một ngày nào
- 'Mom sông': đất bên bờ sông không ổn định, dễ sạt lở.
=> Ông Tú thương thân cảnh khó khăn, làm ăn khó khăn, không bền vững, bởi bà không chỉ nuôi con mà còn phải nuôi chồng.
- Ông thương vợ phải lặn lội, bươn chải trong công việc:
- 'Lặn lội': Đồng nghĩa với sự lao động vất vả, nỗ lực không ngớt, cảm thấy nhiều khổ đau và lo lắng
- Hình ảnh 'thân cò': Thể hiện sự gian khổ, đơn độc trong cuộc sống lao lực, kiếm sống
- 'khi quãng vắng': Thời gian, không gian lạnh lẽo và hoang vắng, chứa đựng nhiều mối nguy hiểm và lo lắng
- 'Eo sèo… buổi đò đông': Cảnh tình huống chật kín, xô bồ, tranh giành, ẩn chứa sự bất an
- Buổi đò đông: Tình trạng chen lấn, đông đúc, cạnh tranh
-> Tấm lòng thương cảm, xót xa của ông Tú trước hoàn cảnh khó khăn của bà Tú
- Ông nhận ra và trân trọng, ca ngợi những phẩm chất tốt đẹp của vợ
Ông ngưỡng mộ bởi dù khó khăn nhưng bà Tú vẫn luôn quan tâm, chu đáo đối với chồng con:
'Nuôi': Chăm sóc toàn diện 'vợ, con cả năm với một chồng': Bà Tú phải một mình nuôi cả gia đình, không bỏ bê
Ông Tú đánh giá cao sự siêng năng, cần cù và đảm đang của vợ:
'Một duyên hai nợ âu đành phận': Sẵn lòng chấp nhận, không than phiền
'Dám quản công': Tính hy sinh cao quý, không nói ra, của bà vợ, sự chịu đựng, cần cù, kiên nhẫn.
=> Trần Tế Xương đã trân trọng ca ngợi những phẩm chất cao đẹp của bà Tú: Tính chịu khó, lòng hy sinh toàn bộ vì chồng con của bà Tú.
* Ông nhận thức rằng mình là gánh nặng của vợ và bày tỏ sự bất bình trước sự bất công xã hội áp đặt lên phụ nữ
- Trong xã hội phong kiến, đàn ông thường có sự nghiệp cao để lo cho vợ con, nhưng ông Tú nhận ra mình là gánh nặng của vợ.
- 'Nuôi đủ năm con với một chồng': Tú Xương nhận thức hoàn cảnh của mình, thừa nhận khiếm khuyết, phụ thuộc vào vợ để nuôi con cả hai, coi mình như một đứa con đặc biệt.
- 'Một duyên hai nợ': Tú Xương tự nhận mình là 'nợ' mà bà Tú phải gánh chịu.
- 'Có chồng hờ hững cũng như không': Tú Xương nhận thức rằng sự hờ hững của mình cũng là một biểu hiện của thực tế cuộc sống.
- Từ tấm lòng thương vợ, Tú Xương lên tiếng chửi thề về thực tế xã hội bất công đối với phụ nữ.
'Cha mẹ thói đời ăn ở bạc': Lên án thực tế, xã hội quá bất công với phụ nữ, buộc họ phải chịu đựng nhiều khổ cực, vất vả.
=> Bức xúc trước hiện thực, Tú Xương lên tiếng chửi mắng, căm phẫn xã hội đẩy người phụ nữ vào bất công.
c) Kết bài
- Tuyên dương những nét nghệ thuật tiêu biểu giúp thành công hình ảnh ông Tú trong thơ
- Chia sẻ suy nghĩ cá nhân
Phân tích hình ảnh ông Tú trong bài Thương vợ - Mẫu 1
Trong thơ của Tú Xương, có một chủ đề riêng viết về người vợ – bà Tú. Trong các bài thơ này, bà Tú luôn là nhân vật được nhấn mạnh trước và ông Tú là hình ảnh khuất sau. Mặc dù chỉ được đề cập thoáng qua nhưng hình tượng ông Tú khiến người đọc ấn tượng, ghi nhớ về một người đàn ông yêu thương và trân trọng vợ mình. Trong bài thơ Thương vợ, hình ảnh ông Tú cũng được nhắc đến và gây ấn tượng sâu sắc với người đọc.
Bài thơ nổi bật là phác họa chân dung bà Tú, người phụ nữ chăm chỉ, tận tâm 'quanh năm buôn bán ở mom sông' để nuôi sống gia đình. Nhưng đằng sau hình ảnh chủ đạo đó là một bức tranh khác không kém phần đặc sắc về ông Tú với tấm lòng yêu thương, quý trọng và biết ơn vợ. Ông cũng là người có nhân cách cao đẹp.
Trước hết, Tú Xương là người có tình yêu thương sâu sắc đối với vợ:
Quanh năm buôn bán ở mom sông
Nuôi đủ năm con với một chồng.
Ông dù không tham gia buôn bán cùng vợ nhưng trái tim và ánh mắt ông luôn hướng về bà, để quan sát và yêu thương khi bà phải trải qua những vất vả, cực nhọc. Đặc biệt, sự trân quý, yêu thương đó được thể hiện rõ nhất trong câu thơ: “Nuôi đủ năm con với một chồng”, đây là lời ông công nhận, coi trọng công sức của vợ. Xuân Diệu đã từng nhận xét: “Chồng cũng là một thứ con dại, cần được nuôi dưỡng. Đếm con, năm con chứ ai lại đếm chồng, một chồng – vì phải nuôi như con cho nên mới liệt ngang hàng mà đếm để nuôi cho đủ”. Đặc biệt chữ “đủ” gợi cho ta nhiều ý nghĩa, nhiều cách hiểu: đủ thành viên trong gia đình: cha và con; đủ mọi thứ cần thiết: “Cơm hai bữa, cá kho rau muống/ Quà một chiều: khoai lang, lúa ngô”. Đồng thời ông Tú cũng tự tách bản thân ra để cảm nhận tình yêu thương của vợ và dành lời tri ân sâu sắc cho bà. Chỉ khi là người yêu thương, trân trọng vợ hết lòng, ông mới có thể hạ cao cái tôi của mình để nói lời tri ân, cảm ơn sâu sắc đối với vợ.
Không chỉ thế, Tú Xương còn là người có nhân cách, điều đó được thể hiện rõ nhất qua lời tự trách: “Một duyên hai nợ âu đành phận”. Bà Tú đã nhận ông là duyên, nhưng đồng thời cũng là nợ, là gánh nặng. Duyên là ít nhưng nợ là nhiều. Ông tự nhận mình chính là cái nợ mà bà phải gánh chịu, bà có trách nhiệm phải trang trải. Mặc dù gánh trên vai trách nhiệm nặng nề nhưng người vợ không hề ca thán, như một lẽ thường tình của người phụ nữ Việt Nam, bà sẵn sàng hy sinh tất cả cho chồng con. Câu nói “âu đành phận” “dám quản công” như một lời của Tú Xương nói lên nỗi lòng của người chồng yêu vợ và có nhân cách.
Cha mẹ vốn có thói quen thường sống kiểu kết giao bạc, khiến cho việc có chồng nhưng như không có chồng
Những lời chửi rủa đời sống thường được xem như lời bày tỏ bất mãn của bà Tú, thế nhưng thực chất đó là lời tác giả tự chỉ trích bản thân, tự vạch mặt bản thân, thể hiện tình cảm đặc biệt mà Tú Xương dành cho người vợ. Điều này có thể hiểu là những quy tắc nghiêm ngặt, cổ hủ của chế độ phong kiến đã đẩy người phụ nữ vào cuộc sống khó khăn, vất vả, thậm chí nguy hiểm. Đồng thời là sự vô tình của người đàn ông, không quan tâm, không chia sẻ những gian khổ trong cuộc sống cùng vợ. Lời chửi rủa là cách thể hiện sự phẫn uất, song chứa đựng biết bao tình cảm yêu thương, sự trân trọng và lòng biết ơn mà Tú Xương dành cho vợ
Bằng cách sử dụng ngôn ngữ giản dị, tình cảm chân thành sâu sắc, Tú Xương đã đóng góp một cảm xúc mới vào văn học trung đại Việt Nam. Bài thơ không chỉ thể hiện sự cố gắng, hy sinh của bà Tú, mà còn là sự yêu thương, lòng biết ơn mà tác giả dành cho người vợ. Qua đó còn phản ánh được nhân cách cao đẹp của Tú Xương
Phân tích hình ảnh ông Tú trong bài thơ 'Thương vợ - Mẫu 2'
Thường thì thơ về người vợ đã hiếm, huống chi là thơ về vợ khi còn sống. Các nhà thơ thường chỉ sáng tác khi người bạn đời đã khuất, điều này càng là điều đáng tiếc khi người vợ đi vào sử thi chỉ sau khi qua đời. Bà Tú có thể đã phải gánh chịu những gian khổ của cuộc sống, nhưng lại có được niềm hạnh phúc mà nhiều người vợ trước đây không được. Ngay cả khi còn sống, bà đã xuất hiện trong bài thơ của ông với tất cả tình yêu thương và sự trân trọng từ chồng mình. Ông Tú đã phải yêu vợ nhiều lắm thì mới hiểu và sáng tác được như thế. Trong bài thơ, ông ta thấy hình ảnh của bà Tú hiện lên phía trước, ông Tú thì lặng lẽ theo sau
Trong bài thơ, hình ảnh bà Tú hiện lên rõ nét qua những nét vẽ của Tú Xương, nhưng để làm được điều đó thì ông phải là một người chồng yêu thương và hiểu vợ rất nhiều. Ông luôn theo dõi những bước đi đầy gian truân của bà Tú, thương nhưng chẳng biết làm gì, chỉ biết thể hiện qua thơ ca. Bằng những lời thơ chân chất, mộc mạc chân thành, Tú Xương đã miêu tả rõ nét hình ảnh bà Tú với tình yêu thương da diết. Mỗi chữ trong thơ Tú Xương đều chứa đựng bao tình cảm, yêu thương và lòng cảm phục sâu sắc:
'Nuôi đủ năm con với một chồng'
Từ “đủ” trong “nuôi đủ” nói rõ số lượng và chất lượng. Bà Tú nuôi cả con, cả chồng, đảm bảo đến mức: “Cơm hai bữa cá kho rau muống. Quà một chiều: khoai lang, lúa ngô”. Tuy chỉ ẩn hiện đằng sau hình ảnh bà Tú, khó thấy, nhưng khi đã thấy rồi thì ấn tượng thật sâu đậm, ông Tú không xuất hiện trực tiếp nhưng vẫn hiển hiện qua từng câu thơ. Đằng sau lời hài hước là một tấm lòng không chỉ thương mà còn tri ân vợ. Có người cho rằng, trong câu thơ trên, ông Tú tự coi mình là một đứa con đặc biệt để bà Tú phải nuôi. Tú Xương không gộp mình với con để nói mà tách riêng rẽ là để ông tự riêng tri ân vợ. Nhà thơ không chỉ cảm phục và biết ơn sự hi sinh rất mực của vợ mà ông còn tự trách mình, tự lên án bản thân. Ông không dựa vào duyên số để trút bỏ trách nhiệm. Bà Tú lấy ông là do duyên, nhưng duyên một mà nợ hai. Tú Xương tự coi mình là cái nợ mà bà Tú phải gánh chịu. Nợ gấp đôi duyên, duyên ít, nợ nhiều. Ông chửi thói đời bạc bẽo, vì thói đời là một nguyên nhân sâu xa khiến bà Tú phải khổ, sự hờ hững của ông với vợ con cũng là một biểu hiện của thói đời bạc bẽo.
Trong xã hội đã có quy tắc không viết cho người phụ nữ: “Xuất giá tống phu”, đối với quan hệ vợ chồng thì “phu xướng, phụ tuỳ” thế mà có một nhà thơ dám tự nhận mình là người ăn bám vợ, không chỉ nhận ra thiếu sót mà còn dám tự nhận khuyết điểm. Một con người như thế chẳng đẹp lắm sao. Tên bài thơ 'Thương vợ' chưa nói hết sự sâu sắc trong tình cảm của Tú Xương đối với vợ cũng như chưa thể hiện đầy đủ vẻ đẹp nhân bản của tâm hồn Tú Xương. Ở bài thơ này, tác giả không chỉ biết thương vợ mà còn biết ơn vợ, không chỉ để lên án thói đời mà còn là để trách bản thân. Nhà thơ dám tự nhận khuyết điểm, càng thấy mình khiếm khuyết, càng thương yêu, quý trọng vợ hơn.
Tình yêu thương, quý trọng vợ là cảm xúc có phần mới mẻ so với những cảm xúc quen thuộc trong văn học trung đại. Cảm xúc mới mẻ đó lại được diễn tả bằng hình ảnh và ngôn ngữ quen thuộc của văn học dân gian, chứng tỏ hồn thơ Tú Xương vừa mới lạ, độc đáo vẫn rất gần gũi với mọi người, vẫn có gốc rễ sâu xa trong tâm thức dân tộc.
Phân tích hình ảnh ông Tú trong bài Thương vợ - Mẫu 3
Trong lịch sử văn học trung đại Việt Nam, Tú Xương là nhà thơ viết về vợ nhiều nhất. “Thương vợ” là bài thơ thành công nhất trong đề tài này của ông. Bài thơ đã thể hiện chân thực hình ảnh bà Tú là một người vợ, người mẹ, người phụ nữ đảm đang, tháo vát, chịu khó và giàu lòng hi sinh dành cho chồng con. Nhưng đằng sau đó là hình ảnh ông Tú mang trong mình nét đẹp nhân cách và tâm hồn. Một người chồng thương yêu, cảm thông và tri ân sâu sắc với vợ dám tỏ lòng chửi đời, chửi mình và nhận khuyết điểm bản thân.
Tú Xương lấy vợ khi ông 16 tuổi, vợ ông là bà Phạm Thị Mẫn. Cuộc đời của Tú Xương là cuộc đời của một nghệ sĩ nhưng trước hết là cuộc đời của một nhà trí thức phong kiến thuộc loại nhà Nho “Dài lưng tốn vải” phải sống nương tựa nhờ vào người vợ của mình. Mọi chi tiêu trong gia đình đều do bà Tú lo liệu.
Trong sáu câu thơ đầu tiên, bà Tú được miêu tả với phẩm chất đẹp của một người phụ nữ. Công việc vất vả, gian truân “Quanh năm” buôn bán trên mảnh đất cheo leo, bốn bề là nước ngập hiểm nguy chốn “mom sông” để kiếm ăn “Nuôi đủ năm con với một chồng” là gánh nặng đặt lên đôi vai của người phụ nữ chân yếu tay mềm nhưng tấm lòng son sắt, kiên cường, bền bỉ. Chỉ một từ “đủ” đã nói lên được chất lượng và số lượng, đủ cơm ăn áo mặc cho cả một gia đình năm con, một chồng không phải là điều dễ dàng. Tú Xương phải là một người chồng thương vợ hết mực mới có thể dõi theo từng bước chân của vợ, quan sát được từng nét biểu cảm trên gương mặt bà Tú khi “lặn lội thân cò”, khi “eo sèo mặt nước buổi đò đông”. Tú Xương đã sử dụng hình ảnh con cò và ý thơ trong ca dao “con cò lặn lội bờ sông” để mô tả sự vất vả của bà Tú. Sự cực khổ ấy được nâng lên thành một thân phận một kiếp người vì duyên nợ mà “Âu đành phận”, “năm nắng mười mưa dám quản công”. Câu thơ khiến cho ta nhớ đến câu ca dao:
'Một duyên, hai nợ, ba tình
Chiêm bao lẩn khuất bên mình năm canh'
Ngoài cái duyên cái nợ, còn có cái tình cái nghĩa vợ chồng. Các số từ tăng dần: một, hai, năm, mười, thể hiện sức dồn nén, chịu đựng của bà Tú, gợi lên nỗi lòng cảm thông, thương xót của Tú Xương dành cho vợ.
Tú Xương mặc dù chỉ xuất hiện gián tiếp qua hình ảnh bà Tú, nhưng nhà thơ không chỉ cảm phục, thương xót và tri ân vợ mà còn dùng lời của bà Tú lên án thói đời bạc bẽo “Cha mẹ thói đời ăn ở bạc”, chỉ ra rằng quan niệm lễ giáo phong kiến khắt khe về “Tam tòng tứ đức”, “Xuất giá tòng phu” là nguyên nhân sâu xa khiến bà Tú và nhiều người phụ nữ khác phải chịu nhiều cay đắng. Ông tự trách, tự chửi bản thân mình “hờ hững cũng như không”, tự trách mình là kẻ ăn bám “Hỏi ra quan ấy ăn lương vợ”. Ông không dựa vào duyên số để trút bỏ trách nhiệm mà coi mình là món nợ đời “một duyên hai nợ” mà bà Tú phải gánh vác, duyên ít mà nợ nhiều. Ông tự trào bằng lối viết hóm hỉnh, độc đáo vừa là để ngợi ca công lao vợ vừa là chê trách, nhận khuyết điểm về bản thân mình. Một con người dũng cảm dám nhận ra sự thiếu sót, thiếu trách nhiệm của một người chồng đối với vợ “thưng đấu nhờ lưng một mẹ mày”, của người cha đối với con và trách nhiệm của người đàn ông đối với gia đình. Ông biết nhận lỗi, biết đền bù lại bằng những câu thơ tha thiết yêu thương chân thành khiến cho người đời chẳng hề trách móc mà cảm thông cho Tú Xương.
Ông không phải là một kẻ bất tài vô lương nhưng sống trong một xã hội chế độ phong kiến thối nát không biết trọng dụng nhân tài, giá trị của đồng tiền, danh vọng vùi lấp tài năng con người khiến cho Tú Xương lận đận khoa cử tám lần lều chõng đi thi trong suốt quãng đời ngắn ngủi 37 năm gói gọn trong ba việc đi học, đi thi và làm thơ.
Hình ảnh bà Tú trăm cơ nghìn cực cùng với tấm lòng yêu thương dành cho vợ đã trở thành nguồn cảm hứng trữ tình phong phú và hấp dẫn trong thơ ông. Bằng tài năng thi ca với sự cách tân mới mẻ trong ngôn ngữ, thi liệu và đề tài. Bài thơ “Thương vợ” đã thể hiện được ân tình sâu đậm và chân thành của nhà thơ đối với bậc hiền phụ đồng thời cho thấy tâm hồn nhân cách cao đẹp của Tú Xương luôn cởi mở, nhân hậu với những người thân yêu của mình với tài năng của một thi sĩ biết vận dụng sáng tạo lời ăn tiếng nói của dân gian kết hợp với ngôn ngữ bác học làm nên một bài thơ hay và sâu sắc.
Phân tích hình ảnh ông Tú trong bài Thương vợ - Mẫu 4
Tú Xương viết nhiều bài thơ, ca ngợi về người vợ. Bà Tú, người con dâu làm ăn thông minh, là người mẹ hiền lành được mọi người trong xóm yêu quý. Nhờ đó, ông Tú có cuộc sống phong lưu: “Tiền bạc để con vợ tôi kiếm – Ngựa xe không bao giờ nghỉ”. “Thương vợ” là bài thơ đầy cảm xúc nhất trong những tác phẩm trữ tình của Tú Xương. Đây là bài thơ chân thành, cũng là bài thơ nói về thực tế. Bài thơ toát lên tình yêu thương nồng hậu của ông Tú dành cho người vợ hiền lành của mình.
Sáu câu đầu tiên miêu tả hình ảnh bà Tú trong gia đình và ngoài cuộc sống – hình ảnh thật về một người vợ chăm chỉ, một người mẹ hiền lành, giàu lòng hy sinh.
Hai câu đầu trong phần giới thiệu bà Tú là một người vợ đảm đang, chịu khó. Nếu bà vợ của Nguyễn Khuyến là người “hay lam hay làm, thắt lưng bó que, xắn váy quai cồng, chân nam đá chân chiêu, vì tớ đần trong mọi việc” như Nguyễn Khuyến mô tả, thì bà Tú là một người phụ nữ.
“Quanh năm buôn bán” là cảnh làm ăn chẳng ngớt, từng ngày qua ngày, từng tháng qua tháng… không được một ngày nghỉ. Bà Tú “Buôn bán ở mom sông”, nơi mảnh đất nhô ra, ba bề bao quanh sông nước; nơi làm ăn là mảnh đất đứng ngồi không yên. Hai từ “mom sông” miêu tả cuộc đời gian khổ, nhiều biến động, cuộc sống cơ cực, phải cố gắng kiếm sống, mới “Nuôi đủ năm con với một chồng”. Gánh nặng gia đình đè nặng lên đôi vai người mẹ, người vợ. Thông thường người ta chỉ tính toán rau củ, con cá, đồng tiền… chứ không ai “tính” con, “tính” chồng(!). Câu thơ này ẩn chứa nỗi niềm đắng cay về một gia đình đối diện nhiều khó khăn: nhiều con, người chồng phải “kiếm sống bằng lương vợ”.
Có thể nói, hai câu đầu tiên, Tú Xương ghi lại một cách chân thực người vợ chăm chỉ, đảm đang của mình.
Phần thực tô sắc thêm hình ảnh bà Tú, mỗi sáng mỗi tối đi đi về về “lặn lội” làm ăn như “thân cò” nơi “vùng hoang sơ”. Ngôn ngữ thơ tăng thêm màu sắc đắng cay của người vợ. Câu chữ như những nét vẽ, sắc màu liên tục, bổ sung và tăng thêm: đã “lặn lội” lại “thân cò”, rồi còn “khi vùng hoang sơ”. Nỗi cực khổ kiếm sống ở “bờ sông” dường như không thể nào diễn tả hết! Hình ảnh “con cò”, “cái cò” trong ca dao cổ: “Con cò lặn lội bờ sông…”, “con cò đi đón cơn mưa…”, “Cái cò, cái vạc, cái nông…” được tái hiện trong thơ Tú Xương qua hình ảnh “thân cò” mảnh khác đã đem đến cho người đọc bao cảm xúc cảm động về bà Tú, cũng như thân phận gian khổ, cực khổ… của người phụ nữ Việt Nam trong xã hội xưa
“Eo sèo” từ láy tượng thanh chỉ sự làm ầm ỹ bằng lời đòi, gọi liên tiếp lặp đi lặp lại; gợi tả cảnh tranh mua bán, cảnh cãi nhau nơi “bờ sông” lúc “đò đông”. Một cuộc đời “lặn lội”, một cảnh sống làm ăn “eo sèo”. Nghệ thuật đối văn phong đã làm nổi bật cảnh kiếm sống nhiều gian khổ. Bát cơm, áo quần mà bà Tú kiếm được “nuôi đủ năm con với một chồng” phải “lặn lội” trong mưa nắng, phải giành giật “eo sèo”, phải trả giá bao mồ hôi, nước mắt giữa thời điểm khó khăn!
“Duyên” là duyên số, duyên phận, “nợ” là cái “nợ” đời mà bà Tú phải cam chịu, chịu đựng. “Nắng”, “mưa” tượng trưng cho mọi vất vả và khổ cực. Các số từ trong câu thơ tăng dần lên: “một … hai… năm… mười…” làm nổi bật đức hi sinh thầm lặng của bà Tú, một người phụ nữ chịu thương chịu khó vì hạnh phúc của chồng con và gia đình. “u đành phận”.. dám quản công”… giọng thơ nhiều xót xa thương cảm.
Tóm lại, sáu câu đầu, bằng tấm lòng biết ơn và cảm phục, Tú Xương đã phác họa một vài nét rất chân thực và cảm động về hình ảnh bà Tú, người vợ hiền lành của mình với những phẩm chất đáng quý: đảm đang, tần tảo, chịu thương, chịu khó, thầm lặng hi sinh cho hạnh phúc gia đình. Tú Xương thể hiện bút pháp điêu luyện trong sử dụng ngôn ngữ và sáng tạo hình ảnh. Các từ láy, các số từ, phép đối, đảo ngữ, sử dụng sáng tạo thành ngữ và hình ảnh “thân cò”… đã tạo nên ấn tượng và sức hấp dẫn của văn chương.
Hai câu cuối, Tú Xương sử dụng từ ngữ thực dụng, lấy tiếng chửi nơi “bờ sông”, lúc “buổi đò đông” đưa vào thơ rất tự nhiên, bình dị. Ông tự trách mình “ăn lương vợ” mà “ăn ở bạc”. Vai trò người chồng, người cha chẳng giúp ích được gì, vô tích sự, thậm chí còn “hờ hững” với vợ con. Lời tự trách sao mà chua xót thế!
Phân tích hình ảnh ông Tú trong bài Thương vợ - Mẫu 5
Trần Tế Xương (hay còn được gọi là Tú Xương) sinh ra tại làng Vị Xuyên, Mĩ Lộc, Nam Định, là một trong những nhà văn nổi bật của văn học Việt Nam thế kỷ 19. Mặc dù cuộc đời ngắn ngủi, Trần Tế Xương đã để lại một di sản tinh thần cao quý. Ngoài những bài thơ chỉ trích, phê bình chế độ phong kiến bị sụp đổ, ông còn có những bài thơ đầy cảm động về người phụ nữ. Bài thơ Thương vợ là một tác phẩm xuất sắc nhất trong những tác phẩm về đề tài này. Bài thơ thể hiện một cách chân thành và cảm động tấm lòng thương vợ của Trần Tế Xương.
Cuộc đời của Trần Tế Xương là cuộc đời của một nghệ sĩ, nhưng trước hết là của một nhà tri thức phong kiến. Ông là một người có tài năng nhưng lại rất tùy hứng. Trong thời đại giao thời, khi Nho học suy tàn, cộng thêm vấn đề học hành, thi cử bất lợi, Trần Tế Xương phải sống trong cảnh nghèo khó, không may. Thất vọng trước thời đại, các tác phẩm của Trần Tế Xương đã tạo ra một bức tranh sinh động, đa chiều về xã hội thực dân phong kiến ban đầu. Đó là diện mạo xấu xa của những kẻ thực dân nửa phong kiến thống trị. Ông đã phơi bày sự thống trị của tiền bạc trong xã hội, chi phối cuộc sống. Đồng thời, qua các tác phẩm, ông cũng đã thể hiện sâu sắc tâm sự của bản thân về nghèo khó, về sự bất lợi của thi cử, nỗi buồn trước thời đại và vận mệnh của đất nước.
Khác với các nhà thơ khác (quá đặt nặng tính giáo dục), Trần Tế Xương quay trở lại cuộc sống thực trong những cảm thông sâu sắc nhất. Khi vị thế của các nhà Nho sĩ không còn được ưa chuộng, Trần Tế Xương đã phát hiện vẻ đẹp của người phụ nữ Việt Nam chất phác, chung thủy và giàu đức hi sinh. Thương vợ chính là một bài ca cảm động, là sự trân trọng và tôn kính đối với thân phận của người phụ nữ:
“Quanh năm buôn bán ở bờ sông,
Nuôi đủ năm con với một chồng.
Lặn lội thân cò khi quãng vắng,
Eo sèo mặt nước buổi đò đông.
Một duyên, hai nợ, khó lòng chấp nhận số phận,
Năm nắng, mười mưa, dám quản việc nhà.
Cha mẹ thói đời ăn ở bạc:
Có chồng hờ hững cũng chẳng khác gì không!”
Mở đầu bài thơ, Trần Tế Xương tạo dựng hình ảnh lao động của bà Tú. Vẻ đẹp của nhân vật bà Tú hiện ra trong bức tranh lao động đầy vất vả, hấp dẫn và đáng thương:
“Qua cả năm buôn bán bên dòng sông,
Nuôi được đủ năm con với một người chồng.”
Công việc của bà Tú là buôn bán nhỏ. Hoạt động này diễn ra liên tục, không ngừng nghỉ, kéo dài từng ngày. Nơi làm việc là bên dòng sông. Đó là một nơi cheo leo, chênh vênh và nguy hiểm. Câu thơ giới thiệu hình ảnh bà Tú đầy vất vả, gian khổ. Tác giả thể hiện sự đồng cảm với công việc buôn bán và sự cống hiến của bà Tú.
Câu thơ tiếp theo làm rõ gánh nặng cuộc đời của bà: nuôi được đủ năm con với một người chồng. 'Nuôi được đủ' có nghĩa là không thiếu, nhưng cũng không dư. Sự nghèo khó và khó khăn luôn bám theo suốt ngày này tháng kia. Nó gợi lên sự đảm đang, khéo léo, tinh tế của bà Tú để có thể duy trì cuộc sống gia đình. Người đọc bỗng nhận ra, gánh nặng ấy cũng bao gồm ông Tú với biện pháp đối 5 với 1, cách diễn đạt thể hiện sự áp lực lớn hơn cả của 5 đứa con. Ông Tú cảm nhận mình là kẻ ăn theo, phụ thuộc vào vợ, là gánh nặng cho vợ. Thậm chí gánh nặng ông Tú còn lớn hơn cả 5 đứa con.
Đối với những người theo triết học Nho xưa, ít ai nói thẳng và sâu sắc như Trần Tế Xương. Ông tự thấy mình vô dụng, thấy mình là gánh nặng trong cuộc đời bà Tú mà thực ra những trách nhiệm ấy chính ông mới phải thực hiện. Ta thấy ở đâu đó trong câu thơ sự gật đầu ngán ngẩm, thất vọng và buồn bã đến thê lương. Một người đàn ông không thể lo lắng cho vợ, cho con, phải sống vô nghĩa lí giữa cuộc sống. Ở đâu đó ta cũng nghe được tiếng khóc thầm của ông. Không phải của bà Tú mà là của ông Tú. Khóc vì cảm thông vợ đã vất vả, hy sinh, cam chịu vì ông mà không hề than phiền, kêu ca:
Bước vào cuộc sống đầy gian truân khi không ai ở bên,
Đốt lửa chống rét mùa đông trên mặt nước sông.
Bằng cách sáng tạo về hình ảnh “thân cò”, tác giả đã khơi gợi hình ảnh trong ca dao cổ xưa. Trong ca dao, hình ảnh thân cò thường ám chỉ đến người phụ nữ nhỏ bé, nghèo khổ và đầy đau thương:
Con cò lặn lội bờ sông
Mang gánh gạo đưa chồng, tiếng khóc buồn buốt
Hoặc là:
Cái cò lặn lội bờ sông
Cổ dài, mỏ cứng, cánh cong, lưng gù
Hình ảnh con cò là biểu tượng của sự vất vả, đấu tranh, và thân phận bất hạnh của người phụ nữ và người nông dân trong xã hội phong kiến đầy bất công. Họ luôn phải sống chịu đựng, cam chịu những khổ đau mà không biết than vãn cùng ai. Bà Tú đứng giữa hoàn cảnh đó, nơi mà số phận đã sớm gánh nặng lên vai con người trong xã hội phong kiến đầy bất công và ngang trái.
Hình ảnh của bà Tú được miêu tả rõ trong sự lao động, tận tâm, và sự dẻo dai của ngôn từ, sự đối xứng giữa hai câu thơ. Bà Tú bận rộn suốt ngày, không ngại nắng mưa, buổi đông hay buổi vắng. Sau khi 'lặn lội trong cảnh vắng vẻ', lại đến lúc đi vãn chợ 'trong buổi đò đông'.
Bằng hai câu thơ, Trần Tế Xương đã thành công trong việc miêu tả hình ảnh của người phụ nữ chịu khó, kiếm sống, không ngại sự nhỏ nhen và đơn độc vì chồng con. Khi đọc đến đây, ông bỗng nghĩ đến nguyên nhân khiến bà Tú phải cam chịu, hy sinh như vậy:
Một duyên, hai nợ, âu đành phận,
Năm nắng, mười mưa, dám quản công.
Một duyên hai nợ nói lên sự khổ đau của bà. Bà Tú kết hôn với duyên thì ít, nhưng với nợ thì nhiều. Cụm từ 'năm nắng, mười mưa' chỉ thêm vào sự khó khăn, vất vả và nhiều bất công của bà. Cuộc đời của người phụ nữ luôn là như vậy. Họ không biết đến những thành công trong đời. Cuộc sống của họ luôn ở sau người đàn ông. Nếu người đàn ông thành công, giàu có, thì họ cũng được hưởng. Nhưng nếu người đàn ông không thành công, thi cử không đỗ như ông Tú, thì cuộc đời họ cũng tăm tối theo. Bà Tú chấp nhận số phận như vậy. Và vì vậy, bà không sợ 'quản công', tức là sẵn sàng chấp nhận, cam chịu, hy sinh tất cả vì chồng con.
Trần Tế Xương đã sâu sắc hiểu được tâm tư của bà Tú, và từ đó, ông trân quý và yêu thương bà Tú với một cách tôn kính đầy lòng. Lời thơ đơn giản của ông Tú dành cho bà Tú có ý nghĩa vô cùng to lớn, vượt ra ngoài những quy định nghiêm ngặt của xã hội phong kiến để chiêm ngưỡng cái đẹp thuần khiết trong cuộc sống. Bà Tú mang trong mình những phẩm chất truyền thống của người phụ nữ Việt Nam: đảm đang, tháo vát, và giàu đức hi sinh. Thương vợ, thương cảnh nghèo khó, ông Tú đối diện với trách nhiệm, trách nhiệm với chính cuộc đời mình đã trôi qua vô nghĩa.
Cha mẹ thói đời ăn ở bạc:
Có chồng hờ hững cũng như không!
Tiếng chửi của ông Tú là lời than thở của một người bị tổn thương, dồn dập, có chút oán trách về thực tế xã hội. Thói đời vô ý đã khiến cho bà Tú đau khổ, bất hạnh. Những hứa hẹn ban đầu về sự thành công khi kết hôn với một sĩ tử, những lời hứa về danh vọng, giàu có đã dẫn bà Tú vào con đường thê lương. Ông Tú nhận ra, lỗi lầm đó là do chính mình. Dù đã cố gắng hết sức nhưng con đường danh vọng ấy không thành hiện thực. Do đó, ông trách đời đã quá tệ bạc với một người đầy tham vọng và tài năng như ông. Sau đó, ông cảm thấy oán hận với chính mình, trách mình là kẻ vô trách nhiệm, ăn bám vợ. Qua những lời chửi mắng, ông thể hiện tình cảm cao đẹp với vợ và bộ mặt nhân đạo của nhà thơ.
Bài thơ Thương vợ của Trần Tế Xương khiến người đọc phải suy ngẫm về ý nghĩa của cuộc sống và tình cảm con người. Sống là phải biết cảm thông, chia sẻ niềm vui và nỗi khổ trong những hoàn cảnh khó khăn nhất. Tình người là điều cần thiết để giảm nhẹ nỗi đau và làm lành những vết thương.
Chỉ với bài thơ Thương vợ, Trần Tế Xương đã vượt lên hơn cả thời đại: phát hiện, tôn vinh và ca ngợi những điều mà cả xã hội không biết, không dám ca ngợi. Cảm xúc mới mẻ đó được thể hiện thông qua hình tượng và ngôn ngữ dân gian quen thuộc, cho thấy tấm lòng của Tú Xương, dù mới mẻ, độc đáo, vẫn rất gần gũi với mọi người, và có gốc rễ sâu trong tâm thức dân tộc. Tấm lòng thương vợ của Trần Tế Xương qua bài thơ là một cái nhìn tiến bộ và mới mẻ của nhà thơ đối với vai trò của người phụ nữ trong xã hội phong kiến nước ta.
Phân tích hình ảnh ông Tú trong bài thơ Thương vợ - Mẫu 6
Người phụ nữ luôn là đề tài thường được thơ ca nhắc đến từ xa xưa. Tuy nhiên, mỗi thời đại, từ góc nhìn của những tác giả khác nhau, họ đã khắc họa những hình ảnh đa dạng của người phụ nữ. Trần Tế Xương là một nhà thơ tiêu biểu khi viết về đề tài này trong bài thơ “Thương vợ”. Đặc biệt, qua bài thơ này, chúng ta không chỉ thấy hình ảnh của người phụ nữ mà còn cảm nhận được tâm hồn của nhà thơ Trần Tế Xương.
Nhà nho đã từng là biểu tượng của tri thức và đức độ trong xã hội thời xưa, họ tôn sùng sách thánh và triết lý của Khổng Tử, góp phần vào sự nghiệp dân tộc. Trong bài thơ này, chúng ta cũng thấy trong Trần Tế Xương không chỉ là hình ảnh của một nhà nho mà còn có sự tiến bộ, đổi mới trong cách nhìn của ông về nhà nho.
Trần Tế Xương, một nhà nho sáng tác thơ sau nhiều năm theo đuổi tri thức và mong đợi thành công. Thời điểm đó, ít ai viết về vợ còn sống. Thường chỉ khi vợ qua đời, các nhà thơ mới viết về người bạn đời, tức là khi người vợ chưa còn trên thế gian. Vì vậy, khi viết về người vợ của mình, Trần Tế Xương đã có cái nhìn khác biệt so với những nhà nho khác cùng thời.
Trong bài thơ, Trần Tế Xương đã dùng tình yêu thương và lòng biết ơn để miêu tả hình ảnh bà Tú với sự rõ ràng nhất. Ông luôn quan tâm đến những vất vả, gian truân của vợ mình, thương yêu cô ấy nhưng không biết làm gì hơn, chỉ có thể thể hiện tình cảm của mình qua những dòng thơ. Bằng những từ ngữ chân thành, mộc mạc, Trần Tế Xương đã vẽ nên hình ảnh của bà Tú với tình yêu thương chân thành. Mỗi câu chữ, mỗi ý thơ đều chứa đựng nhiều cảm xúc, tình cảm và lòng biết ơn.
“Suốt năm buôn bán ven dòng sông,
Nuôi năm con với một chồng.
Chiều vắng thân cò lội lội,
Vượt sông trong buổi đò đông.”
Qua những dòng thơ này, ta thấy người vợ không chỉ là người nội trợ mà còn là trụ cột của gia đình. Bà Tú nuôi nấng cả con cái và chồng. Vất vả quanh năm, lặn lội những chuyến đò đông, buôn bán ở bên bờ sông nguy hiểm. Mặc dù Tú Xương không xuất hiện trong từng câu thơ, nhưng tình cảm của ông dành cho bà Tú vẫn rất sâu sắc.
Trong câu thơ này, Tú Xương đã mạnh dạn nhận ra sự vô dụng của mình. Ông thốt lên bản thân, thốt lên xã hội và âm thầm bày tỏ tình yêu và biết ơn vợ.
Tú Xương không đặt mình bên con để nuôi dưỡng mà tỏ ra riêng biệt, nhắc nhở bản thân và biểu lộ lòng biết ơn với vợ. Dù viết “Một duyên, hai nợ, âu đành phận” nhưng ông không trốn tránh trách nhiệm. Bà Tú lấy ông làm duyên một còn nợ là chín. Tú Xương coi mình như món nợ mà bà Tú phải chịu. Duyên ít, nợ nhiều.
Tú Xương phải thốt lên rằng:
“Cha mẹ vẫn sống trong thói đời chạy theo tiền bạc:
Có chồng hờ hững cũng chẳng khác nào không có!”
Ông chỉ trích thói đời lạc hậu - nguyên nhân gây ra nhiều khổ đau cho bà Tú. Việc chỉ trích cả sự hờ hững của ông đối với vợ con đã làm cho bà Tú phải chịu đựng nhiều khổ cực. Đây là tư tưởng của một nhà nho tiến bộ, dám nhìn nhận và lên án chính mình mà không bị thu hẹp bởi những quy chuẩn bất công của xã hội trước đây.
Ở một xã hội mà phụ nữ bị ràng buộc bởi 'Xuất giá tòng phu', 'phu xướng, phụ tùy', việc có một nhà thơ dám tự thừa nhận mình là người ăn bám vợ là điều hiếm có. Ông không chỉ nhận ra sự thiếu sót mà còn thẳng thắn thừa nhận khuyết điểm. Một nhà nho tiến bộ như vậy thật xứng đáng được tôn trọng.
Dù bà Tú đã phải chịu đựng nhiều khó khăn trong cuộc đời, nhưng bà lại có được hạnh phúc mà nhiều người vợ khác không có. Ngay khi còn sống, bà đã được đưa vào bài thơ của chồng với tất cả tình yêu và sự trân trọng của ông. Điều này giúp người đọc hiểu rõ hơn về nhân cách nhà nho Tú Xương.
Vì thế, bài thơ “Thương vợ” không chỉ ca ngợi vẻ đẹp của người phụ nữ tần tảo, biết hy sinh cho gia đình mà còn tái hiện hình ảnh nhà nho Tế Xương – một người có học thức và tư tưởng tiến bộ, xứng đáng được tôn trọng.