Phân tích tác phẩm Về luân lí xã hội ở nước ta của Phan Châu Trinh với 2 mẫu và gợi ý viết từ Mytour sẽ là nguồn tư liệu hữu ích cho học sinh lớp 11.
Phân tích bài Về luân lí xã hội ở nước ta thể hiện tinh thần yêu nước, chỉ ra những vấn đề đen tối trong xã hội và tôn vinh tư tưởng đoàn kết vì sự tiến bộ hướng tới tương lai sáng sủa hơn. Dưới đây là 7 bài phân tích Về luân lí xã hội ở nước ta tốt nhất, mời các bạn theo dõi.
Dàn ý phân tích Về luân lí xã hội ở nước ta
Bài viết số 1
I. Khởi đầu:
- Giới thiệu tổng quan về tác giả Phan Châu Trinh (những điểm chính về cuộc đời, con người, các tác phẩm quan trọng, đặc điểm sáng tạo,...).
- Tổng quan về bài viết 'Về luân lí xã hội tại nước ta' (vị trí của đoạn trích, những điểm nổi bật về giá trị nội dung và giá trị nghệ thuật,...).
II. Nội dung chính:
a. Đặt vấn đề: Xác nhận rằng luân lí vẫn còn xa lạ với nước ta
- Tác giả cho rằng 'Trong xã hội Việt Nam, luân lí hoàn toàn không phổ biến'.
- Đưa ra vấn đề về sự thiếu hụt của luân lí ở nước ta.
- Phủ nhận sự xâm phạm và hiểu lầm về luân lí ở nước ta của một số cá nhân.
→ Bằng cách tiếp cận vấn đề một cách trực tiếp và quyết liệt, tác giả Phan Châu Trinh không chỉ khẳng định rằng nước ta thiếu luân lí mà còn phủ nhận, bác bỏ những quan điểm đơn giản, hạn hẹp, thiếu chiều sâu, không chính xác về luân lí xã hội ở nước ta.
b. Tình trạng và nguyên nhân về luân lí ở nước ta so với châu Âu
- Ở châu Âu:
- Không chỉ có xã hội tuân thủ luân lí mà còn rất phổ biến.
- Nguyên nhân: Có tinh thần đoàn kết, tôn trọng dân chủ, trình độ văn hoá và tầm nhìn xa trông rộng.
- Trên lãnh thổ Việt Nam:
- Xã hội chưa thực sự hiểu biết về luân lí.
- Nguyên nhân:
- Tâm lý và hành động của người dân Việt Nam 'thiếu nhận thức về cộng đồng, không coi trọng lợi ích chung', ý thức dân chủ yếu kém.
'Tham quyền lợi, tham phú quý' của các thế hệ học trò và quan lại trong các triều đại phong kiến.
- Chế độ quân chủ truyền thống tạo ra một tình trạng bảo thủ, kỳ cục và kéo dài suốt thời gian dài.
→ Tác giả đã phân tích một cách rõ ràng tình hình hiện tại của luân lí xã hội tại Việt Nam cùng nguyên nhân gây ra tình trạng đó với một tâm trạng đau buồn, phẫn nộ về hoàn cảnh của nhân dân.
c. Đề xuất, triển khai tư tưởng xã hội chủ nghĩa cho người Việt
- Dân ta cần phải tạo ra một tinh thần đoàn kết mạnh mẽ.
- Cần 'lan truyền tri thức về xã hội chủ nghĩa trong lòng người dân Việt Nam'.
III. Tổng kết:
- Tổng quan về giá trị nội dung, giá trị nghệ thuật của bài viết 'Về luân lí xã hội tại Việt Nam' và thể hiện suy nghĩ cá nhân của tác giả.
Bảng tổ chức số 2
1. Khởi đầu
- Tổng quan về tác giả Phan Châu Trinh
- Tổng quan về bài viết 'Về luân lí xã hội tại Việt Nam'
2. Nội dung chính
a. Phần 1: Quan điểm về luân lí của tác giả
* Tình hình xã hội Việt Nam trước khi có luân lí
- Định nghĩa về luân lí xã hội: là những nguyên tắc, quan điểm được xây dựng phù hợp với lẽ thường, chi phối mọi hoạt động và tiến triển của xã hội.
- Đặt vấn đề một cách trực tiếp, rõ ràng và phủ nhận: 'tại Việt Nam, luân lí xã hội hoàn toàn không phổ biến”. Tác dụng: nhấn mạnh vấn đề và gây ảnh hưởng mạnh mẽ đến nhận thức của độc giả, người nghe.
- Luân lí xã hội bị hiểu sai lệch, bị méo mó:
- Mối quan hệ bạn bè không thể thay thế được cho luân lí xã hội. Đó là tình cảm cá nhân giữa con người với con người.
- Quan niệm Nho gia bị hiểu sai, bị lệch lạc (những người học giỏi ra làm quan thường nhắc câu “Tề gia, trị quốc, bình thiên hạ” nhưng ít ai hiểu đúng bản chất của vấn đề “bình thiên hạ”)
=> Thể hiện quan điểm tư tưởng của một nhà nho uyên bác, tinh tế và phản ánh thời đại.
* Quan điểm về luân lí xã hội của tác giả:
- Tác giả sử dụng phương pháp so sánh giữa luân lí xã hội ở châu Âu và luân lí xã hội ở Việt Nam để làm nổi bật tình trạng: Việt Nam chưa thực sự có luân lí xã hội.
- Luân lí xã hội, cụ thể là chủ nghĩa xã hội, bao gồm: luân lí trong gia đình, luân lí quốc gia, trách nhiệm và nghĩa vụ công dân đối với quốc gia tại Việt Nam đã phai mờ dần.
- So sánh tình hình luân lí xã hội ở Châu Âu và tại nước ta
* Luân lí xã hội ở Châu Âu
- Hiện trạng: Phổ biến và phát triển mạnh mẽ
- Ví dụ:
- Nguyên nhân:
- Đồng bào có khả năng đoàn kết, biết giữ vững công việc chung.
- Đồng bào có kiến thức (văn hoá)
- Biết nhìn xa trước (có khả năng suy luận xa)
- Họ có lòng dân chủ cao.
* Luân lí xã hội ở Việt Nam:
- Hiện trạng: Thiếu hiểu biết, bình thản như người ngủ không biết gì.
- Ví dụ:
- Nguyên nhân:
- Thiếu ý thức đoàn kết, sự đoàn kết chưa đồng nhất.
- Ít có ý thức dân chủ.
- Quan điểm về luân lí xã hội của tác giả:
- Mỗi cá nhân trong xã hội cần phải có tinh thần đoàn kết, sẵn lòng giúp đỡ lẫn nhau.
- Luôn hiện hữu ý thức hỗ trợ khi người khác gặp khó khăn, nguy nan…
=> Tác giả nhấn mạnh về lối sống văn hóa giữa con người với con người.
b. Phần 2: Nguyên nhân và tư duy của tác giả
* Nguyên nhân:
- Các quan lại trong nước: Đam mê danh vọng, tôn vinh cá nhân và tìm kiếm sự giàu có dẫn đến việc vâng ngũ, bảo bọc và tận dụng sự ngu dốt của nhân dân để củng cố quyền lực và tăng thêm lòng tham (đối với họ, dân càng thống trị, họ càng giàu có)
- Các trí thức theo phong cách phương Tây: Quan tâm đến danh vọng, quyền lực và ưu ái từ phía các quý tộc, nhưng họ đã đổ xô vào làm quan với tư duy “một người làm quan, toàn gia được phước”.
- Nhân dân Việt Nam:
- Trước kia: biết đoàn kết, có ý thức về lợi ích cộng đồng, biết chung tay cùng nhau phục vụ lợi ích công cộng.
- Nay: thờ ơ, lãng phí, mất đi ý chí, không dám đấu tranh để bảo vệ quyền lợi của mình. (không ai chỉ trích, không ai phê phán); người cùng một làng thì phân chia thành phe, phân biệt đối xử với người dân ngoại tỉnh…
* Thái độ của tác giả:
- Đối với các quan lại, trí thức theo phong cách Tây học:
- Cách gọi tên: bọn quan lại, bọn thượng lưu (dưới lưu), bọn Nho học...
- Sử dụng ngôn từ và biểu hiện hình tượng: kẻ mặc áo rộng, đội khăn đen lúc nhúc kính cẩn, kẻ đeo đai cao bảo mũ tỏ vẻ ngạo nghễ, lũ cướp phá có giấy phép.
=> Thái độ khinh bỉ, căm phẫn và lên án.
- Đối với nhân dân Việt Nam:
Sử dụng các biểu đạt cảm xúc
=> Tác giả không chỉ diễn đạt quan điểm bằng lý trí mà còn thông qua lòng trắc ẩn sâu sắc, tràn đầy xúc cảm, chứa đựng nỗi thương xót và đau đớn về tình hình tồi tệ của xã hội
- Về tác giả bản thân: hai câu cảm thán cuối cùng cho thấy tinh thần mạnh mẽ, tâm huyết của tác giả, ông mong muốn thúc đẩy sự thay đổi trong tư duy của nhân dân, hướng họ về tinh thần đoàn kết, lợi ích chung, và loại bỏ chế độ chuyên chế của quân lại.
c. Phần 3: Giải pháp:
- Mục tiêu: Quốc gia đạt được sự tự do và độc lập.
- Giải pháp:
- Trong ngắn hạn: Tăng cường tinh thần đoàn kết và ý thức về lợi ích cộng đồng.
- Trong dài hạn: Lan tỏa Chủ nghĩa xã hội trong cả cộng đồng.
=> Phương án giải quyết ngắn gọn, thuyết phục và dễ hiểu.
3. Tổng kết
- Tóm tắt lại vấn đề.
Phân tích bài Về luân lí xã hội ở nước ta - Mẫu 1
Phan Châu Trinh (1872-1926) là một nhà văn chí sĩ yêu nước nổi tiếng. Ông khai phá tiềm năng của thực dân Pháp để thúc đẩy cải cách và độc lập quốc gia. Với lòng yêu nước sâu sắc, ông sử dụng văn chương làm công cụ cách mạng, tác phẩm của ông đậm chất hùng biện, lập luận chặt chẽ, thấm nhuần tư tưởng yêu nước và dân chủ.
Trong đoạn trích, Phan Châu Trinh thể hiện tinh thần yêu nước mạnh mẽ, vạch trần những vấn đề xã hội đen tối, khuyến khích tư tưởng đoàn kết vì tiến bộ và hy vọng vào tương lai sáng sủa của quốc gia. Ông mong muốn toàn bộ cộng đồng dân cần nhận thức trách nhiệm của mình đối với sự phát triển của quốc gia và dân tộc.
Trong tác phẩm, Phan Châu Trinh thảo luận về luân lí xã hội, đề cập đến tình hình xã hội hiện tại của Việt Nam. Ông nhấn mạnh rằng trong xã hội Việt Nam hiện nay, ý thức về luân lí xã hội chưa được nhận thức đúng đắn. Ông chỉ ra rằng hiểu sai về luân lí xã hội sẽ dẫn đến tình trạng tiêu vong của quốc gia. Ông so sánh quan điểm về luân lí xã hội giữa người Việt và người Tây Âu để làm nổi bật vấn đề này.
Phan Châu Trinh lưu ý rằng ở Việt Nam, khái niệm về luân lí xã hội vẫn chưa được hiểu đúng. Ông tuyên bố rằng 'Xã hội luân lí thực sự ở nước ta tuyệt nhiên không ai biết đến, so với các quốc gia luân lí thì chúng ta còn nhiều hơn rất nhiều. Một lời bạn bè không thể thay thế cho xã hội luân lí, cho nên không cần phải giải thích gì'. Ý tưởng của ông là luân lí xã hội không chỉ đơn giản là mối quan hệ bạn bè mà nó nằm ở mức độ sâu sắc hơn. Tiếp theo, ông so sánh quan điểm về luân lí xã hội giữa người châu Âu và người Việt để nhấn mạnh tình trạng này.
Tác giả nhận định người châu Âu thường có tinh thần đoàn kết, sẵn lòng hỗ trợ lẫn nhau và tôn trọng quyền lợi của mọi người. Ngược lại, ông chỉ ra rằng ở Việt Nam, không có luân lí xã hội, dân ta thường chỉ quan tâm đến bản thân mình mà không quan tâm đến người khác. Ông minh họa điều này bằng các ví dụ cụ thể.
Tác giả phê phán sự suy giảm của tinh thần đoàn kết và công ích trong xã hội Việt Nam hiện nay. Ông cũng chỉ trích sự thối nát của xã hội phong kiến và sự tham nhũng của quan lại. Cuối cùng, ông đề xuất cần xóa bỏ chế độ phong kiến và xây dựng một xã hội chủ nghĩa để đạt được luân lí xã hội.
Tác giả lên án sự tham nhũng của quan lại và sự thờ ơ của dân chúng. Ông đề xuất cần phải xóa bỏ chế độ phong kiến để xây dựng một xã hội công bằng và văn minh hơn.
Tác giả nhấn mạnh tầm quan trọng của đoàn kết và ý thức dân chủ trong xã hội. Ông kết luận rằng để đạt được luân lí xã hội, cần phải gây dựng một xã hội chủ nghĩa và nâng cao ý thức của người dân.
Phan Châu Trinh đã phân tích một cách sâu sắc về thực trạng của luân lí xã hội ở Việt Nam hiện nay. Ông nhấn mạnh tầm quan trọng của tinh thần đoàn kết và trách nhiệm cá nhân đối với quốc gia và dân tộc.
Phân tích Về luân lí xã hội tại đất nước chúng ta - Mẫu 2
Phan Châu Trinh được biết đến là một nhà cách mạng, một nhà yêu nước với tư tưởng cách mạng và tinh thần cách tân độc đáo trong lịch sử dân tộc. Không chỉ là nhà cách mạng, ông còn là một nhà văn với nhiều tác phẩm bằng cả chữ Hán, chữ Nôm, chữ quốc ngữ. Ông được biết đến với những bài văn chính luận sâu sắc và những bài thơ mang tinh thần dân chủ và yêu nước. Trong đó, đoạn trích 'Về luân lí xã hội tại đất nước chúng ta' từ bài 'Đạo đức và luân lí Đông Tây' là một trong những tác phẩm đặc sắc của ông.
Trong phần mở đầu của bài viết 'Về luân lí xã hội tại đất nước chúng ta', Phan Châu Trinh đã đề cập một cách rõ ràng đến vấn đề chính mà ông muốn thảo luận, đó là sự thiếu hiểu biết về luân lí xã hội trong xã hội Việt Nam. Ông đã nêu vấn đề ngay từ câu văn mở đầu của đoạn trích 'Xã hội luân lí thật trong nước ta hoàn toàn không ai biết đến'. Tác giả nhấn mạnh rằng, không ai biết đến luân lí trong xã hội, và ông bác bỏ những quan điểm sai lệch về luân lí xã hội ở Việt Nam.
Ngoài ra, Phan Châu Trinh cũng so sánh thực trạng xã hội ở Việt Nam với các nước châu Âu và phân tích nguyên nhân dẫn đến sự thiếu luân lí. Ông chỉ ra rằng ở châu Âu, xã hội luân lí rất phổ biến và nguyên nhân là do tinh thần đoàn kết và dân chủ. Trong khi đó, ở Việt Nam, người dân không biết đến tập thể và không có ý thức dân chủ, một phần là do tinh thần ham quyền và quyền lực trong triều đại phong kiến.
Phân tích Về luân lí xã hội ở nước ta - Mẫu 3
Phan Châu Trinh (1872 – 1926), hiệu Tây Hồ, quê ở làng Tây Lộc, huyện Tiên Phước, phủ Tam Kỳ (nay là thôn Tây Hồ, xã Tam Lộc, huyện Phú Ninh, tỉnh Quảng Nam). Ông là một nhà lãnh đạo yêu nước, tán thưởng cách thức tiêu biểu như sử dụng thực dân Pháp để phá bỏ chế độ phong kiến, nhằm mục đích làm giàu đất nước. Ông luôn nhấn mạnh sức mạnh của văn chương để tuyên truyền, kêu gọi cách mạng.
Các tác phẩm đáng chú ý của Phan Châu Trinh gồm: Đầu Pháp chính phủ thư (1906), Tinh quốc hồn ca II (1907, 1922), Tây Hồ thi tập (1904 – 1914), Xăng-tê thi tập (1914 -1915), Thất điều trần (1922), Đạo đức và luân lí Đông Tây (1925),…
Đoạn trích về luân lí xã hội ở nước ta là phần III của bài Đạo đức và luân lí Đông Tây, được Phan Châu Trinh viết và diễn thuyết vào đêm 19-11-1925 tại Hội Thanh niên ở Sài Gòn. Nội dung của đoạn này thể hiện lòng dũng cảm của một người yêu nước, hé lộ sự thực về xã hội đen tối và tôn vinh tư tưởng dân chủ. Tác giả khẳng định việc truyền bá luân lí xã hội là cần thiết và quan trọng để khôi phục ý thức dân tộc, hướng dẫn mọi người đến với mục tiêu giành lại độc lập và xây dựng tương lai cho đất nước.
Các phần nội dung trong đoạn trích này được kết nối với nhau như sau:
Hiện tại, ở nước ta, luân lí xã hội gần như chưa tồn tại. Nguyên nhân chính là do thiếu ý thức đoàn kết của dân ta, họ chưa biết bảo vệ lẫn nhau và bảo vệ quyền lợi chung. Các quan lại thì tham lam, ích kỷ, họ cố tình làm cho dân chúng cả về tinh thần lẫn vật chất trở nên bần cùng. Vì vậy, để Việt Nam đạt được độc lập, trước hết cần phải truyền bá luân lí xã hội, xây dựng tinh thần đoàn kết để tập trung vào lợi ích chung, và tiến tới đánh đổ chế độ phong kiến thối nát.
Đầu tiên, chúng ta cần hiểu khái niệm chủ nghĩa xã hội. Quan điểm của Phan Châu Trinh về chủ nghĩa xã hội không giống với quan điểm của Karl Marx. Ông cho rằng lịch sử xã hội của loài người tiến triển qua gia đình – quốc gia – xã hội và cùng với đó là sự phát triển tuần tự của luân lý gia đình, luân lí quốc gia và luân lí xã hội. Trong khi đó, Karl Marx khẳng định lịch sử của mọi xã hội là lịch sử của cuộc chiến tranh giai cấp.
Luân lí xã hội mà tác giả đề cập đến trong đoạn trích này liên quan đến ý thức sẵn sàng vì lợi ích chung, là tinh thần đoàn kết giúp đỡ nhau trong đoàn thể vì tiến bộ xã hội. Luân lí ở phương Tây đã phát triển qua ba giai đoạn, từ gia đình, lên quốc gia, đến xã hội. Trong thời Trung cổ, luân lí chỉ trong phạm vi gia đình, và mỗi gia đình tự lo cho mình. Khi các quốc gia hình thành (khoảng thế kỷ XVI), luân lí quốc gia xuất hiện, với mỗi quốc gia lo củng cố, phát triển quốc gia của mình. Sau Chiến tranh thế giới lần thứ nhất, ý niệm về luân lí xã hội mới thực sự được đề xuất và phát triển. Luân lí xã hội là luân lí của chủ nghĩa xã hội, đề cao sự bình đẳng của con người, quan tâm không chỉ đến quyền lợi của gia đình, quốc gia mà còn đến toàn thế giới. Theo Phan Châu Trinh, ở xã hội Việt Nam hiện nay, cả luân lí gia đình và luân lí quốc gia, với ý thức nghĩa vụ công dân đối với quốc gia là trật tự đều đã mất. Điều này làm mất nước. Còn về luân lí xã hội, đang được khuyến khích ở các nước phương Tây, thì ở dân ta vẫn chưa có nhận thức gì.
Trong phần 1 của đoạn trích, tác giả đi thẳng vào vấn đề và đưa ra một loạt câu phủ định để tạo ra sự chú ý và ấn tượng mạnh mẽ. Đây là cách tiếp cận ngắn gọn, rõ ràng, thể hiện sự sắc bén, nhạy bén của nhà cách mạng Phan Châu Trinh. Vấn đề chính là: Ở Việt Nam, luân lí xã hội chưa tồn tại: Xã hội luân lí thực sự ở nước ta hoàn toàn không ai biết, so với luân lí quốc gia thì chúng ta còn thiếu hiểu biết nhiều hơn.
Trong phần 2, tác giả so sánh quan điểm, nhận thức của người châu Âu và người Việt Nam về luân lí xã hội. Sự khác biệt nằm ở ý thức nghĩa vụ giữa người với người. Xã hội châu Âu coi trọng dân chủ, tôn trọng sự bình đẳng của con người, không chỉ quan tâm đến từng gia đình, từng quốc gia mà còn đến cả thế giới: Ở Pháp, mỗi khi một người hoặc một tổ chức nào đó có quyền thế, hoặc Chính phủ, sử dụng sức mạnh để đàn áp quyền lợi riêng của mình hoặc của một tổ chức nào đó, thì người ta sẽ hoặc kêu gọi, hoặc chống đối, hoặc thể hiện sức mạnh của họ cho đến khi công bằng được thiết lập.
Tác giả minh chứng rằng ở Việt Nam hoàn toàn không có luân lí xã hội thông qua bốn lập luận và các minh chứng cụ thể, rõ ràng:
Luận điểm thứ nhất: Dân ta chỉ quan tâm đến bản thân, không để ý đến người khác, sợ sệt và không hiểu ý nghĩa của việc chia sẻ với nhau. Mọi người trong nước chưa hiểu rõ nghĩa vụ của mình. Chứng minh: Người mình không bận tâm tới ai khác, và người chết không liên quan đến mình! Khi gặp người gặp phải tai nạn, hoặc thấy người yếu bị người mạnh bắt nạt, họ thường bỏ qua mà không can thiệp.
Luận điểm thứ hai: Dân ta thiếu tinh thần đoàn kết, không coi trọng lợi ích chung. Trước đây, dân tộc Việt Nam đã biết tới tinh thần đoàn kết và lợi ích chung, họ hiểu rằng: nếu muốn sống tốt, họ phải giúp đỡ nhau và làm việc cùng nhau. Tác giả dùng các thành ngữ để chứng minh rằng tổ tiên ta cũng đã biết về sức mạnh của sự đoàn kết: Không ai uốn éo một mình và Mọi việc khó khăn sẽ dễ dàng hơn khi cùng nhau làm. Nhưng đáng tiếc, tinh thần đó đã mất đi ngày nay.
Tác giả chỉ ra rằng nguyên nhân của việc dân không biết đoàn kết, không trọng lợi ích chung là do sự thối nát của chế độ phong kiến. Ông vạch trần bản chất của bọn vua quan bảo thời đó, họ lừa dối và lợi dụng dân để duy trì quyền lực và tham lam của mình:
Dân không biết đoàn kết, không trọng lợi ích chung là do trong suốt hơn ba trăm năm qua, những kẻ giáo dục trong nước chỉ biết thèm quyền lợi, vinh quang của các vị vua mà họ phục tùng và tỏ ra giả dối, chỉ quan tâm đến vua mà không để ý đến dân. Họ muốn giữ cho túi của họ luôn đầy và duy trì vị thế của họ mạnh mẽ, vì vậy họ đã tìm mọi cách để phá hủy đoàn kết của quốc gia.
Luận điểm thứ ba: Các vua và quan lại chỉ biết bóp méo dân chúng, chúng chỉ quan tâm đến việc thu hút và lợi dụng, coi dân là công cụ để duy trì và mở rộng quyền lực của họ. Chúng là những người vô tình và tàn nhẫn, không quan tâm đến lợi ích của dân chúng:
Dù gian khổ đến đâu, miễn có kẻ đứng đầu, kẻ thấp thỏm dưới, thì cứ thế sống qua ngày cũng được!
Tác giả sử dụng nhiều câu văn bi thương để bày tỏ nỗi đau lòng trước hoàn cảnh đen tối của dân chúng: Dân thông minh mà làm gì! Dân ngu mà làm gì! Dân tận dụng mà làm gì! Dân hại mà làm gì! Dân càng nô lệ, vua càng trụ vững, quan lại càng giàu có!
Người ngoài khen ngợi thì người nhà ủng hộ, khiến cho những kẻ tham lam không thể tham gia vào xã hội quan lại. Quan lại từ xưa đến nay ở nước ta cũng vậy! Tầng lớp thượng lưu – dù không phải là thượng lưu thật sự, tôi chỉ dùng hai từ này để mọi người dễ hiểu – ở nước ta cũng như vậy!
Tác giả chỉ trích trực tiếp những quan tham: Ngày xưa họ là những người học Nho đã tốt nghiệp, tiến sĩ, ngày nay họ là những người học Tây đã được bổ nhiệm vào vị trí quan trọng; có khi họ thậm chí làm quan chỉ vì mối quan hệ, thân thế. Những quan lại đã được nêu trên thực chất không khác gì lũ ăn cắp có giấy phép.
Cách tác giả gọi những quan tham, những kẻ hám lợi là rất chính xác và thể hiện sự căm ghét sâu sắc của ông đối với tầng lớp quan lại Nam triều. Ông tin rằng chế độ vua quan là tồi tệ, cần phải bị loại bỏ một cách hoàn toàn. Ông cũng chỉ ra sự yếu đuối của dân và đất nước. Trước sự lạm dụng của bọn thống trị, bọn chúng lấy của dân để mua vườn, xây nhà, và những kẻ xấu lại cố gắng mua mua bán bán quan lại để lên ngôi, để ăn mặc xa hoa... nhưng dân vẫn chịu đựng, không dám phản đối, chê trách gì cả.
Luận điểm thứ tư: Mọi người đều hướng về quyền lực, ai có quyền thì được tôn vinh, ai yếu thì bị phụ thuộc, dựa dẫm: Người nơi xóm thấy quan giàu sang, quyền thế cũng theo, đều ham muốn làm quan. Ai phục vụ quan, ai ủng hộ, ai đi đến đâu, ai bán mua cũng vui lòng, chỉ cần có được một chức xã trưởng hoặc cai tổng, để ngồi trên, để ăn mặc xa hoa, để hống hách thì mới thôi. Những người như vậy mà không ai khen ngợi, không ai khinh bỉ, thật là lạ! Thương ôi! Trong làng có một trăm người nhưng mọi người đều theo sức mạnh, không còn chút đạo đức hay luân lí nào cả. Đó là nói về người trong làng đối với nhau, chỉ như đối với dân khu phố thì lại còn khắc nghiệt hơn nữa. Ôi! Một dân tộc như vậy thì làm sao có thể nảy sinh tư tưởng cách mạng được! Xã hội chủ nghĩa trong nước Việt Nam không có cũng vì thế.
Phân tích Về luân lí xã hội ở nước ta - Mẫu 4
Giống như nhiều nhà cách mạng khác ở Việt Nam đầu thế kỉ XX. Mục tiêu cuối cùng của Phan Châu Trinh cũng là giành độc lập tự do cho dân tộc. Tuy nhiên, mỗi người chọn lựa con đường riêng. Sử dụng trực giác, sự nhạy bén của một nhà trí thức, tầm nhìn rộng lớn của một người theo tư tưởng dân chủ, ông không chọn con đường bạo lực mà kiên trì thực hiện: 'Khai dân trí', 'Chấn dân khí', 'Hậu dân sinh' để tạo ra sức mạnh dân tộc. Tư tưởng đó được thể hiện rõ trong bài Đạo đức và luân lí Đông Tây, được viết vào năm 1925. Đoạn trích Về luân lí xã hội ở nước ta là ví dụ tiêu biểu cho tư tưởng này.
Bài Đạo đức và luân lí Đông Tây được ông thuyết trình vào đêm 19-1-1925 tại nhà thanh niên ở Sài Gòn (Thành phố Hồ Chí Minh ngày nay). Trong bài viết, Phan Châu Trinh đã nhấn mạnh tác dụng của đạo đức luân lý, xác nhận một trong những nguyên nhân khiến nước mất là mất đạo đức, luân lý truyền thống. Đoạn trích này cho thấy, tinh thần dân chủ; ý thức cộng đồng ở nước ta vẫn còn thấp, muốn trở thành mạnh mẽ như các nước phương tây phải tìm ra nguyên nhân và khắc phục tình trạng này. Rõ ràng, đây là cách giải quyết vấn đề chặt chẽ, sáng tạo, dễ thuyết phục.
Phần đầu của văn bản, Phan Châu Trinh chỉ rõ tình trạng buồn của xã hội Việt Nam đầu thế kỉ XX là dân trí thấp. Điều này hoàn toàn chính xác do chính sách của người Pháp khi điều hành ở Đông Dương là thực hiện chính sách kiểm soát dân dễ dàng. Tuy nhiên, cách viết của Phan Chu Trinh không chỉ chính xác mà còn sâu sắc và thuyết phục. Bắt đầu từ tình trạng dân trí thấp, ông chỉ ra những hệ lụy kéo theo. Như tác giả, ông nói: 'Xã hội luân lí trong nước ta tuyệt nhiên không ai biết đến, so với quốc gia luân lí thì người mình còn dốt nát hơn nhiều'. Điều này có nghĩa là tinh thần xã hội có ý thức cộng đồng ở nước ta 'dốt nát hơn nhiều'. Hoặc chí ít là hầu như không được biết đến. Không chỉ sử dụng lập luận mà cách ông lựa chọn từ ngữ, so sánh... cũng rất sắc sảo. Tác giả cũng thể hiện thái độ xót xa, phẫn nộ, là thái độ của một con người yêu nước. Thái độ này của Phan Chu Trinh rất đáng kính trọng dù ông hướng về phương Tây để áp dụng 'tinh thần mới'. Nhưng ông không từ bỏ truyền thống Đạo giáo, thậm chí vẫn trân trọng nó. Điều này một lần nữa thể hiện quan điểm của ông. Sáng tạo nhận thức của dân theo hướng hiện đại để theo kịp thời đại nhưng không bỏ qua triết lý và phong cách sống phương Đông. Có lẽ, ông là người rất thích hợp với thời đại khi sau hơn một thế kỉ, trong bối cảnh hội nhập, chúng ta luôn giữ 'tính đồng thuận nhưng không phải đồng nhất'.
Sau khi chỉ ra tình hình u ám của cuộc sống tinh thần, ý thức xã hội và cộng đồng ở nước ta, tác giả đã so sánh với các nước phương Tây để làm rõ. Tác giả chỉ cần một ví dụ để thể hiện một biểu hiện đã trở thành phong tục: 'Ở Pháp, mỗi khi có ai đang sở hữu quyền lực hoặc chính phủ lợi dụng quyền lực để đè nén quyền lợi cá nhân hoặc một tổ chức nào đó, thì người ta sẽ phản đối hoặc đấu tranh, hoặc biểu tình, sử dụng biện pháp đòi quyền đến khi có kết quả mới ngừng'. Hiện tượng này thực sự là mới lạ đối với người Việt Nam. Mới lạ vì theo tác giả, họ có 'đoàn kết', có 'đạo đức' - có nghĩa là họ có cộng đồng, có ý thức xã hội, hay đúng hơn là dân trí đã tiến bộ ở mức cao. Rõ ràng đây là điểm yếu, là điều mới mẻ với con người Việt Nam như đã được mô tả trên.
Vậy tình hình của ý thức xã hội, ý thức cộng đồng mà tác giả đề cập ở nước ta là gì? Theo tác giả, ta có thể nhận thấy một sự thực: 'ai chết thì ai cũng không quan tâm, ai sống thì ai cũng tập trung vào lợi ích bản thân, sống cô lập'. Tuy nhiên, điều đáng chú ý là tác giả không chỉ dừng lại ở việc chỉ ra hiện tượng, mà ông còn đi tìm nguyên nhân của nó. Trái với quá khứ, ta có thể thấy rõ tổ tiên của chúng ta không dạy như vậy. Câu ca dao 'Không ai bẻ đũa cả nắm' là một minh chứng cho điều đó. Điều này chứng tỏ rằng, 'dân tộc Việt Nam từ ngàn xưa đã hiểu về sự đoàn kết, hiểu về lợi ích chung, hiểu cách hợp tác với nhau, chung sức để giải quyết các vấn đề...'. Cuối cùng, nguyên nhân chính là do những người cầm quyền trong hàng trăm năm qua. Họ mắc căn bệnh 'tham quyền, tham lợi' không biết đến dân, chỉ quan tâm đến việc làm hài lòng vua mà thôi. Chẳng ai dạy dỗ họ thậm chí họ còn 'phá hủy đoàn kết của quốc gia'.
Đọc văn bản, chúng ta có thể dễ dàng nhận ra thái độ của Phan Châu Trinh. Ông căm ghét, khinh miệt những kẻ này đến mức cực độ. Bắt đầu từ cách gọi là 'đám' 'kẻ', 'bọn' tất cả chúng đều 'lúc nhúc' như dòi bọ. Rồi đến lời lẽ châm biếm, ghê tởm khi nói về những người tham quyền lợi: 'Dẫu có dẫu trôi nổi, dẫu gánh chịu khổ cực thế nào đi nữa, miễn là có người đội mũ, đai, có người mặc áo rộng, khăn đen lúc nhúc quỳ dưới chân, một trăm nghìn năm như thế cũng xong? Lời lẽ thương tâm khi miêu tả người dân: 'Dân khôn mà làm gì! Dân lợi mà làm gì! Dân hại mà làm gì! Dân càng nô lệ, ngôi vua càng thọ lâu, quan lại càng phú quý!' Nghĩa là ông đã chỉ ra, thể hiện sự quan tâm về mối quan hệ giữa sự giàu có của quan lại và sự khốn khổ của dân. Tuy nhiên, khốn khổ của Phan Châu Trinh không chỉ là vấn đề về thức ăn. Điều đáng buồn nhất với họ là họ bị 'mất trí mà không biết', họ không đủ thông minh để phân biệt. Những kẻ tham quyền lợi, tham lam như một loại dịch bệnh, lan truyền, từ người học văn bản Trung Hoa đến người học văn bản Tây, từ người ở quê đến người ở thành thị, hỏi điều gì sẽ kết thúc cái dịch ấy? Hỏi ai sẽ là người chữa trị cho căn bệnh nguy hiểm ấy? Trước thực tế đó, ông đã phải thốt lên: 'Ôi! Một dân tộc như thế mà tư tưởng cách mạng nảy nở trong suy nghĩ của họ thì làm sao? Xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam không tồn tại cũng là vì điều này!'. Kết thúc bài viết là một phần luận điểm đồng thời cũng là một lời kêu gọi. Các vấn đề được liên kết như một chuỗi. Để độc lập cần phải có sự đoàn kết, và để đạt được sự đoàn kết cần phải 'lan truyền ý chí Xã hội chủ nghĩa', cần phải làm cho người dân nhận ra, khơi gợi sự đoàn kết. Chỉ có như vậy, dân tộc Việt Nam mới có đủ sức mạnh để đẩy lùi kẻ xâm lược, mới thoát khỏi cuộc sống nô lệ.
Phân tích về tác phẩm Về luân lí xã hội ở nước ta - Mẫu 5
Cho đến ngày nay, ngày càng nhiều người nhận ra giá trị tư tưởng vĩ đại của Phan Châu Trinh - người đầu tiên mang tư tưởng dân chủ đến Việt Nam. Phan Châu Trinh không ủng hộ việc sử dụng bạo lực để đạt được độc lập cho đất nước. Sớm nhận biết được xu hướng toàn cầu hóa đang diễn ra trên thế giới, ông kiên trì thực hiện nhiệm vụ 'khai dân trí', 'chấn dân khí', 'hậu dân sinh', xem đó như là lối thoát khỏi mọi vấn đề khó khăn của xã hội Việt Nam vào thời điểm đó. Công việc của ông đã được nhận biết rộng rãi, tất cả đều nhấn mạnh vào việc đánh thức ý thức dân tộc, khơi dậy ý thức về dân chủ, dân quyền, chỉ ra những khuyết điểm cơ bản của dân ta, của quốc gia ta trong cuộc đua mạnh mẽ với thế giới,...
Sau 15 năm lưu vong tại Pháp, vẫn trung thành với lập trường cách mạng đã nói, Phan Châu Trinh trở về Việt Nam và tích cực hoạt động để thức tỉnh tinh thần đoàn kết, sức mạnh đồng lòng để đẩy bỏ sự áp bức của chế độ cường quyền. Ông đã có những bài diễn thuyết quan trọng tại Sài Gòn trước khi ra đi, trong đó có buổi diễn thuyết về Đạo đức và luân lí Đông Tây vào đêm 19-11-1925 tại nhà Hội Thanh niên.
Bài diễn thuyết về Đạo đức và luân lí Đông Tây có nội dung phong phú, cao lớn, với sự tôn trọng của đạo đức, luân lý, nhấn mạnh việc tìm nguyên nhân của sự mất nước trong việc mất đi đạo đức, luân lý truyền thống.
Phan Châu Trinh phân biệt đạo đức và luân lí, xem đạo đức là điều bất biến trong khi luân lí có thể thay đổi theo thời gian, do đó, để đưa Việt Nam ra khỏi tình trạng yếu đuối, mất độc lập, cần phải cải tổ luân lí đã sụp đổ từ trước đến nay, xây dựng một luân lí mới trên cơ sở của truyền thống vinh quang (cũng là đạo đức thực sự) đã từng tồn tại. Để thuyết phục người nghe rằng việc nhập khẩu luân lí mới từ phương Tây hoàn toàn không phải là sự ép buộc, Phan Châu Trinh chỉ ra: xã hội dân chủ tư sản cùng sự tiến bộ, giàu có của các quốc gia châu Âu hiện đại là kết quả của việc xây dựng một luân lí, đạo đức tương tự với luân lí, đạo đức Khổng – Mạnh ở Trung Quốc và Việt Nam vào những thời kì thịnh vượng. Từ điểm này, ông đề xuất: “Đạo Khổng – Mạnh đã mất, nên chúng ta muốn nước mình có một luân lí vững chắc, thì không gì bằng chúng ta mang chủ nghĩa dân chủ Âu châu về. Chủ nghĩa dân chủ chính là một loại thuốc rất hiệu quả để chữa trị bệnh nền của nước ta. Mang văn minh Âu châu về cũng có nghĩa là mang đạo Khổng – Mạnh về”. Nếu bỏ qua việc đơn giản hóa các nền văn hóa, các triết lý khác nhau, có thể nói, Phan Châu Trinh, với sự nhạy cảm riêng của một người có kinh nghiệm diễn thuyết, đã biết cách làm “hài lòng” những ai thường tự hào về nền văn minh tinh thần của châu Á, trong đó có Việt Nam.
Theo Phan Châu Trinh, luân lí phương Tây đã tiến triển qua ba giai đoạn, từ gia đình, lên quốc gia, đến xã hội. Trong thời Trung cổ, luân lí mới chỉ là luân lý gia đình, mỗi gia đình tuân theo luân lí riêng của mình; khi các quốc gia hình thành (khoảng thế kỷ XVI), có luân lí quốc gia, mỗi quốc gia lo củng cố, phát triển luân lí của quốc gia mình; chỉ sau Chiến tranh thế giới thứ nhất, ý thức về luân lí xã hội mới thực sự được đề cập và xây dựng. Luân lí xã hội tức là luân lý của chủ nghĩa xã hội, coi trọng sự bình đẳng của con người, không chỉ quan tâm đến từng gia đình, quốc gia mà còn đến cả thế giới. Cũng theo Phan Châu Trinh, trong xã hội Việt Nam thời đó, cả luân lí gia đình lẫn luân lí quốc gia (mà phần cốt lõi là ý thức nghĩa vụ đối với quốc gia) đã tiêu vong. Đây là nguyên nhân chính của tình trạng mất nước. Riêng về luân lí xã hội là thứ luân lí đang được khuyến khích ở các nước phương Tây thì người dân ta chưa hiểu biết gì (cần lưu ý: tác giả đã sử dụng khái niệm theo cách diễn giải của tiếng Hán; ở đây, xã hội luân lí hoặc quốc gia luân lí chính là luân lí xã hội, luân lí quốc gia theo cách diễn giải thông thường ngày nay).
Nhìn chung, trong bài diễn thuyết này, khi phân tích tình hình của đất nước, Phan Châu Trinh luôn muốn người nghe có cái nhìn tổng quan về thế giới. Hiểu người là để hiểu bản thân mình. Nắm vững đại cục để xác định một hướng đi cụ thể nhất. Con đường phát triển của xã hội Việt Nam phải hoàn toàn tương xứng với con đường phát triển tổng thể của xã hội nhân loại,…
Tóm tắt nội dung của đoạn trích về luân lí xã hội ở nước ta (thuộc phần thứ III của bài diễn thuyết) như sau: người Việt Nam hiện vẫn chưa hoàn toàn hiểu biết về khái niệm luân lí xã hội và còn thiếu điều kiện để xây dựng luân lí xã hội ở đất nước này, bởi vì dân không coi trọng tinh thần đoàn kết, không đặt công ích lên hàng đầu, và vấn đề này có nguyên nhân từ sự phá hủy tinh thần đoàn kết của các quan lại. Phan Châu Trinh đưa ra những suy luận trên để làm cho người nghe nhận thức: cần phải lan truyền chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam để xây dựng tinh thần đoàn kết, nhằm mục tiêu đạt được tự do và độc lập.
Trong đoạn trích, khái niệm chính là luân lí xã hội. Dựa trên những gì đã được trình bày, ta có thể hiểu rằng nó bao gồm một số điểm quan trọng:
– Đầu tiên, đó là ý thức hỗ trợ lẫn nhau giữa các cá nhân trong cộng đồng.
– Tiếp theo, luân lí xã hội là 'nghĩa vụ của mỗi người trong quốc gia', có nghĩa là tinh thần công dân mà mỗi người phải tuân theo.
– Cao hơn nữa, luân lí xã hội là 'nghĩa vụ của con người đối với con người khác', tức là tinh thần hợp tác vượt qua ranh giới dân tộc và lãnh thổ.
Nói một cách đơn giản và thực tế hơn, theo quan điểm của Phan Châu Trinh, luân lý xã hội chắc chắn liên quan đến ý thức sẵn sàng hợp tác, hỗ trợ lẫn nhau và tôn trọng quyền lợi của người khác.
Nổi tiếng với khả năng diễn thuyết tài ba, Phan Châu Trinh có khả năng thu hút người nghe bằng cách sử dụng ngôn từ phù hợp. Với tâm hồn yêu nước và cảm thấu nỗi đau mất nước của những người dân, ông đã sử dụng các từ ngữ như: “anh em”, “dân Việt Nam”, “người dân ta”, “đồng bào”,… Rất ấm lòng khi nghe những từ này từ miệng diễn giả.
Trong bài phát biểu của mình, tác giả không ngần ngại sử dụng lối nói phủ định để xua tan những hiểu lầm có thể tồn tại trong tâm trí người nghe về sự hiểu biết của họ về luân lý xã hội: “Xã hội luân lý thật sự trong nước ta tuyệt đối không ai không biết, so với các nước khác thì dân ta còn kém hiểu biết hơn nhiều”. Sau đó, nhận thấy khả năng hiểu đơn giản, thậm chí là hiểu sai vấn đề của một số người, tác giả mạnh mẽ bổ sung thêm một câu để loại bỏ những nội dung vô nghĩa trong bài phát biểu: “Một tiếng bè bạn không thể thay thế cho xã hội luân lý, vì vậy không cần phải giải thích gì thêm” (những từ in nghiêng là sự nhấn mạnh của PHD). Câu này cho thấy sự sống động trong tư duy và sự nhạy cảm trong giao tiếp của tác giả. Ông không chọn cách nói quá lý thuyết, liên quan đến việc định nghĩa khái niệm. Với sự quan tâm đến trình độ của người nghe, ông trình bày vấn đề bằng cách đưa ra hàng loạt phản chứng. Uy tín của tác giả cũng được khẳng định thông qua việc phê phán, bác bỏ hiểu biết sai lầm và nhấn mạnh về sự thiếu sót của dân ta, của nước ta trong lĩnh vực luân lý xã hội, từ đó giúp người nghe hiểu rõ bản chất của vấn đề.
Đánh giá về tác phẩm Về luân lí xã hội ở nước ta - Mẫu 6
Phan Châu Trinh là một nhà cách mạng yêu nước nổi tiếng. Sử dụng cơ hội của thời kỳ thực dân Pháp, ông đề xuất các biện pháp cải cách toàn diện, làm cho dân giàu, quốc gia mạnh mẽ, và dựa trên điều này xây dựng nền độc lập quốc gia, đây là chiến lược cứu nước của ông. Trong tất cả các tác phẩm của Phan Châu Trinh, ông luôn có ý thức sử dụng văn chương để thực hiện cách mạng, vì vậy các tác phẩm của ông đều mang tính chất hùng biện, lập luận mạch lạc, sắc bén, thấm nhuần tư tưởng yêu nước và tinh thần dân chủ. Có thể nói rằng một trong những tác phẩm quan trọng của Phan Châu Trinh là “Đạo đức và luân lý Đông Tây” và đoạn Về luân lí xã hội ở nước ta là một phần của tác phẩm này.
Ánh sáng rọi sáng trong đoạn trích là tinh thần dũng cảm của một người yêu nước, từ đó phơi bày sự thực về tình hình u ám của xã hội, đề cao ý thức tập thể vì sự tiến bộ, hướng tới tương lai tươi sáng của đất nước. Với nội dung hấp dẫn, tác giả mong muốn gửi gắm tới toàn dân Việt Nam về việc khôi phục ý thức, trách nhiệm của mỗi công dân đối với sự phát triển của quốc gia, dân tộc.
Trong tác phẩm xuất sắc này, Phan Châu Trinh đề cập đến luân lí xã hội. Cái luân lí xã hội mà tác giả nhấn mạnh là gì? Đó chính là luân lý của chủ nghĩa xã hội, luôn coi trọng sự bình đẳng của con người, không chỉ quan tâm đến từng gia đình, quốc gia mà còn đến cả thế giới. Tác giả cho rằng trong xã hội Việt Nam hiện nay, cả luân lí về gia đình và luân lí quốc gia đều đã mất đi. Ông nhấn mạnh rằng điều này là nguyên nhân dẫn đến tình trạng mất nước. Tuy nhiên, về luân lí xã hội, tác giả nhận thấy rằng người Việt chưa hiểu rõ. Ông viết: “Ở Việt Nam chưa có luân lí xã hội”, và nêu ý kiến: “Xã hội luân lí thật trong nước ta tuyệt nhiên không ai biết đến, so với quốc gia luân lí thì người nước mình còn dốt nát hơn rất rất nhiều” để khẳng định rằng luân lí xã hội không chỉ đơn thuần là tình bạn giữa con người.
Trước hết, dân ta chỉ quan tâm đến bản thân mình mà không để ý đến người khác. Tác giả đưa ra các ví dụ để minh họa điều này: “Người mình thì phải ai tai nấy, ai chết mặc ai! Đi đường gặp người bị tai nạn, gặp người yếu bị kẻ mạnh bắt nạt cũng ngơ mắt mà đi qua, hình như người bị nạn khốn ấy không can thiệp gì đến mình”. Ông cũng sử dụng các thành ngữ như “không ai bẻ đũa cả nắm” hay “Nhiều tay làm nên bộp” để chỉ ra sự thay đổi trong ý thức cộng đồng. Tác giả cũng chỉ ra sự hèn kém của dân mình, sự phản động và tham nhũng trong xã hội, cũng như thái độ theo chủ nghĩa cá nhân và tư bản.
Nhà văn đặt ra câu hỏi rằng để có luân lí xã hội, chúng ta cần làm gì? Theo tác giả, chúng ta cần xây dựng đoàn kết để giúp đỡ nhau trong cuộc sống và loại bỏ chế độ phong kiến thối nát để xây dựng chế độ xã hội chủ nghĩa, nâng cao ý thức dân trí và dân chủ.
Phong cách chính luận độc đáo, văn phong sắc nét, lúc từ tốn, mềm mỏng, lúc lại kiên quyết đầy sức thuyết phục, Phan Châu Trinh đã cho chúng ta thấy thực trạng hiện nay của luân lí xã hội, đồng thời nhắc nhở mọi người nâng cao tinh thần đoàn kết và trách nhiệm với quốc gia, dân tộc.
Phân tích tác phẩm Về luân lí xã hội ở nước ta - Mẫu 7
Về luân lí xã hội ở nước ta là một đoạn trích từ bài Đạo đức và luân lí Đông Tây của Phan Châu Trinh. Trong bài diễn thuyết, ông nêu rõ cần cải tổ luân lí để đưa Việt Nam thoát khỏi tình trạng mất độc lập, xây dựng luân lí mới trên nền tảng truyền thống vinh quang.
Đoạn văn được lấy từ một trong những bài diễn thuyết cuối cùng của nhà văn lớn đã suy nghĩ nhiều về con đường cứu nước.
Nội dung chính của đoạn trích nói về việc người dân Việt Nam hiện vẫn chưa hiểu rõ về khái niệm luân lí xã hội và điều kiện cần thiết để xây dựng luân lí xã hội ở đây. Tác giả chỉ ra rằng sự phá hủy đoàn kết của các quan trường là nguyên nhân gây ra tình trạng này.
Chủ đề của đoạn trích rất rõ ràng. Tác giả cho biết cần truyền bá chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam để xây dựng đoàn kết và hướng tới mục tiêu giành độc lập tự do.
Trong đoạn văn này, tác giả nhấn mạnh về tầm quan trọng của giao tiếp sống động giữa người nói và người nghe. Ông chỉ ra rằng đối tượng chính của bài diễn thuyết là những người nghe trực tiếp vào đêm 19/11/1925 tại Sài Gòn, những người biết đau nỗi đau mất nước và muốn chia sẻ trăn trở với tác giả về con đường đi của xã hội.
Trong đoạn từ việc so sánh giữa xã hội chủ nghĩa ở châu Âu và các vấn đề khác, tác giả nhấn mạnh sự thua kém của Việt Nam về công bằng và hiểu biết.
Tác giả so sánh giữa xã hội ở châu Âu và ở Việt Nam về ý thức nghĩa vụ giữa người với người. Ông nhấn mạnh sự thua kém của Việt Nam trong các vấn đề khác như sự công bằng và hiểu biết.
Theo tác giả, nguyên nhân gốc rễ của việc dân chúng không hiểu về đoàn thể, không trọng công ích nằm ở sự phản động, thối nát của các quan trường. Từ đây, tác giả chỉ trích mạnh mẽ những người này, gọi họ bằng nhiều cách khác nhau như bọn học trò, kẻ mang đai đội mũ, áo rộng khăn đen, hay bọn quan lại, thượng lưu... Từ cách tác giả gọi tên những người này, ta có thể cảm nhận được sự căm phẫn sâu sắc của Phan Châu Trinh đối với tầng lớp quan lại Nam triều.
Sự xuất hiện của các câu cảm thán cho thấy tác giả không chỉ diễn đạt chính kiến bằng lý lẽ sắc bén mà còn bằng trái tim đong đầy cảm xúc, chứa đựng nỗi buồn về tình hình tồi tệ của xã hội Việt Nam. Qua cảm xúc đó, ta cảm nhận được sự chân thành, kiên quyết của một nhà cách mạng hoàn toàn tận tụy với dân chủ, với sự tiến bộ của xã hội.
Sự kết hợp mạnh mẽ giữa yếu tố biểu cảm và yếu tố lý luận là một đặc điểm nổi bật của vãn diễn thuyết. Các câu cảm thán, câu hỏi tu từ, các cụm từ như người nước mình, ông cha mình, những lời cảm thán thể hiện sự chân thành, quyết liệt của tác giả trong việc diễn đạt ý kiến. Sự giao hòa giữa người nói và người nghe là điều kiện quan trọng tạo nên khả năng thuyết phục trong bài diễn thuyết.
Phan Châu Trinh nhận thấy mối liên hệ sâu sắc giữa việc truyền bá chủ nghĩa xã hội và mục tiêu giành tự do, độc lập. Tác giả luôn nhấn mạnh vào mục tiêu cuối cùng là giành được tự do, độc lập, nhưng cũng rất nhận thức về các bước đi cần thiết. Ông lưu ý rằng dân trí và ý thức đoàn kết của người dân cần được nâng cao, và kêu gọi truyền bá chủ nghĩa xã hội trong xã hội Việt Nam.
Về luân lí xã hội ở Việt Nam thể hiện rõ những điểm chính làm nên sức hấp dẫn của văn diễn thuyết của Phan Châu Trinh: lập luận sắc sảo, khúc chiết, cảm xúc sâu sắc, và lập trường rõ ràng về việc đánh đổ chế độ quân chủ. Các hình ảnh mạnh mẽ, như kẻ mang đai đội mũ, người áo rộng khăn đen, hay bọn quan lại, thể hiện quan điểm phản đối mạnh mẽ của tác giả.
Các vấn đề về đạo đức xã hội ở Việt Nam không chỉ quan trọng trong thời đại của Phan Châu Trinh mà còn đối với thời hiện đại của chúng ta ngày nay.