Phân tích vẻ đẹp cổ điển và hiện đại trong bài thơ Chiều tối của Hồ Chí Minh bao gồm 2 ý chính và 11 mẫu văn hay nhất được đánh giá cao. Với dàn ý cụ thể, bài văn được xây dựng đầy đủ, rõ ràng từng phần, học sinh lớp 11 có thể dễ dàng tham khảo cho bài văn của mình.

Vẻ đẹp cổ điển và hiện đại trong bài thơ Chiều tối đóng góp vào thành công của bài thơ. Điều này đã tạo nên hình ảnh của nhân vật trữ tình, vừa có tâm hồn thi sĩ, vừa có phẩm chất của một chiến sĩ. Dưới đây là 11 mẫu phân tích vẻ đẹp cổ điển và hiện đại trong Chiều tối, mời các bạn tham khảo. Bạn cũng có thể xem thêm bài văn phân tích Chiều tối.
Dàn ý về vẻ đẹp cổ điển và hiện đại trong bài thơ Chiều tối
1. Giới thiệu
- Giới thiệu về tác giả, tác phẩm và vấn đề được bàn luận
– Tác giả Hồ Chí Minh:
- Là anh hùng cứu nước của dân tộc Việt Nam.
- Là một nhà văn lớn, nhà thơ vĩ đại.
- Tác phẩm: Bài thơ là một trong 134 bài trong tập Nhật ký trong tù, thể hiện sâu sắc phong cách thơ của Hồ Chí Minh.
- Đó là sự hòa quyện tinh tế giữa vẻ đẹp cổ điển và hiện đại.
2. Phần chính phân tích vẻ đẹp cổ điển và hiện đại trong bài thơ
a) Vẻ đẹp cổ điển:
- Chủ đề: Bài thơ miêu tả vẻ đẹp tự nhiên và cuộc sống con người vào thời điểm hoàng hôn. Đây là một đề tài thường gặp trong thơ cổ (minh chứng).
- Hình ảnh thơ: tác phẩm sử dụng những hình ảnh quen thuộc của thơ cổ để tạo ra sự tượng trưng, làm nổi bật bản chất sâu sắc của bài thơ.
- Hình ảnh của chim: biểu tượng cho không gian và thời gian, là dấu hiệu của hoàng hôn.
- Hình ảnh của đám mây: biểu tượng cho bầu trời rộng lớn.
- Sử dụng thể thơ tứ tuyệt, lời ít nhưng ý nhiều, để lại ấn tượng sâu sắc.
- Nghệ thuật tả cảnh và tâm trạng: chỉ với vài nét tường thuật, nhà thơ đã thành công trong việc miêu tả linh hồn của cảnh vật và khơi dậy cảm xúc trong tâm trí người đọc.
b) Vẻ đẹp hiện đại:
- Hình ảnh thơ: chim, đám mây, người con gái là những hình ảnh của thực tại ngày nay.
- Cánh chim mệt mỏi: từ “mệt mỏi” thể hiện sâu sắc sự trăn trở bên trong của sự tồn tại. Đó là cánh chim bay theo nhịp điệu vô tận của cuộc sống. Đó là biểu tượng của tự do, của ước mơ tự do. Đấy cũng là khát vọng của người bị giam giữ.
- Đám mây cô đơn lênh đênh giữa trời là biểu tượng về người bị giam giữ đang lênh đênh trên con đường xa xôi không biết điểm dừng ở đâu. Nhưng thái độ của họ vẫn làm chủ, tự tin, là thái độ của một chiến sĩ cách mạng kiên cường, luôn kiểm soát tình huống.
- Hình ảnh người con gái làm nghề xay ngô buổi tối là hình ảnh của lao động, hiện lên sống động, mạnh mẽ, tích cực, là trung tâm của bức tranh Chiều tối.
- Ánh sáng từ lửa bếp, hình ảnh này đã phá vỡ bóng tối, giải thoát khỏi lạnh leo, mang lại niềm vui của sự sống, của sự ấm áp.
=> Hình ảnh thơ đơn giản nhưng chứa đựng những cảm xúc đời thường sâu sắc và ý chí phi thường của nhà lãnh đạo cách mạng Hồ Chí Minh.
- Cấu trúc của thơ: từ bóng tối tới ánh sáng, từ nỗi buồn đến niềm vui.
=>Thể hiện tinh thần lạc quan, ý chí kiên cường của Bác.
- Tâm hồn của Bác:
- Yêu thiên nhiên, yêu cuộc sống.
- Đồng cảm, chia sẻ với mọi sinh linh, đặc biệt là những người lao động. Đây cũng là tình cảm quốc tế vô sản trong sáng.
- Tâm hồn lạc quan, đầy nghị lực.
=> Đó là một tâm hồn nghệ sĩ nhưng cũng rất chiến sĩ.
3. Kết thúc
- Khẳng định lại sự hòa quyện giữa vẻ đẹp cổ điển và hiện đại đã góp phần tạo nên thành công của bài thơ Chiều tối và phong cách thơ của Hồ Chí Minh.
- Từ đó, bức tranh về nhân vật trữ tình được vẽ rõ: Người vừa có tâm hồn thi sĩ vừa mang đậm cốt cách của người chiến sĩ. Bác thể hiện tâm hồn lạc quan, yêu thiên nhiên, yêu cuộc sống và nghị lực phi thường.
Vẻ đẹp kết hợp của cổ điển và hiện đại trong Chiều tối - Mẫu 1
Chủ tịch Hồ Chí Minh – người cha già của dân tộc, Người không sinh con nhưng có triệu con. Bác là người chiến sĩ cộng sản đầu tiên của Việt Nam, người mở ra con đường cứu nước cho dân tộc; không chỉ thế, Bác còn là một nhà văn hoá lớn với nhiều đóng góp trong văn chương. Điển hình là tập thơ “Nhật kí trong tù”, “tập thơ đã chiếu sáng cho nhân loại, với sự thông thái, sâu sắc” được sáng tác trong thời kỳ Bác bị chính quyền Tưởng Giới Thạch giam giữ. Trong 134 bài thơ, bài thơ số 31 “Mộ” (Chiều tối) nổi bật với vẻ đẹp cổ điển và hiện đại hòa quyện tạo nên sức hút đặc biệt của tác phẩm.
“Chiều tối” được sáng tác khi Bác được chuyển từ nhà lao Tĩnh Tây sang nhà lao Thiên Bảo vào cuối năm 1942. Vẻ đẹp của cảnh sơn cước hòa cùng tâm hồn, tâm trạng của thi nhân là tiền đề cho Bác sáng tác bài thơ với nhiều giá trị sâu sắc và đặc trưng nghệ thuật vừa cổ điển vừa hiện đại.
Vậy vẻ đẹp cổ điển là gì? Đó là sự tuân thủ các đặc điểm của thi pháp văn học trung đại, nó tuân theo một quy luật, một khuôn mẫu sẵn có, sử dụng các biểu tượng, tượng trưng, bút pháp ước lệ để mô tả cảnh vật và cảm xúc… Nó hạn chế sự sáng tạo cá nhân nhưng lại mang nét đẹp cổ kính, trang nhã. Còn vẻ đẹp hiện đại là sự phá vỡ quy phạm, cách mạng nghệ thuật thể hiện sự sáng tạo và cá nhân của tác giả, có xu hướng trở về với hiện thực cuộc sống, gần gũi trong cuộc sống.
Vẻ đẹp cổ điển của bài thơ thể hiện ở ngôn ngữ và cách viết thơ. Tác giả sử dụng Hán, áp dụng thể thất ngôn tứ tuyệt chỉ với bốn câu thơ bảy chữ, ý thơ được nén lại trong từng câu, nhưng thực sự tạo ra bức tranh tinh tế về thiên nhiên và cuộc sống con người ở đây.
Nét cổ điển trong nguồn cảm hứng sáng tạo. Buổi chiều mang đến cảm giác buồn bã cho những người xa quê, đẩy họ nhớ về nhà, quê hương. Ta thường gặp nỗi nhớ ấy trong bài thơ “Chiều hôm nhớ nhà” của bà Huyện Thanh Quan, hoặc nhà thơ Thôi Hiệu nhìn khói sóng trên sông lúc hoàng hôn mà xúc động: “Quê hương khuất bóng hoàng hôn/ Trên sông khói sóng cho buồn lòng ai”. Ở đây cũng thế, Hồ Chí Minh lấy cảm hứng từ hoàng hôn ở đất khách quê người để thể hiện tình cảm của mình.
Vẻ đẹp kết hợp của cổ điển và hiện đại xuất hiện rõ ràng trong toàn bài qua các hình ảnh thơ. Đặc biệt là hai hình ảnh nổi bật của thiên nhiên với cách diễn đạt tinh tế, tượng trưng. Đó là cánh chim mỏi và chòm mây cô đơn:
“Vần vũ bay lạc đến bao giờ?
Mây nghiêng nghiêng phủ thiên không
(Chim mỏi bay tận rừng tìm nơi nghỉ
Mây trôi nhẹ giữa không trung)
Hai hình ảnh này diễn đạt thời gian và không gian chiều tà một cách rất quen thuộc. Cánh chim, đám mây đó đã xuất hiện trong thơ của Lí Bạch: “Chúng điều cao bay đi tận/ Mây nhẹ nghiêng nghiêng độc đáo”. Tuy nhiên, cánh chim của Hồ Chí Minh không bay lên cao trong bầu trời, mà nó cử động trong khoảnh khắc mệt mỏi sau một ngày làm việc muốn tìm nơi nghỉ ngơi. Bằng bút pháp thơ, nhà thơ đã dùng cánh chim để diễn đạt vô hạn mênh mông, bao la của bầu trời. Cánh chim ở đây cũng mang nét hiện đại, bay với hướng, mục đích và điểm dừng rõ ràng, không chỉ được miêu tả từ bên ngoài mà còn được cảm nhận từ bên trong, làm cho cánh chim mỏi mệt tạo nên nét riêng của Hồ Chí Minh. Hình ảnh thứ hai, đám mây cô đơn, trôi bềnh bồng trên bầu trời, cũng là để diễn đạt tâm trạng cô đơn, lạc lõng của bản thân đang nghĩ suy không biết đi đâu. Mặc dù không nhắc đến hình dáng của người tù, nhưng vẫn thấy hiện lên tư thế ung dung, bình tĩnh, không hề thể hiện sự mệt mỏi, buồn phiền, bất lực. Điều đó chỉ có thể là một người yêu thiên nhiên, dù trong tình thế xiềng xích vẫn có thể bình thản nhìn nhận mọi khoảnh khắc của thiên nhiên. Đó cũng là người có ý chí phi thường, vượt qua hoàn cảnh cá nhân mới có thể tự do trong tâm hồn như thế. Dù thân thể bị xiềng xích, nhưng không gì có thể kiềm chế được thế giới tinh thần của Người.
Sự kết hợp giữa nét cổ điển và hiện đại vẫn thể hiện rõ trong hai câu thơ cuối mô tả cuộc sống và con người nơi miền sơn cước. Ở đây, chú trọng vào vẻ đẹp hiện đại khi Bác đưa ra sự vận động trong cuộc sống hàng ngày của con người:
Trong làng núi, thiếu nữ vất vả
Hoàn thành công việc, cười rạng rỡ”
Em ở làng núi, xay ngô khi tối
Lò than đã sáng rực hồng.
“Em” trong bản dịch có vẻ làm mất đi sự tôn trọng mà Bác dành cho người lao động và chưa thể hiện đúng nghĩa của từ “thiếu nữ” trong nguyên tác. Nét cổ điển thể hiện qua việc tả mây trăng, sử dụng ánh sáng để mô tả bóng tối. Trong nguyên tác, không nhắc đến từ “tối” nhưng vẫn gợi lên cho độc giả thấy đêm đang bao phủ, với hình ảnh bếp lửa sáng rực, tuy nhiên trong bản dịch thơ thêm từ “tối” làm mất đi sự thú vị của ý thơ. Hình ảnh thiếu nữ lao động vào ban đêm với công việc vất vả được thể hiện qua kỹ thuật sắp xếp câu ba cuối và câu bốn, cho thấy sự chuyển giao từ công việc này sang công việc khác trong sự vận động lặng lẽ của thời gian từ chiều đến tối. Con người hiện lên trong bức tranh thiên nhiên thơ xưa thường là những người thuộc tầng lớp thượng lưu, ít khi có hình ảnh nào bình dị như trong bài thơ của Bác. Chính người lao động đã làm sáng bừng không gian yên bình, tối tăm. Đặc biệt, từ “hồng” ở cuối bài thơ được nhiều ý kiến cho rằng đó là một biểu tượng, là điểm nhấn của thơ toàn bài, nó chiếu sáng ra ánh sáng của hiện thực, ánh sáng của tương lai. Điều đó thể hiện sự đồng cảm, lòng thương xót của Bác dành cho cuộc sống khó khăn, vất vả của con người. Tình cảm đó không chỉ dành cho nông dân Việt Nam mà còn lan rộng, bao trùm tất cả những người lao động trên thế giới. Hoài Thanh đã nhận xét: “Một hình ảnh tuyệt vời về cuộc sống khó khăn, vất vả nhưng vẫn ấm áp, đáng quý, đáng yêu. Những hình ảnh như thế không thiếu gì xung quanh ta, nhưng thường bị bỏ qua. Không có một trái tim đầy yêu đời sâu sắc không thể ghi lại được”. Trái tim yêu đời, yêu người của Bác to lớn, sâu sắc đúng như Tố Hữu từng nói: “Bác ơi, trái tim Bác lớn vô cùng/ Ôm trọn non sông, mọi kiếp người” làm nên giá trị nhân văn cao đẹp trong phẩm chất đạo đức Hồ Chí Minh.
Để có được một bài thơ hay, giàu ý nghĩa vừa mang vẻ đẹp cổ điển và hiện đại, thi nhân chắc chắn phải là một con người tài năng, hiểu biết sâu rộng về văn học nghệ thuật. Sự cổ điển xuất phát từ việc Chủ tịch Hồ Chí Minh sinh ra trong một gia đình trí thức, từ khi còn nhỏ Người đã tiếp xúc với các tác phẩm kinh điển, hiểu biết triết lí nho gia và tiếp thu tinh hoa văn học Trung Hoa. Sự hiện đại phản ánh qua 30 năm trải nghiệm học hỏi ở nước ngoài, tiếp xúc với văn hóa, văn học phương Tây, du học khắp nơi, tiếp xúc với nhiều mảnh đời nhân loại, tạo nên bản sắc riêng biệt, độc đáo của mình.
Do đó, bài thơ “Chiều tối” thành công khi kết hợp một cách hài hòa giữa vẻ đẹp cổ điển và cách tân hiện đại, kết hợp giữa sự xúc động tâm hồn của thi sĩ và tinh thần mạnh mẽ của người chiến sĩ cộng sản. Tác phẩm này để lại nhiều ấn tượng và suy tư sâu sắc về phẩm chất đạo đức của Người.
Nét cổ điển và hiện đại trong bài thơ Chiều tối - Mẫu 2
Hồ Chí Minh là một trong những con người vĩ đại nhất trong số những người vĩ đại. Bác không chỉ có một trái tim bao la dành cho đồng bào, dân tộc, mà Bác còn là một trí tuệ vượt trội. Bên cạnh việc là một nhà lãnh đạo tài ba, Bác còn là nhà ngôn ngữ học thông thạo 11 thứ tiếng, nhà báo, nhà Cách mạng nổi tiếng, cùng là một nhà thơ, nhà văn tài năng. Bác được coi là bậc thầy về ngôn ngữ, mỗi tác phẩm của Bác đều in sâu trong lòng người đọc. Phân tích vẻ đẹp cổ điển và hiện đại trong bài thơ Chiều tối, ta sẽ hiểu rõ hơn điều đó.
Hồ Chí Minh là một vị anh hùng kiệt xuất, được mọi người trên thế giới kính trọng. Bác không chỉ là nhà thơ, nhà văn với phong cách nghệ thuật đặc sắc mà còn để lại cho thế hệ sau một kho tàng thơ ca phong phú.
Tác phẩm Chiều tối được rút ra từ tập thơ Nhật ký trong tù, mà Bác đã sáng tác trong những ngày bị giam cầm ở Trung Quốc.
Phiên âm
“Quyện điểu quy lâm tầm túc thụ,
Cô vân mạn mạn độ thiên không.
Sơn thôn thiếu nữ ma bao túc,
Bao túc ma hoàn lô dĩ hồng”
Dịch thơ
“Chim mỏi về rừng tìm chốn ngủ
Chòm mây trôi nhẹ giữa từng không
Cô em xóm núi xay ngô tối
Xay hết lò than đã rực hồng”
Vẻ đẹp cổ điển của tác phẩm bắt đầu từ sự xuất hiện của những hình ảnh mang tính ước lệ quen thuộc trong những bài thơ xưa như: hình ảnh cánh chim mệt mỏi về tổ vào buổi chiều muộn. Trên bầu trời, những đám mây lẻ loi lững lờ trôi.
Mặc dù trong bài thơ không đề cập rõ ràng về thời gian là buổi chiều, nhưng qua những nét chấm phá, tác giả đã khiến người đọc cảm nhận được không gian và thời gian của cảnh vật.
Vẻ đẹp cổ điển của tác phẩm còn thể hiện ở việc sử dụng các kỹ thuật thơ cổ sáng tạo như lấy động tả tĩnh, sử dụng ánh sáng để miêu tả bóng tối, bút pháp chấm phá độc đáo…
“Chim mệt về tổ tìm chốn nghỉ ngơi
Đám mây trôi nhẹ giữa từng khoảng trời
Tương tự như trong thơ Nguyễn Du, hình ảnh cánh chim mệt mỏi trở về tổ khi bóng tối bao phủ cảnh vật. Cả câu thơ đều phản ánh phong cách thơ cổ điển. Dịch thơ không thể hiện hết được vẻ đẹp cổ điển và ý nghĩa mà Bác Hồ đã gửi gắm vào từ “cô” và “mạn mạn” như trong nguyên tác.
Vẻ đẹp cổ điển của tác phẩm Chiều tối còn hiện diện trong đề tài và cách thức sắp xếp bố cục của bài thơ. Thơ xưa thường ít mô tả cụ thể về con người mà thường dùng cảnh vật và thời gian. Tác giả sử dụng thể thơ thất ngôn tứ tuyệt, một thể thơ truyền thống với luật gieo vần, gieo điệu nghiêm ngặt. Hai câu thơ đầu miêu tả về thiên nhiên, cảnh vật, trong khi hai câu thơ cuối nói về con người, nhưng tất cả đều hòa hợp như trong các câu đối. Những kỹ thuật này thường xuất hiện trong thơ của Lý Bạch, với việc sử dụng cảnh vật để thể hiện tâm trạng con người, tạo ra một vẻ đẹp cổ điển và nghệ thuật.
Phân tích vẻ đẹp cổ điển và hiện đại trong bài thơ Chiều tối của Hồ Chí Minh, độc giả càng ngưỡng mộ tài năng xuất sắc của nhà thơ.
Nếu vẻ đẹp cổ điển thể hiện qua những nét chấm phá thiên nhiên, thì vẻ đẹp hiện đại lại được mô tả thông qua những hình ảnh ấm áp, trong bút pháp tả thực sinh động về cuộc sống đời thường dân giã.
Trong thơ của Lý Bạch, con chim thường bay về chốn vô định, vô tận, không rõ ràng. Tuy nhiên, trong thơ của Bác, cánh chim đã xác định điểm đến, đó là tổ. Điều này thể hiện sự thực tế hơn là tưởng tượng và ảo vọng. Cánh chim trong thơ Bác không chỉ cô đơn mà còn thể hiện tâm trạng mệt mỏi. Hình ảnh đám mây lẻ loi vừa cổ điển vừa hiện đại, gợi nhớ tới tâm trạng cô đơn và mệt mỏi của người tù đang bị giam giữ. Những hình ảnh trong thơ Bác thể hiện Người là một người yêu thiên nhiên và cũng là một chiến sĩ Cách mạng hiên ngang giữa đất trời. Dù đang trong cảnh lao tù nhưng vẫn dành thời gian ngắm cảnh, viết thơ.
Vẻ đẹp hiện đại trong bài thơ Chiều tối cũng được thể hiện qua hình ảnh cô thôn nữ xay ngô tối:
Cô em xóm núi xay ngô tối
Xay hết lò than đã rực hồng”
Trong bối cảnh thiên nhiên rộng lớn, Bác bất ngờ đề cập đến hình ảnh bếp lửa hồng, gợi lại cho độc giả một cảm giác bất ngờ và thực tế về cuộc sống hàng ngày. Hình ảnh bếp lửa không chỉ làm ấm lòng tác giả mà còn tạo nên vẻ đẹp hiện đại trong thơ của Hồ Chí Minh.
Vẻ đẹp hiện đại trong thơ của Bác còn thể hiện qua nhân vật trữ tình như “sơn thôn nữ”. Cô gái này, khỏe mạnh, trẻ trung, làm việc chăm chỉ, làm sống lại bức tranh thiên nhiên, biến không gian buồn bã thành ấm áp.
Bên cạnh nhân vật trữ tình sơn thôn nữ, còn có nhân vật tù nhân. Trong hoàn cảnh khó khăn, Bác vẫn tìm niềm vui và sức mạnh từ thiên nhiên, từ cảnh sinh hoạt của người dân, từ tình thương quê hương. Điều này thúc đẩy Bác tiếp tục chiến đấu cho quê hương và nhân dân.
Vẻ đẹp cổ điển hiện lên qua kỹ thuật nghệ thuật, đề tài và cấu trúc thơ. Trong khi đó, vẻ đẹp hiện đại được thể hiện qua hình ảnh và tâm trạng của nhân vật như sơn thôn nữ và người tù.
Phân tích vẻ đẹp cổ điển và hiện đại trong bài thơ Chiều tối - Mẫu 3
Suốt từ xưa đến nay, chiều tà luôn là nguồn cảm hứng cho nhiều nhà thơ. Trong đó, không thể không nhắc đến Chủ tịch Hồ Chí Minh – một nhà thơ với phong cách “thơ chiều” độc đáo!
Từ tập thơ “Nhật ký trong tù”, Chủ tịch đã nhiều lần bày tỏ cảm xúc trước vẻ đẹp của chiều buông để sáng tác những bài thơ như “Vãn chiều hôm”, “Hoàng hôn”… Nhưng bài thơ đặc biệt nhất phải kể đến có lẽ là “Mộ” (Chiều tối) – sáng tác khi Người đang trên đường chuyển lao từ Tĩnh Tây đến Thiên Bảo vào cuối thu năm 1942. Đây thực sự là một tác phẩm tuyệt vời, không chỉ về ý thơ mà còn về tài năng và nhân cách của Hồ Chủ tịch.
“Quyện điểu quy lâm tầm túc thụ
Cô vân mạn mạn độ thiên không
Sơn thôn thiếu nữ ma bao túc
Bao túc ma hoàn lô dĩ hồng.
Dịch nghĩa:
Chim mỏi về rừng tìm chốn ngủ
Chòm mây trôi nhẹ giữa từng không
Cô em xóm núi xay ngô tối
Xay hết lò than đã rực hồng.
(Dịch bởi Nam Trân)
Từ ngay tiêu đề, bài thơ đã phản ánh chủ đề chính là cảnh chiều tà, mặc dù không có chữ “chiều” nào xuất hiện trong bài thơ. Mặc dù vậy, cảnh chiều vẫn được tác giả mô tả rõ ràng, đẹp đẽ và lôi cuốn trong tâm trí của người đọc.
Bằng cách viết thơ trung hữu họa kết hợp với các yếu tố cổ điển và những tư liệu thơ thuần túy, tác giả đã trở thành một họa sĩ vẽ nên một bức tranh về thiên nhiên miền sơn cước vào cảnh hoàng hôn: cánh chim mệt mỏi tìm về tổ sau một ngày lao động; những đám mây lẻ loi chầm chậm trôi giữa bầu trời vô tận. Chỉ với vài đường nét của bút, tác giả đã tài tình đưa hình ảnh của 'cánh chim' và 'đám mây' vào bài thơ như một sự ẩn dụ về không gian và thời gian.
“Cánh chim” thường là một hình ảnh quen thuộc trong văn học phương Đông. Cách sử dụng các từ như “Phi yến thu lâm”, “Quyện điểu quy lâm” thường gặp trong thơ chữ Hán. Trong “Truyện Kiều”, Nguyễn Du miêu tả chiều với hình ảnh của cánh chim: “Chim hôm thoi thót về rừng”. Hay trong thơ của Huy Cận: “Chim nghiêng cánh nhỏ bóng chiều sa”… 'Cánh chim' thường được xem là một chi tiết nghệ thuật để tạo ra cảnh chiều và gợi cảm giác về sự xa xứ, phiêu bạt và chia lìa.
“Chúng điểu cao phi tận” – Lý Bạch
Tuyệt vời:
“Cánh chim bay đến đỉnh cao không gian” – Liễu Tông Nguyên
Hình ảnh cánh chim “bay đến đỉnh cao không gian” trong thơ của Lý Bạch và Liễu Tông Nguyên mang đến cho chúng ta cảm giác như đang lạc vào một không gian vô tận, xa xăm, mang tính siêu hình. Đây có thể coi là một biểu tượng không thể thiếu trong văn học cổ điển. Tuy nhiên, vượt qua điều đó, Hồ Chí Minh đã đưa hình ảnh của chính mình vào thế giới thực tại:
“Chim mệt mỏi bay về tổ”
Dịch:
Chim mệt về rừng tìm nơi nghỉ.
Không chỉ quan sát từ bên ngoài (việc bay), cánh chim trong thơ Bác còn là sự cảm nhận từ bên trong, một sự nhận thức sâu sắc của cá nhân về ngoại cảnh (cánh chim bay). Câu thơ này thể hiện sự đồng điệu, tương phản, hòa quyện giữa tâm hồn nhà thơ và cảnh vật, thiên nhiên: Suốt một ngày vất vả đi kiếm ăn, cánh chim mệt mỏi đang bay về tổ để nghỉ ngơi, nhưng cũng giống như người tù mệt mỏi sau một ngày lao động, họ cũng đang tìm kiếm một nơi để dừng chân nghỉ ngơi. Sự đồng điệu đặc biệt giữa người tù và cánh chim đã tạo ra hình ảnh mới mẻ trong thi ca - 'quyện điểu'. Cánh chim giờ đây đã có hướng đi, điểm đến cụ thể. Từ đây, chúng ta cảm nhận được lòng yêu thương, trìu mến của Bác đối với sự sống. Nhưng ẩn sau những dòng thơ là một nỗi buồn sâu thẳm. Cánh chim bay về tổ như một lời nhắc nhở nhẹ nhàng về ước mơ đoàn kết. Người tù, đang phải chịu đựng cuộc tù đày, chắc chắn luôn nhớ về quê hương, gia đình, khi nhìn thấy cánh chim cuối trời, nguyện vọng nhỏ bé ấy lại trỗi dậy, mãnh liệt, khiến người ta, dù không mấy quan tâm đến quê hương, cũng phải cảm thấy đau đớn. Hình ảnh của những đám mây chầm chậm trôi về phía xa cũng gợi lên nỗi tiếc nuối cho số phận đầy khó khăn, lênh đênh, trôi nổi giữa đất khách. Điều này làm cho khát khao tự do bay như chim, trôi như mây giữa bầu trời của người tù trở nên mạnh mẽ, quyết liệt hơn bao giờ hết. Hình ảnh về cảnh vật và hình ảnh về tâm trạng đã hoàn toàn hòa quyện với nhau. Người ta cũng thấy được vẻ đẹp rạng ngời trong nhân cách của HCM - một con người không bao giờ mất đi tình yêu với cái đẹp, khả năng cảm nhận trước cuộc sống, một con người sống trọn vẹn cuộc sống con người, dù trong bất kỳ hoàn cảnh nào.
Dù mang phong cách của thơ Đường, nhưng câu thứ hai của bài thơ lại tạo nên một cảm giác cô đơn, trống trải với hình ảnh của “đám mây lẻ”. Dịch thuật, mặc dù có khá tốt và mượt mà, nhưng lại bỏ qua từ 'cô' và không thể hiện đầy đủ ý nghĩa của 'mạn mạn', do đó làm mất đi sự sâu sắc trong nguyên tác. Trong thơ cổ, đám mây thường gợi lên cảm giác cô đơn, thanh cao, tự do, rời bỏ và nỗi đau của con người trước không gian vô hình: “Đám mây cô độc trôi”. Trong “Chiều tối”, đám mây không chỉ là “đám mây trôi nhẹ giữa bầu trời” mà còn là một đám mây lẻ loi, cô đơn, chậm rãi trôi giữa bầu trời. Câu thơ khiến chúng ta nhớ đến những đám mây trong thơ Thôi Hiệu: “Nghìn năm mây trắng bay giờ còn đâu”, đám mây trắng đại diện cho sự vĩnh hằng, trong khi “đám mây trôi nhẹ” đánh thức bao nỗi khao khát, mong chờ. Tuy nhiên, hình ảnh “đám mây lẻ” đã tạo ra một chiều cao, một chiều sâu cho bức tranh cảnh vật. Núi rừng Quảng Tây vào chiều thu hiện lên trước mắt với bầu trời cao rộng, trong trẻo, êm đềm. Đám mây lẻ loi giữa bầu trời vô tận càng làm tăng lên cảm giác cô đơn, giao lưu. Vì sự cô đơn không chỉ của đám mây mà còn là tâm trạng của người đang nhìn thấy chúng.
Không chỉ dừng lại ở việc mô tả cảnh thiên nhiên, Bác bắt đầu tạo dựng một hình ảnh trung tâm cho bức tranh. Phong cách cổ điển được thay thế bằng những hình ảnh hiện đại. Bức tranh không còn là một cảnh vật đơn giản mà như được thổi hồn bởi sự hiện diện của con người - cô gái xay ngô - và bếp lửa ấm áp. Cảnh vật thiên nhiên nhường chỗ cho hình ảnh cuộc sống của con người. Đó là một làn gió mới thổi vào bức tranh, thay đổi toàn bộ bức tranh:
Chim mỏi bay về rừng tìm nơi yên ngủ.
“Sơn thôn thiếu nữ xinh đẹp lao động
Lao động xinh đẹp đầy nét tươi sáng.”
Giữa vùng núi hoang sơ, hẻo lánh, trong khi nỗi buồn vây kín tâm trí thì hình ảnh của “cô gái xóm núi” đang “xay ngô khi trời tối” đột nhiên xuất hiện, làm gián đoạn mọi suy tư và cảm xúc. Khi niềm hy vọng tìm nơi nghỉ ngơi sau một ngày mệt mỏi dần phai nhạt, “xóm núi” hiện lên như một giấc mơ, làm tan biến mọi mệt mỏi, lo âu. Sự yên bình của xóm núi càng làm ấm lòng người với sự hiện diện của cô gái trẻ. Vẻ đẹp tươi trẻ đầy sức sống của cô gái trong lúc lao động (xay ngô) trở thành trung tâm của bức tranh thiên nhiên buổi chiều, mang lại sự hạnh phúc, khỏe mạnh cho toàn bộ bài thơ. Đáng chú ý, hình ảnh của người con gái trong thơ Bác hoàn toàn khác biệt so với những người phụ nữ trong thơ cổ. Nhiều thi nhân xưa thường miêu tả phụ nữ như “Liễu yếu đào tơ”, sống trong cảnh “Phòng khuê khép kín”, chỉ cần biết “cầm, kì, thi, họa” là đủ:
“Trời đã ban tặng trí tuệ thông minh,
Giai điệu nghệ thuật thơ ca rực rỡ hương vị.
Tình yêu nồng nàn như đàn cung với tiếng nhạc ấm áp,
Làm nghe nghề của riêng mình vang lên hơn cả tiếng đàn hồ cầm.”
(“Truyện Kiều” – Nguyễn Du)
Trong khi đó, người phụ nữ trong thơ Bác liên kết với hình ảnh lao động bình dị, thường ngày, đầy sức sống. So với đó, trong thơ cổ, con người thường được miêu tả một cách tĩnh lặng, dường như chỉ để làm nổi bật thêm vẻ hùng vĩ, hoang sơ của thiên nhiên, mang theo một tâm trạng hoài cổ, u sầu:
“Dưới núi, vài chú hết lom khom
Bên sông chợ, mấy nhà lác đác.”
(“Qua Đèo Ngang” – Bà Huyện Thanh Quan)
Nhưng “Chiều tối” với cảnh cô gái xay ngô đã mang lại sự ấm áp, hạnh phúc không chỉ cho người tù mà còn cho độc giả trước cảnh núi rừng u ám. Có lẽ là vẻ đẹp lung linh của bức tranh là nhờ sự khỏe khoắn đó.
Trong bản gốc, Bác không sử dụng từ “tối” nhưng vẫn thể hiện sự thay đổi không ngừng của thời gian: từ chiều tà đến chiều tối. Điều đó được thấy qua hình ảnh lò than hồng. Chỉ vào thời điểm như vậy, màu hồng của than trong lò mới hiện lên, và nhà thơ đã diễn đạt điều này một cách sâu sắc mà không cần dùng từ “tối”. Hình ảnh lò than rực hồng trong bóng tối không chỉ làm nổi bật tư thế xay ngô của cô gái mà còn làm tan biến bóng tối, như nhà thơ Hoàng Trung Thông đã nhận xét: “Với một chữ “hồng”, Bác đã làm sáng rực lên toàn bộ bài thơ, đã làm mất đi sự mệt mỏi, sự uể oải, sự vội vã, sự nặng nề đã diễn tả trong ba câu đầu, đã làm sáng rực lên khuôn mặt của cô em sau khi xay xong ngô. Chữ “ hồng” trong nghệ thuật thơ Đường, người ta gọi là “thi nhãn” (con mắt thơ) hoặc là “nhãn tự” (chữ mắt), nó sáng bừng lên, nó cân lại, chỉ một chữ thôi, với hai mươi bảy chữ khác dầu nặng đến mấy đi chăng nữa…” Cũng vì thế mà hình ảnh lò than hồng có một sức lôi cuốn đặc biệt đối với mỗi người.
Thoát khỏi phong cách cổ điển, hai câu thơ cuối mang nhiều yếu tố đời thường, và điều đó được thể hiện qua từ “bao túc” lặp lại hai lần. Cô gái miệt mài xay ngô mà không để ý đến thời gian. Cứ khi hết túi ngô này, rồi lại đến túi ngô khác, và khi cô xay xong ngô, thì mới nhận ra “lò than đã sáng lên”. Qua hình ảnh trẻ trung, đời thường, hiện đại, ta thấy được sự đau đớn âm thầm và sâu xa của nhà thơ trước cuộc sống lao động. Sự lặp lại công việc xay ngô như một vòng quay nặng nề của cuộc sống. Tình thương với nỗi đau của những người lao động, dù họ không phải là đồng bào của Bác, không quen biết, thậm chí chưa gặp mặt, nhưng Bác vẫn đồng cảm sâu sắc. Tuy nhiên, dù có ý nghĩa nào đi nữa, câu thơ vẫn truyền đạt được sự ấm áp, hạnh phúc bình dị trong một căn nhà ấm cúng, nhấn mạnh nỗi lòng nhân ái trong trái tim Bác. Và vì thế, vẻ đẹp của những dòng thơ là ở khả năng kỳ diệu của Bác, khả năng mà hiếm ai có thể vượt qua, thậm chí sánh bằng. Đó là khả năng quên đi nỗi đau của bản thân để cảm thông, để hòa mình vào niềm vui giản dị của con người. Tuy nhiên, dù có ý nghĩa nào đi nữa, câu thơ vẫn diễn đạt một phẩm chất chung, một phẩm chất mà sau khi Bác mất, nhà thơ Tố Hữu mới thực sự thấu hiểu và nói lên: “Chỉ biết quên bản thân mình để quan tâm đến mọi người” hoặc: “Mang niềm vui cho tất cả chỉ để quên đi bản thân mình”. 'Chiều tối' thể hiện sự quên đi bản thân một cách vĩ đại.
Dù ở trong hoàn cảnh đau khổ, Bác vẫn cảm nhận được niềm vui hoặc nỗi đau của cảnh vật, con người thông thường mà Người tình cờ gặp trên đường khổ lạc. Dù bị trói buộc, bị giam cầm, bị đày đi ” Năm mươi ba cây số một ngày/Áo mũ dầm mưa rách hết giày” nhưng dường như Người không màng đến nỗi đau của chính mình. Người luôn mở rộng tình yêu của mình để che chở cho mọi người và quên đi nỗi khổ. Người không khinh bỉ sự cay đắng, chịu đựng mọi nỗi đau mà không than trách. Đó chính là tinh thần thép vĩ đại của người tù thi sĩ Hồ Chí Minh.
Về mặt văn học, “Chiều tối” luôn là một tác phẩm trữ tình, và tâm hồn của bài thơ nằm ở những cảm xúc, rung động mà nhà thơ đã truyền đạt qua từng dòng chữ. Đây là một tác phẩm đẹp về nhiều phương diện và thực sự là một bức tranh sáng ngời trong thế giới thơ của Hồ Chí Minh. Kết hợp giữa phong cách cổ điển và hiện đại, bài thơ là một bức chân dung tự họa, phản ánh tinh thần con người và nét đặc sắc trong phong cách nghệ thuật của Bác. Như ánh sáng của lò than hồng trong câu thơ cuối, bài thơ thực sự trở thành một nguồn sáng bừng lên cho một phong cách thi ca hiện đại, trữ tình hoàn toàn mới, thoát ra khỏi văn phong cổ điển. Và hơn thế nữa, bài thơ là một biểu hiện rõ ràng của nhân cách Hồ Chí Minh thông qua việc truyền đạt tất cả tâm tư, tình cảm của Người qua từng dòng chữ. Đó cũng là những yếu tố tạo nên vẻ đẹp duy nhất của bài thơ.
Vẻ đẹp cổ điển và hiện đại trong bài thơ Chiều tối - Mẫu 4
Chiều tối là bài thơ thứ 31 trong tập Nhật kí trong tù. Bài thơ này kết hợp một cách tự nhiên giữa vẻ đẹp cổ điển và hiện đại. Sự kết hợp này đã mang lại thành công cho tác phẩm.
Vẻ đẹp cổ điển là vẻ đẹp có sự kế thừa của văn học trung đại về cấu trúc, phong cách, và chủ đề. Vẻ đẹp hiện đại là những ý tưởng sáng tạo mà chỉ văn học hiện đại mới có. Sự kết hợp này không dễ dàng, nhưng để tạo nên sự tinh tế, sự đặc sắc thì lại không phải là điều dễ dàng. Tuy nhiên, với bút pháp tinh tế, và tâm hồn nghệ sĩ, tài năng của Hồ Chí Minh đã kết hợp một cách tài tình giữa vẻ đẹp cổ điển và hiện đại trong bài thơ này.
Tác phẩm bắt đầu bằng hai câu thơ:
Quyện điểu quy lâm tầm túc thụ
Cô vân mạn mạn độ thiên không.
Màu sắc cổ điển ban đầu được thể hiện qua hình ảnh cánh chim. Trong văn học cổ điển, hình ảnh cánh chim thường được sử dụng: “Ngàn mai gió cuốn chim bay mỏi” (Bà Huyện Thanh Quan) hoặc “Chim hôm thoi thót về rừng” (Nguyễn Du). Trong những cánh chim vào buổi chiều thường gợi lên nỗi buồn, nhớ nhà. Dù sử dụng thi liệu cổ, nhưng màu sắc hiện đại trong hình ảnh thơ vẫn rất rõ nét. Không giống như trong thơ xưa, cánh chim trong thơ Bác không bay vô phương hướng, mà có mục đích: “quy lâm tầm túc thụ”. Chúng tìm về rừng sau một ngày làm việc mệt mỏi để nghỉ ngơi. Không chỉ vậy, đọc giả còn cảm nhận được cảm xúc bên trong, trạng thái của sự vật. Bác đã đưa cánh chim từ thế giới siêu hình trở về với thế giới hiện thực.
Hình ảnh đám mây cũng là hình ảnh rất cổ điển. Trong câu thơ của Đỗ Phủ “Tái địa phong vân tiếp địa âm” (Đỗ Phủ)…. Ở đây Bác đã thể hiện sự tài tình. Chữ “mạn mạn” vừa gợi cảm giác của cảnh vật, vừa cho thấy phong thái ung dung của người tù, khi nhìn ngắm cảnh thiên nhiên. Đám mây được miêu tả “cô vân” tức cô đơn, lẻ loi, liên tưởng đến hoàn cảnh của Bác: cô đơn, lẻ bóng. Bức tranh thiên nhiên hai câu đầu vừa cổ điển, vừa hiện đại, không chỉ đơn thuần là khung cảnh thiên nhiên mà còn là tâm trạng của con người: người tù mệt mỏi sau một ngày dài nhưng vẫn yêu thiên nhiên, ánh lên sự kiên cường của người chiến sĩ.
Sơn thôn thiếu nữa ma bao túc
Bao túc ma hoàn, lô dĩ hồng
Nếu trong thơ cổ, thiên nhiên luôn là trung tâm của bức tranh và con người chỉ là một chấm nhỏ trong đó:
Lom khom dưới núi tiều vài chú
Lác đác bên sông chợ mấy nhà
(Qua Đèo Ngang – Bà Huyện Thanh Quan)
Thì trong thơ của Bác, điều đó lại hoàn toàn ngược lại. Đây là điểm mới lạ, hiện đại của bài thơ. Con người - thiếu nữ trở thành trung tâm của bức tranh. Cô gái hiện lên với vẻ bình dị, mộc mạc nhưng vô cùng đẹp đẽ trong công việc lao động của mình. Dù công việc cực nhọc, vất vả, nhưng vẫn mang trong đó hơi ấm của cuộc sống. Hình ảnh cô gái trẻ trung, đầy sức sống đã làm cho bức tranh thêm phần đẹp mắt, phản ánh vẻ đẹp của sự khỏe khoắn, lạc quan.
Đặc biệt, trong câu thơ cuối, hình ảnh lò than đã rực hồng, chữ 'hồng' là nhãn tự của bài thơ, không chỉ làm sáng bức tranh cuộc sống mà còn làm sáng bài thơ. Hình ảnh lò than trở thành tâm điểm của bức tranh. Với hoạt động của con người, với sự hiện diện của lò than, cuộc sống ở vùng nông thôn này không còn u tịch, im lặng mà trở nên ấm áp, tràn đầy sức sống. Trong bản gốc, bài thơ không dùng từ 'tối' nào để ám chỉ màn đêm đã buông xuống, nhưng khi đọc, ta vẫn cảm nhận được sự chuyển động của thời gian từ chiều sang đêm rất tự nhiên. Sử dụng ánh sáng để nói về bóng tối, sử dụng ánh sáng rực hồng của lò than để ám chỉ màn đêm đã buông xuống từ lâu, ánh sáng của lò than trong đêm tỏa sáng rực rỡ. Hình ảnh lò than rực hồng là biểu tượng của niềm tin, sự lạc quan vào con đường cách mạng của Bác. Sự chuyển động từ bóng tối sang ánh sáng cũng là quá trình tất yếu của cách mạng.
Bài thơ chỉ với bốn câu thơ nhưng đã thể hiện sự tài hoa của Bác khi kết hợp giữa nét cổ điển và hiện đại, tạo nên vẻ đẹp hài hòa, đặc sắc cho bài thơ. Bài thơ đã làm sáng tỏ vẻ đẹp tâm hồn, nhân cách của Người, dù ở hoàn cảnh tù đầy nhưng lòng yêu thiên nhiên, yêu cuộc sống không bao giờ phai nhạt. Đồng thời còn ánh lên tinh thần sắt đá, niềm lạc quan, tin tưởng vào tương lai cách mạng của người chiến sĩ cách mạng.
Vẻ đẹp cổ điển và hiện đại trong bài thơ Chiều tối - Mẫu 5
'Nhật ký trong tù' của Hồ Chí Minh có đóng góp rất lớn vào thành tựu của văn học Việt Nam. Những vần thơ được Bác viết chứa đựng tinh thần dân tộc, lòng yêu đất nước kết hợp với tình yêu thiên nhiên, yêu con người lao động. Như Tố Hữu cũng đã từng viết:
'Vần thơ của Bác vẫn mạnh mẽ
Mà vẫn sâu lắng như trước'
Chiều tối là một trong những bài thơ xuất sắc nhất được lựa chọn từ tập Nhật kí trong tù. Bài thơ không chỉ thành công trong việc tái hiện chân dung người chiến sĩ cách mạng với tinh thần lạc quan, niềm tin mạnh mẽ vào cách mạng mà còn thể hiện được tài năng nghệ thuật xuất chúng của Hồ Chí Minh khi kết hợp yếu tố cổ điển và hiện đại trong cùng một bài thơ, mang đến một 'hơi thở' mới cho thơ ca Việt Nam.
Thứ nhất, yếu tố cổ điển trong bài thơ được thể hiện qua những hình ảnh thơ quen thuộc, được sử dụng nhiều trong thơ ca cổ điển. Đó là cánh chim trong một buổi chiều xa xăm, là áng mây trôi nhẹ lững lờ:
'Chim mỏi về rừng tìm chốn ngủ
Chòm mây trôi nhẹ giữa tầng không'
Cánh chim mỏi sau ngày dài chao liệng trên bầu trời cũng về rừng ra tìm chốn nghỉ ngơi như con người vậy, sau bao vất vả, mệt nhọc cũng mong có chốn để dừng chân, thư thả. Chòm mây chiều cô độc trôi đi một cách vô định. Cảnh đượm buồn như nỗi lòng người thi sĩ, có mệt mỏi, có buồn thương và cả sự cô đơn lạc lõng nơi đất khách quê người. Bút pháp 'tả cảnh ngụ tình' trong thơ cổ cũng được Bác vận dụng đầy sáng tạo, lấy trạng thái của cảnh để bộc lộ những tâm sự, cảm xúc con người, như đại thi hào Nguyễn Du từng nói: 'Cảnh nào cảnh chẳng đeo sầu/ Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ'.
Có lẽ, ngay lúc này, trên con đường gian nan đầy thách thức, những gông cùm nặng trên đôi vai và sự mất tự do vật chất cũng khiến Bác phải mệt mỏi, nỗi buồn vương, lo lắng vẫn nặng trĩu trong lòng mà sử dụng cảnh để thể hiện những tâm sự của mình.
Yếu tố cổ điển cũng được thể hiện qua thời gian nghệ thuật, đó là buổi chiều. Các nhà thơ xưa thường chọn buổi chiều để nói về nỗi nhớ và nỗi buồn. Cảnh chiều cũng thường gợi cho con người sự trống trải và nỗi khắc khoải trong lòng. Ở đây, Bác cũng đã chọn chiều tối để bộc lộ cảm xúc, dường như đây là khoảng thời gian thích hợp nhất để nhân vật trữ tình thể hiện rõ những nội tâm của mình.
Bút pháp điểm nhấn trong thơ cổ cũng được Bác sử dụng tinh tế để làm nổi bật nội dung, tầng tư tưởng của bài thơ. Nguyễn Du trong truyện Kiều cũng đã dùng bút pháp này để miêu tả, làm nổi bật sức sống và vẻ đẹp hài hoà của mùa xuân:
'Cỏ non xanh bao phủ chân trời
Cành lê trắng rải hoa khắp nơi'
Trong Chiều tối, chữ 'hồng' trở thành nhãn tự tạo nên nguồn sáng cho cả bài thơ. Sự xuất hiện của ánh lửa hồng đã xua đi cái lạnh lẽo, trống trải trong lòng người, đồng thời thắp lên ngọn lửa của niềm tin, của sức sống.
Yếu tố hiện đại được tác giả kết hợp hài hòa với yếu tố cổ điển để tạo nên nét nổi bật. Yếu tố hiện đại được thể hiện qua tâm trạng của nhân vật trữ tình. Đó là một tâm trạng buồn nhưng không bị chìm đắm, luôn lạc quan hướng về phía trước. Dù mệt mỏi nhưng vẫn không ngừng hành động, vẫn sẽ tiếp tục với hành trình của mình sau khi nghỉ ngơi. Từ hình ảnh thiên nhiên buồn đến hình ảnh con người lao động trong cuộc sống, ánh lửa rực hồng là sự phát triển mới mang tinh thần mới, tinh thần của niềm tin yêu vào một tương lai tươi sáng cho dân tộc, ngày mà mọi người được tự do kiểm soát cuộc sống của mình, lao động sản xuất dưới bầu trời tự do. Yếu tố hiện đại còn được thể hiện rõ qua hình ảnh con người trong bài thơ, trong thơ cổ, con người thường rất nhỏ bé thu mình trước thiên nhiên rộng lớn, bao la để đặc tả nỗi cô đơn. Nhưng đến với chiều tối, hình ảnh cô gái xóm núi hiện lên nổi bật trong lao động, dù công việc rất bình dị nhưng lại đầy thu hút. Cuối cùng, tinh thần hiện đại thể hiện qua quan niệm sống, cách sống của tác giả: Mạnh mẽ đối mặt, vượt qua gian khó, thách thức, đối mặt với hiện tại khắc nghiệt bằng thái độ lạc quan, hướng về tương lai tươi sáng. Trong khó khăn, vất vả, dẫu có đôi lúc mệt mỏi với thực tại, Bác không hề khuất phục, vẫn lạc quan với niềm tin lớn lao. Trong khó nhọc, Bác lấy thơ ca làm bạn, lấy lý tưởng làm mục tiêu và lấy ý chí để chiến đấu.
Bác đã viết bài thơ 'Chiều tối' bằng tất cả tình yêu với thiên nhiên, với con người Việt Nam. Từng khoảnh khắc của thời gian luôn được Bác trân trọng, từ 'Giải đi sớm', đến 'Chiều tối' hay 'Ngắm trăng' đều thấy ở Người một tâm hồn rộng lớn với bao phẩm cách cao đẹp. Thơ Bác mãi là ánh sáng soi rọi cho mỗi người, mỗi quê hương dân tộc bước đi và phát triển.
...............
Tải file tài liệu để tham khảo thêm về phân tích vẻ đẹp kết hợp cổ điển và hiện đại trong bài thơ Chiều tối