Phân tích tính cách kiêu căng của Tản Đà trong bài Hầu Trời bao gồm 8 ví dụ mà Mytour giới thiệu dưới đây sẽ là tài liệu hữu ích đối với các bạn học sinh lớp 11. Bằng 8 ví dụ về tính cách kiêu căng trong thơ Tản Đà, các bạn sẽ hiểu được các luận điểm, luận cứ rõ ràng và logic.
Tính cách kiêu căng của Tản Đà trong Hầu Trời đã tạo nên một ấn tượng đặc biệt trong văn học dân tộc, khiến cho người đọc không thể quên đi sự kiêu căng ngạo nghễ của ông với cuộc sống thực. Ngoài ra, để nâng cao kỹ năng viết văn, hãy tham khảo thêm bài phân tích Hầu Trời, phân tích Lưu biệt khi lên tuyên.
Tính cách kiêu căng của Tản Đà tốt nhất
- Tính cách kiêu căng của Tản Đà được thể hiện như thế nào trong Hầu Trời
- Cấu trúc ý phân tích tính cách kiêu căng của Tản Đà
- Tính cách kiêu căng của Tản Đà trong Hầu Trời
- Tính cách kiêu căng trong thơ của Tản Đà
Cách Tản Đà thể hiện tính cách kiêu căng như thế nào trong Hầu Trời
Trả lời:
“Ngông” để ám chỉ sự khác biệt, “ngông” trong văn chương để mô tả một cách ứng xử xã hội, nghệ thuật khác biệt so với thói quen thông thường của nhà văn. Điều này bắt nguồn từ nhận thức về bản thân, tài năng và nhân cách của tác giả.
Những tác giả có tính cách “ngông” như Nguyễn Tuân, Nguyễn Công Trứ, Tản Đà…
Tính cách “ngông” của Tản Đà trong bài thơ này được thể hiện ở đâu:
- Tự đánh giá bản thân cao tới mức khiến Trời phải kính phục
- Hiểu được sự hòa hợp, đồng điệu từ Trời và các vị tiên nhân
- Cho rằng mình là một “thiên tài” bị trục xuất vì tội kiêu căng
- Nhận ra mình là người có nguồn gốc từ Trời xuống và có nhiệm vụ thực hiện “đạo lương” một sứ mệnh cao cả
Cấu trúc ý phân tích tính cách kiêu căng của Tản Đà
I. Khởi đầu:
Giới thiệu về tác giả và tác phẩm
- Trong văn học Việt Nam ở giai đoạn chuyển tiếp, Tản Đà được coi là liên kết giữa hai thế kỷ, là cây cầu nối giữa dòng thơ mới và cũ. Điều này thể hiện rõ trong các tác phẩm của ông.
- Bài thơ Hầu trời là một trong những ví dụ tiêu biểu cho tính ngông của Tản Đà
II. Phần chính
1. Định nghĩa về 'ngông' là gì?
- Có người mô tả 'Ngông là một thái độ đặc biệt của những người trí thức, có sức thu hút đặc biệt trong mọi lĩnh vực, đặc biệt là văn chương thi phú. Ngông là một thang đo, ít nhất là về lòng tự trọng của con người. Thậm chí trước bạo lực, quyền lực, trước những thói xấu, trước sự đe dọa của cái chết, những người trí thức vẫn can đảm vung bút, châm chọc, chỉ trích và coi thường đối phương. Đó không phải là kiêu căng mà gọi là gì'
- 'Ngông' là dựa trên khả năng của bản thân, tức là chỉ những người tài năng, tự tin vào khả năng của mình, tự tin để khẳng định nó trước cuộc sống và được người khác công nhận. Thứ hai, tính ngông giúp họ tạo ra phong cách riêng, khác biệt so với người khác nhưng lại để lại ấn tượng sâu sắc
=> Tính cách ngông thể hiện một tinh thần cao quý, kiêu căng và độc đáo.
2. . Tính cách kiêu căng trong bài Hầu trời:
- a. Tính cách kiêu căng của những người tiên phong: Trong văn học Việt Nam, có nhiều danh nhân có phong cách sống theo dạng kiêu căng, như Nguyễn Công Trứ với 'Bài ca ngất ngưởng', cũng như Hồ Xuân Hương, Cao Bá Quát, Tú Xương... họ coi những vật trần gian như vô giá nhưng nhẹ nhàng như hơi khói, sống trong thế giới này với sự khinh thường.
- b. Giới thiệu tính cách kiêu căng trong tác phẩm của Tản Đà: Trong tác phẩm của mình, Tản Đà đã tạo điều kiện cho tính cách kiêu căng phát triển, nhưng không rời khỏi ý nghĩa là lối sống, phong cách sống của những nhà văn coi thường cuộc sống hằng ngày. Tản Đà từng mô tả về bản thân như sau:
Ở vùng đất Sơn Tây xuất hiện một nhà văn
Tuổi trẻ nhưng tài năng vô cùng kiêu hùng
Dòng sông Đà, dãy núi Tản, ai có thể hiểu được
Bút tài của ông câu chữ như thần linh, phát triển không ngừng
(Tự hào)
Đó là cách nói kiêu căng của Tản Đà nhưng lại bị xã hội cho là không hợp lý khi một tài năng như Nguyễn khắc Hiếu lại thi trượt tại trường thi Nam Định, sau đó mất cơ hội được hậu bổ, dù ông là một thiên tài văn học. Chính vì vậy mà Tản Đà đã buồn bã viết về bản thân :
Vì ông hay quá nên ông không đỗ
Không đỗ thì ông càng tự hào là ngông
(Tự tựa)
Hoặc như trong bài Còn chơi, ông đã viết như sau:
Trăm năm vẫn còn độ tuổi đó
Ngoài cuộc sống dài lâu tớ nhắc nhở đời
Vượt qua hàng triệu năm đời nhớ đến tớ
Tớ ở đây, tớ vẫn muốn tiếp tục chơi.
Tính cách kiêu căng ở đây 'là tính cách 'kiêu căng' của một nhà thơ muốn vượt ra khỏi giới hạn của cuộc sống con người.
=>Rõ ràng tính cách kiêu căng hiện diện trong nhiều tác phẩm của Tản Đà nhưng có thể nói rằng Hầu trời là bài thơ thể hiện rõ nhất thái độ sống đó
c. Tính cách kiêu căng trong Hầu trời
- Hành động muốn lên trời vì cho rằng chỉ có trời mới đánh giá đúng tài năng của ông
- Tự tự cao tới mức Trời cũng phải tán dương
- Không thấy có ai xứng đáng là bạn tri âm tri kỉ ngoài Trời và các vị tiên.
- Xem mình là một Trích tiên bị đày xuống hạ giới vì tội kiêu căng.
- Nhận mình là người của Trời, được sai xuống hạ giới thực hiện một sứ mệnh cao cả ( thực hiện thiên lương ).
- Nhà thơ phát biểu về việc 'hầu trời' đã ẩn chứa một sự thách thức đối với sự tôn trọng, địa vị đang thống trị xã hội vào thời điểm đó. Tản Đà mô tả các thần thánh như những người bình thường bình đẳng với mình...
=>Tính cách kiêu căng của Tản Đà không còn coi việc 'Nghĩa vua tôi cho vẹn đạo sơ chung'(Nguyễn Công Trứ) là một vấn đề quan trọng. Tính cách kiêu căng của ông là một phần của phạm trù văn chương, nói như Xuân Diệu '
Ta là duy nhất, là riêng, là số một
Không ai có thể sánh kịp với ta'
Tản Đà tự tin rất cao về tài năng của mình, cho nên ông dám phát biểu mạnh mẽ về những thực thể như Trời, Bụt, và dám tỏ ra toàn bộ bản thân 'vượt ra ngoài giới hạn' của mình trước công chúng, như muốn 'đùa cợt' với thế gian,...
=> Tính cách kiêu căng của một con người tài năng, ý thức sâu sắc về hiện thực xã hội vào thời điểm đó, từ đó thể hiện một cá nhân tự cao, cô đơn trước cuộc sống.
=>Phong cách biểu đạt: Sử dụng thể thơ thất ngôn trường thiên để tác giả có thể thể hiện cảm xúc một cách tự do, thoải mái, tự do. Lựa chọn từ ngữ tinh tế, không cầu kỳ, súc tích.
III. Kết luận:
- Với nhiều đặc điểm mới về thơ pháp, Hầu trời là một bước tiến quan trọng đánh dấu sự thay đổi của thời đại.
- Với tính cách kiêu căng, đầy kiêu hãnh, và lòe loẹt, tạo ra một phong cách đặc biệt - một phong cách mà chỉ Tản Đà mới có:
'Trời sinh ra người Tản Đà
Quê hương có, nhà không
Nửa đời nam, nửa đời bắc, tây, đông
Bạn bè tụ tập, vợ chồng xa lìa
Túi thơ đeo khắp nơi
Rừng, biển, gió trăng đều quen'
Tính cách kiêu căng của Tản Đà trong Hầu trời
Ví dụ số 1
Theo Nam Cao: “Văn chương không cần những người thợ khéo tay làm theo mẫu đưa cho. Văn chương chỉ dung nạp được những người biết đào sâu, biết tìm tòi, khơi lên những nguồn chưa ai khơi và sáng tạo những gì chưa có”, điều này tạo nên cái tôi cá nhân đặc biệt của mỗi tác giả. Tản Đà là một nhà văn có cái tôi ngông khác biệt nên thơ văn ông để lại một dấu ấn riêng không thể lẫn với bất kì nhà văn nào khác. Đặc biệt cái tôi ngông đó được thể hiện tốt trong bài thơ “Hầu trời” với lối viết phóng khoáng, tự do khẳng định tài năng của bản thân.
Khái niệm “ngông” thường được sử dụng để chỉ thái độ ứng xử xã hội và nghệ thuật khác thường với mọi người của các nhà văn, nhà thơ có ý thức cao về tài năng và phẩm chất cá nhân. Trong văn học trung đại ta đã từng bắt gặp cái tôi ngông của Nguyễn Công Trứ trong “Bài ca ngất ngưởng” hoặc Cao Bá Quát, còn Tản Đà, dù không phải là cái ngông duy nhất, vẫn có những điểm đặc biệt do thời đại quy định khi sĩ tồn tại trong lúc giao thời Đông Tây, Hán học suy tàn và Tây học bắt đầu phát triển. Thơ văn của Tản Đà được xem là một dấu nối giữa hai thế kỷ: trung đại và hiện đại.
Trong bài thơ “Hầu trời”, cái tôi ngông của Tản Đà được thể hiện ngay từ nhan đề của tác phẩm. Tản Đà, mặc dù không phải là ai cả, nhưng lại hầu trời bằng văn thơ. Không chỉ thế, cái ngông đó còn được thể hiện ở những phần sau. Tác giả tự cho rằng văn thơ của mình hay đến mức “Tiếng ngâm vang cả sông Ngân Hà”, khiến Trời mất ngủ phải gửi hai cô tiên xuống mời thi sĩ lên đọc thơ. Ông tự tin khẳng định cái tôi cá nhân bằng cách “Đọc hết văn vần sang văn xuôi/ Hết văn lí thuyết lại văn chơi”, liệt kê những tác phẩm của mình như: khối tình, khối tình con, thần tiên, giấc mộng, đài gương, lên sáu, đàn bà Tàu, lên tám. Nhà trời nghe xong gật gù khen: “Văn đã giàu thay, lại lắm lối”/ “Trời nghe, Trời cũng lấy làm hay”, các chư tiên cũng tấm tắc ngợi ca: “Tâm như nở dạ, Cơ lè lưỡi/ Hằng Nga, Chức Nữ chau đôi mày/ Song Thành, Tiểu Ngọc lắng tai đứng/ Đọc xong mỗi bài cũng vỗ tay”. Thi sĩ đã mượn lời của Trời để khẳng định tài năng văn chương bản thân đặc biệt là câu thơ: “Trời lại phê cho: Văn thật tuyệt/ Văn trần được thế chắc có ít/...”. Tôi từng bắt gặp lời tự khẳng định tài năng bản thân trong thơ ông như: “Sông Đà núi Tản đúc nên ai/ Trần thế xưa nay được mấy người”. Tản Đà rất tự tin thể hiện mình bằng tất cả vốn văn chương có được, ông khẳng định có mấy người được như ông.
Cái tôi ngông của Tản Đà còn được thể hiện khi ông tự coi mình là một vị tiên trên trời bị đày xuống hạ giới vì tội ngông. Ông cũng tự nhận mình là người nhà Trời được sai xuống hạ giới để thực hiện sứ mệnh cao cả: “Là việc thiên lương của nhân loại/ Cho con xuống thuật cùng đời hay”. Ông tự bịa chuyện lên hầu trời bằng tài năng văn chương cá nhân cũng là để thể hiện sự đối lập nhân cách, lối sống với giai cấp phong kiến, Tản Đà tự thấy mình là người không có ai là kẻ tri âm tri kỉ với mình. Chưa bao giờ ta thấy một cái tôi ngông bạo dạn như thế. Nếu các tác giả trước tự khẳng định mình về con đường công danh, kinh bang tế thế còn Tản Đà lại thể hiện tài văn chương hơn người hơn đời. Một nét đặc biệt cái ngông Tản Đà có điểm đặc thù do sự quy định của thời đại ông sống trong thời điểm giao thời loạn lạc, chế độ phong kiến suy tàn, Nho học nhường lối cho chữ quốc ngữ và văn chương hiện đại nên ông không đề cao “Nghĩa vua tôi cho vẹn đạo sơ trung” như Nguyễn Công Trứ. Ông tự do sống đúng với bản ngã cá nhân mới mẻ phù hợp với thời đại lúc bấy giờ.
Nam Cao từng nói: “Văn chương không cần những người thợ khéo tay làm theo mẫu đưa cho. Văn chương chỉ dung nạp được những người biết đào sâu, biết tìm tòi, khơi lên những nguồn chưa ai khơi và sáng tạo những gì chưa có”, điều này tạo nên cái tôi cá nhân đặc biệt của mỗi tác giả. Tản Đà là một nhà văn có cái tôi ngông khác biệt nên thơ văn ông để lại một dấu ấn riêng không thể lẫn với bất kì nhà văn nào khác. Đặc biệt cái tôi ngông đó được thể hiện tốt trong bài thơ “Hầu trời” với lối viết phóng khoáng, tự do khẳng định tài năng của bản thân.
Tản Đà đã để lại một dấu ấn riêng biệt trong văn học dân tộc, khiến cho ai đọc thơ ông không thể quên được cái ngông ngạo với đời, đúng như lời nhận xét của Lê Thanh: “Tản Đà là người thứ nhất và là người độc nhất của thế hệ ông đã làm sống lại cái hồn thơ Việt Nam đang hấp hối, tôi không muốn nói đến đã chết rồi. Ông ra đời đem cho chúng ta một thi sĩ thành thực dám ca hát cái đời sống của lòng; ông đã mơ mộng, đã chán đời, yêu đời, thiết tha với đời một cách tự do, ông đã dám ngông, dám có một bản ngã, dám công nhiên để cho cái chữ tình mê man của mình rãi trong văn thơ”.
Bài làm mẫu 2
Sinh ra và lớn lên trong giai đoạn chuyển biến giữa hai thế kỷ, lúc Hán học suy tàn và Tây học mới chỉ mới nổi lên, Tản Đà mang dấu ấn của “người của hai thế kỷ” kể cả trong học vấn, lối sống và văn chương. Trong lĩnh vực văn chương, ông được mệnh danh là người tiên phong cho sự cách tân nghệ thuật trong thơ, là cái gạch nối giữa văn học truyền thống và văn học hiện đại. Như lời của Hoài Thanh, Tản Đà là người “dạo bản đàn mở đầu cho một cuộc hoà nhạc tân kỳ đương sắp sửa, là người báo tin xuân cho phong trào thơ mới sau này”. Với tâm hồn mới mẻ, cái tôi bay bổng và lãng mạn, vừa phóng khoáng, ngông nghênh, vừa cảm thương, ưu ái trong thơ văn, Tản Đà đã chinh phục thế hệ độc giả mới đầu thế kỷ XX.
Cái “ngông” thường được biểu hiện bằng thái độ phản ứng của người nghệ sĩ tài hoa, có cốt cách, có tâm hồn, không chấp nhận sự đơn điệu, tầm thường; thích phá cách, tự đề cao cá tính của mình… Nhưng những biểu hiện ấy nhằm để thể hiện tâm hồn lãng mạn, để thể hiện quan điểm sống tích cực có ích cho đời, khẳng định cá tính và tài năng của mình trước cuộc đời.
Cái ngông ở đây là sự kết hợp giữa cá tính và tài năng của con người. Chỉ những người tài năng, tự tin bởi tài năng của mình, mới có thể có cái ngông được đời chấp nhận. Người ngông tạo cho mình những phong cách riêng, mới và khác hơn người khác nhưng phải để lại dấu ấn sâu đậm, không thể trộn lẫn với người khác. “Hầu Trời” của Tản Đà đã tạo cho tác giả một cái ngông, một cái tôi độc đáo như thế.
Tản Đà không phải là nhà nho theo kiểu ẩn dật – hành đạo. Ông là nhà nho tài tử, không chịu khép mình trong khuôn phép nho gia. Tản Đà thuộc lớp nhà nho “Vứt bút lông nắm lấy bút chì” và là một trong những người Việt Nam đầu tiên sinh sống bằng nghề viết văn, xuất bản, sống theo phương thức của lớp tiểu tư sản thành thị. Ông không chịu nhập cuộc vào chuyện cái thế lầm than và nhố nhăng của thời đó, ông lánh đục theo trong và tìm kế sinh nhai riêng của mình. Đằng sau cái ngông của Tản Đà là cá tính tự nhiên và ý thức cao về cá nhân.
Cái ý thức sâu sắc về tài năng của Tản Đà được bộc lộ qua việc ông đã tạo ra một bối cảnh tự nhiên nhưng rất có duyên về câu chuyện được lên hầu trời và mượn lời của trời để khen thơ của mình:
'Đêm qua chẳng biết có hay không
Chẳng phải thảng thốt không mơ mòng
Thật hồn! Thật phách! Thật thân thể
Thật được lên tiên sướng lạ lùng!”.
Cái duyên được lên hầu Trời gắn liền với câu chuyện văn thơ, gắn liền với những phút cảm hứng của nhà thơ. Chuyện tưởng tượng nhưng như thật, có lẽ cái tôi độc đáo của Tản Đà là ở chỗ vào đề tự nhiên, hấp dẫn nhưng có duyên ấy. Xuân Diệu, nhà thơ “mới nhất trong các nhà thơ mới”, cũng phải trầm trồ trước sự độc đáo của Tản Đà: “Vào đột ngột câu đầu cũng ra vẻ đặt vấn đề cho nó khách quan, nghi ngờ theo khoa học, để ba câu sau toàn là khẳng định, ăn hiếp người ta”. Để thế gian thấy tài năng của nhà thơ đã khó vậy mà ngay đến Trời còn say mê, chư tiên yêu thích thì thật lạ lùng. Vậy mới thấy được cái ngông của nhà thơ biểu hiện mạnh mẽ qua bài Hầu Trời. Đã có dịp được lên Thiên đình, vì thế Tản Đà tranh thủ 'quảng cáo” tài năng của bản thân:
'Dạ bẩm lạy Trời con xin đọc
Đọc hết văn vần sang văn xuôi
Hết văn thuyết lí lại văn chơi
Đương cơn đắc ý đọc đã thích
Chè Trời nhấp giọng càng tốt hơn.”
Tác giả tự tin khi đọc thơ, khoe tài của mình và nhập thân vào tác phẩm. Điều này thể hiện cái tôi mạnh mẽ và ý thức về tài năng cá nhân. Ông cũng giới thiệu các tác phẩm của mình:
'Bẩm con không dám màn cửa Trời
Những áng văn con in đã rồi
Hai quyển Khối tình văn thuyết lí
Hai Khối tình con là văn chơi
Thần tiền, Giấc mộng văn tiểu thuyết
Đài gương, Lên sáu văn vị đời
Quyển Đàn bà Tàu lối văn dịch
Đến quyển Lên tám nay là mười
Nhờ Trời văn con vẫn bán được
Chửa biết con đã in ra mấy chục?”
Nhà thơ rõ ràng rất hài lòng với bản thân và ý thức tài năng của mình. Ông khẳng định cá nhân và giá trị tài năng của mình giữa cuộc sống. Trước Tản Đà, các nhà thơ đều tỏ ra khiêm nhường và không dám tự tin nói về tài năng của mình. Nhưng ý thức cá nhân của nhà thơ đã phát triển rất cao. Thậm chí Trời cũng phải tán dương:
'Văn của tôi đạt đến chất lượng cao!
Trời nghe, cũng cho rằng tốt đẹp.
Tâm hồn tôi nở ra, tri thức rộng lớn
Các vị thần cũng trầm mặc, nể phục
Người vàng, Phụ nữ đức hạnh đứng im lặng
Mỗi bài thơ đều kết thúc bằng tiếng vỗ tay.”
' Trời lại thấy thích: Văn hay thật đấy!
Văn thường được ưa thích ít đấy
Văn hóa đẹp như sao băng sáng!
Tinh thần sức mạnh như đám mây biến đổi!
Ấm áp như làn gió thoảng, sảng khoái như sương mai!
Thấm đẫm như cơn mưa sa, lạnh lùng như tuyết!”
Vì tình yêu với văn chương, tác giả tự tin sáng tác và truyền đạt những ý tưởng mới vào thơ ca. Hầu như với ông, việc được trình bày trước Trời là điều vô cùng đáng mừng. Do đó, ông thể hiện tài năng của mình trước Thượng đế và các vị tiên nhân. Lúc này, quan niệm mới của ông được tiết lộ: viết văn là một công việc. Mặc dù không nói trực tiếp, nhưng ông thể hiện một cái nhìn mới về việc sáng tác văn chương. Đối với Tản Đà, viết văn là một nghề mới, có người bán và người mua, có thị trường tiêu thụ và thị trường đó rất phức tạp, không dễ chiều. Ông cũng nhận ra tầm quan trọng của việc tập trung vào nghề văn, và cần phải có kinh nghiệm để theo đuổi nó:
'Nhờ Trời văn của tôi vẫn bán được
Vẫn còn một phần tâm huyết với văn ấy”
Thật kiên định khi nhà thơ muốn 'mang văn chương” lên bán trên Thiên đàng.
'Chư tiên ao ước tranh nhau nhắc nhở
Tôi đem văn lên đây để bán ở Thiên chợ!”
Tạo sóng trong cung trời bằng những từ văn phong phú, ngày nay nhà thơ muốn sự tiếng vang của mình lan tỏa khắp triều đình để mọi người biết đến ông - một tài năng thực sự của thế gian. Chỉ từ đó mới thấy được cái tôi mạnh mẽ của ông đến đâu.
Để Trời hiểu về thơ, khen ngợi văn chương tuyệt vời, Tản Đà ngay lập tức 'tâu trình' rõ ràng về bản thân, hoàn toàn phù hợp với câu chuyện:
'Dạ bẩm lạy Trời con xin kính báo
Con tên là Khắc Hiếu họ là Nguyễn
Quê quán tại Á châu về trên Địa Cầu
Có dòng sông Đà, dãy núi Tản, nước Nam Việt”.
Khác với người xưa, Tản Đà đã công khai tách rời tên và họ theo một cách rất hiện đại, và còn chỉ rõ quê hương, châu lục, trên hành tinh. Qua đó, ông thể hiện tình yêu sâu đậm với đất nước, tự hào về bản thân, và ý thức cá nhân về dân tộc mạnh mẽ. Một cái tên - tên thật, không phải bút hiệu - được nêu ra một cách trang trọng đến vậy, chắc chắn nhà thơ đã cảm nhận được giá trị kết nối của nó. Thông qua từng câu thơ, tác giả cũng giới thiệu bút hiệu của mình. Tản Đà là người thể hiện tài năng, phô trương và rất kiêu hãnh, vì vậy trước chư tiên, ông không bao giờ kìm nén mà luôn thể hiện hết tài năng của mình.
Nhưng khoảnh khắc 'Hầu Trời' không chỉ dừng lại ở việc sử dụng lời của trời để khen ngợi thơ của mình và tự giới thiệu tên tuổi, mà qua đó, ta còn nhận thấy ở Tản Đà có một khao khát tri âm và tri kỷ, không chỉ với bạn bè đồng trang lứa mà còn với trời cao. Từ đó, rõ ràng chỉ ra một sự thật không thể phủ nhận: tài năng không phải lúc nào cũng đi đôi với số phận; để cho người đọc biết: trong cuộc đời, nhà thơ thiếu đi sự tri âm, tri kỷ và hòa hợp với cuộc sống:
'Văn chương ở hạ giới như bèo trôi
Kiếm đồng lãi từ văn thực sự khó khăn
Thời gian kiếm được ít, tiêu đi lại nhiều
Làm suốt quanh năm mà vẫn không đủ tiêu”
Do đó, ông mong muốn được lên Trời đọc thơ và tìm được người tri âm. Chỉ có Trời và chư tiên mới hiểu được điều tốt đẹp trong thơ của ông. Và lời khen của Trời là sự thẩm định có trọng lượng nhất, không thể phủ nhận, không thể nghi ngờ. Đó là khát khao chân thành trong tâm hồn của nhà thơ. Giữa thế giới văn chương hạ giới như bèo, số phận của nhà văn rất phế, bị khinh bỉ, coi thường, Tản Đà không thể tìm thấy người tri âm, tri kỷ, phải lên đến thiên đình mới đạt được ước muốn. Vào đầu thế kỷ XX, khi thơ phú đã tàn và thơ mới chưa nổi, Tản Đà là nhà thơ đầu tiên đã thổi vào làn thơ một nét mới, đã dám mạnh mẽ khẳng định bản thân bằng cách tách ly khỏi hiện thực tầm thường tối tăm để đến nơi trong sáng.
Khẳng định tài năng hơn người, đó là việc kế thừa tính ngông của các nhà nho truyền thống. Tuy nhiên, trong sự ngông của Tản Đà, không có dấu hiệu của việc thú ăn chơi, hưởng thụ một cách tiêu cực như một cách đối phó với cuộc sống như Nguyễn Công Trứ. Và cũng không thấy sự ngông trong việc tìm kiếm một phong cách, một cách thể hiện riêng như Nguyễn Tuân… Sự ngông của Tản Đà là sự ngông của một người đắm chìm trong mơ mộng: mơ mộng về cuộc sống, mơ mộng về sự thay đổi, say mê để mơ mộng, mơ mộng để ngông với thế gian. Tuy nhiên, có thể thấy rằng, họ chung một điểm cơ bản là nếu thiếu đi cái tài, cái tình và ý thức về bản ngã của mình, thì họ sẽ không thể 'ngông' được. Họ tạo ra những phong cách nghệ thuật riêng biệt, độc đáo, ghi dấu ấn đặc biệt trong lòng người đọc và không lẫn với sự ngông của bất kỳ nhà thơ nào khác.
Bài làm mẫu 3
Xuân Diệu đã từng nhận xét về Tản Đà: “Có dũng cảm làm thi sĩ, đã làm thi sĩ một cách trung thực, dũng cảm, dám giữ vững bản ngã, dám có một cái tôi”. Điều này thực sự là một nhận xét chính xác về bản lĩnh cá nhân, về cái tôi kiêu hãnh, vượt trội hơn so với đời sống của Tản Đà. Cái tôi kiêu hãnh là một đặc điểm nổi bật, tạo nên dấu ấn riêng trong sáng tác của ông. Và được thể hiện rõ ràng hơn qua tác phẩm Hầu Trời.
Ngông là thuật ngữ dùng để chỉ tính cách kiêu căng, không quan tâm đến người khác. Nhưng đối với những người hiếu sĩ, ngông chính là cách để thể hiện cái tôi tự tin, khác biệt. Bởi vì họ tin vào khả năng và nhân cách của chính mình, họ dám khẳng định tài năng của mình trước thế giới.
Khái niệm về ngông không còn xa lạ trong văn học, chúng ta có thể nhắc đến những tác giả tiêu biểu cho tính cách đó như cái tôi kiêu căng của Nguyễn Công Trứ:
Vũ trụ bên trong mạnh mẽ vượt lên trên cái bản thể
Ông Hi Văn với tài năng xuất chúng đã tự tin vào bản thân.
Hoặc như Tú Xương:
Ông nhìn lên bảng thấy tên của mình
Ông nhấn mạnh sự tự tin bằng cách nói tỏ ra kiêu căng
Trên bảng có năm ba tên giáo sư đứng
Bốn lần mười bảy cái kiệt xuất của ông được nhắc đến.
Tản Đà tiếp tục phát triển và khẳng định cái ngông của mình một cách mạnh mẽ. Trong bài Hầu Trời, ông thể hiện mong muốn được lên trời, bởi ông tin rằng chỉ có Trời mới đánh giá đúng tài năng của mình:
Đêm qua không biết có gì hay không,
Không hoảng hốt, không mơ mộng mà
Thật là linh hồn! Thật là phách! Thật là thân thể!
Thật là hạnh phúc khi được lên tiên.
Cách tiếp cận của ông thực sự hài hước và dí dỏm, ông khẳng định rằng việc được lên tiên là thật, không hoảng hốt, không mơ mộng, sự thật ở cả linh hồn, phách, thân thể. Việc thoát khỏi trần tục, lên tiên đối với ông là có thật, là không thể chối cãi. Ông cũng giải thích lý do vì sao mình lên tiên:
“Trời nghe xuống giới ai trình bày
Âm thanh vang vọng khắp sông Ngân Hà
Làm cho trời thức dậy, trời lên án
Có hay không, Trời cũng nghe thấy”.
Câu thơ như một sự khẳng định về tài năng của bản thân vọng lên khắp thiên hạ, khiến cả Trời cũng phải sai người xuống mời ông lên đọc. Đây là biểu hiện đầu tiên của cái tôi ngông ngạo trong Tản Đà.
Không chỉ dừng lại ở đó, ý thức khẳng định bản thân được thể hiện rõ hơn trong đoạn Tản Đà tự khen chính mình:
“Đọc hết văn vần lại văn xuôi
Hết văn thuyết lý lại văn chơi”
Tài năng vượt trội khiến Tản Đà không ngần ngại thể hiện bản lĩnh cá nhân, mọi tác phẩm của ông đều có những đặc điểm nổi bật: Khối tình con, Thần tiên, Giấc mộng. Rồi ông tự hào: “Văn đã giàu thay, lại lắm lối”. Đây không phải lần đầu tiên ông tự khen mình, trong Tự trào ông viết: “Vùng đất Sơn Tây nảy một ông/ Tuổi chửa bao nhiêu văn rất hùng/ Sông Đà núi Tản ai hun đúc/ Bút thánh câu thần sớm vãi vung”. Cho thấy ý thức cao độ về bản thân trong thơ ông.
Nghe những lời nhận xét ấy, thậm chí trời cũng phải bật cười và khen ngợi: “văn thật tuyệt” “văn trời được thế chắc có ít”. Các chư tiên cũng khen ngợi bằng những lời không tiếc lời: lời văn như sao băng, khí văn như mây chuyển, nhẹ như sương, êm như gió. Và họ cầu mong, dặn: “Anh gánh lên đây bán chợ Trời”. Chỉ ở nơi này Tản Đà mới tìm được người tri âm tri kỉ với mình, vì dưới hạ giới văn chương rẻ như bèo, ít được trân trọng. Ở đây ông đã tìm được tri âm tri kỉ, vì chỉ những người như họ mới đánh giá đúng tài năng của ông.
Chưa có nhiều nhà văn, thơ gia, dám xưng tên đủ đầy trong tác phẩm của mình, nhưng có một thi nhân tên Tản Đà, khi hầu trời đã dám làm điều đó: “Con tên Khắc Hiếu họ là Nguyễn/ Quê ở Á Châu và Địa cầu/ Sông Đà núi Tản nước Nam Việt”. Một nhân cách độc đáo, một bản lĩnh khác biệt ở con người tài năng này. Lời thơ đầy tự hào về bản thân, quê hương, và ý thức tự tôn dân tộc sâu sắc. Cách nói trang trọng, khẳng định về tài năng, nhân cách của chính mình.
Cùng lúc, Tản Đà tự nhận mình là một Trích tiên bị đày xuống trần gian vì cái tôi ngông, nhưng ngay sau đó ông đã khẳng định: “Trời nói: không phải là Trời đày/ Trời định sai con một việc này/ Là việc “thiên lương” của nhân loại”/ “Cho con xuống đất giao cùng đời hay”. Ông xuống trần gian để thực hiện một sứ mệnh cao cả, thực hành thiên lương, mang lại cuộc sống tốt đẹp cho con người. Nhưng đây thực sự là một nhiệm vụ khó khăn, ở giữa thế giới thực tràn đầy hiểm hóc, cạnh tranh, giữ được thiên lương và truyền bá thiên lương quả thật không hề đơn giản. Việc ông tự nguyện đảm nhận nhiệm vụ Trời giao cho thể hiện nhân cách cao đẹp của thi nhân.
'Hai chữ thiên lương thằng Hiếu nhớ
Dám xin không thất vọng Trời trông mong'
Thể thơ thất ngôn trường thiên đã cho phép tác giả thể hiện một cách tự do cảm xúc của bản thân. Bài thơ Hầu trời đã thể hiện một cách đầy đủ cái tôi đầy ngông ngạo của Tản Đà trước cuộc sống. Ông ý thức sâu sắc về tài năng của mình, ông cũng ý thức rõ về hiện thực xã hội thối nát thời điểm đó. Qua đó cũng cho người đọc thấy một cái tôi ngông nhưng cũng đầy cô đơn, bế tắc trước thời cuộc.
Cái ngông trong thơ Tản Đà
Bài mẫu 1
Được nhắc đến nhiều trong những năm ấy, Tản Đà trở thành biểu tượng của sự kết nối giữa hai thế kỷ văn chương, từ truyền thống đến hiện đại. Ông là nhà thơ đại diện cho hai giai đoạn văn chương, là người đầu tiên đưa văn chương ra thị trường. Ông đem đến những đổi mới trong hình thức thơ, vừa lãng mạn vừa cảm thương, mới mẻ nhưng vẫn giữ được bản sắc dân tộc. Nhưng điều mà Tản Đà ghi dấu trong lòng độc giả chính là cá tính trong thơ, cái tôi ngông mà ông bộc lộ. Và một trong những tác phẩm thể hiện rõ điều đó chính là Hầu Trời.
Tản Đà trở thành biểu tượng của cái tôi ngông qua bài thơ Hầu Trời. Ông đã bày tỏ sự tự tin và thách thức trước cuộc sống, điều mà các nhà thơ tài hoa như ông thường làm.
Cái tôi ngông của Tản Đà được thể hiện rõ khi ông dám lên trời để khẳng định tài năng của mình, một hành động đầy tự tin và quyết đoán.
Đêm qua chẳng biết có hay không,
Chẳng phải hoảng hốt, không mơ mòng.
Thật hồn! Thật phách! Thật thân thể!
Thật được lên tiên sướng lạ lùng.
Tản Đà đã đặt mình vào vai trò của một thi sĩ biểu diễn tài năng khi lên trời để đọc thơ và ngâm văn, một hành động đầy cá tính và sáng tạo.
Sẵn sàng lên trời đọc thơ, thi sĩ rạo rực quảng bá về tài năng với văn vần, văn xuôi, văn thuyết lí, và văn chơi qua hàng loạt tác phẩm đã xuất bản.
Tản Đà tỏ ra khéo léo và tự tin khi bày tỏ cái tôi cá tính trong cách đọc thơ lên trời, thu hút sự công nhận của thế gian và sự phê phán từ chư tiên.
Cách Tản Đà khẳng định tài năng của mình trên thiên môn đế khuyết thể hiện sự ngông cuồng, nhưng cũng là biểu hiện của sự tự tin và bản lĩnh.
Văn dài hơi tốt ran cùng mây!
Trời nghe, Trời cũng lấy làm hay
Tâm như nở dạ, Cơ lè lưỡi
Hằng Nga, Chức Nữ chau đôi mày
Song Thành, Tiểu Ngọc lắng tai đứng
Đọc xong mỗi bài cùng vỗ tay.
…
Trời lại phê cho: “Văn thật tuyệt!
Văn trần như thế chắc có ít!
Nhời văn chuốt đẹp như sao băng!
Khí văn hùng mạnh như mây chuyển!
Êm như gió thoảng, tinh như sương!
Đầm như mưa sa, lạnh như tuyết!
Tản Đà thể hiện sự táo bạo và kiêu hãnh qua việc tự tin khoe tài năng, một cách biểu diễn nghệ thuật tự hào và tinh thần sáng tạo.
Nhịp điệu của cái ngông không bay bổng như người đọc nghĩ mà thấu hiểu sâu sắc cuộc sống của nhà thơ trong thời kì khốn khó của văn chương.
Tản Đà tự tin chia sẻ về cuộc sống vất vả dưới trần gian và khát khao được thừa nhận tài năng trong bài thơ.
Việc tâu bày cuộc sống nghèo khó không phải là để than nghèo kể khổ, mà là cách để nhà thơ bộc lộ sự thấu hiểu về nghề văn và tìm kiếm sự đồng cảm.
Bẩm Trời, cuộc sống con thực sự nghèo khó
Trần gian không đất đai, không của cải
Con học hành ít nhiều nhờ Trời ban
Nhưng kiến thức chỉ là một phần.
Viết văn giấy mực thuê người in
Mướn cửa hàng bán sách khắp phố xóm
Văn chương dưới hạ giới rẻ như bèo
Kiếm lời còn khó khăn vô cùng.
Thu nhập ít, chi tiêu nhiều
Làm mãi mà tiền vẫn không đủ dùng.
Tản Đà không mong giàu có mà đến trời để tìm sự đồng cảm và thừa nhận tài năng của mình.
Tản Đà không ngừng thể hiện cái ngông của mình, đặc biệt là khi khẳng định bản thân trong cuộc đối thoại với Trời. Ông cho rằng kẻ tên Nguyễn Khắc Hiếu bị đày xuống hạ giới vì tội ngông, nhưng thực ra, ông là một vị trích tiên, là người nhà trời. Dù Trời có sửa lại không phải là đày mà là giao cho sứ mệnh “thiên lương” của nhân loại để xuống thuật cùng đời, cái ngông vẫn không giấu đi được. Điều này đã hóa thành một ý thức đối lập với xã hội đương thời, một khát vọng cải cách xã hội mà ông đã theo đuổi. Nhưng cái tôi ngông, ngạo nghễ của ông vẫn bất lực, là xu thế chung trong tâm lý của giới văn sĩ lúc bấy giờ.
Nguyễn Công Trứ và Nguyễn Tuân đều để lại ấn tượng về cái ngông của họ trong văn học. Riêng với Tản Đà, cái ngông của ông bộc lộ một thái độ khát khao mạnh mẽ với cuộc đời và mong muốn thay đổi xã hội. Hầu Trời đã thâu tóm hết thảy cái ngông ấy, làm cho thi phẩm của ông trở nên độc đáo và tài hoa.
Hầu Trời không chỉ thể hiện cái ngông ở nội dung mà còn ở phương diện nghệ thuật. Tản Đà tự do bộc lộ cái tôi của mình qua việc lựa chọn thể thơ và cấu trúc bài thơ. Mạch trữ tình trong bài thơ không chỉ do cảm xúc mà còn do chất tự sự, tạo nên một câu chuyện hấp dẫn và có duyên. Ngôn ngữ thơ của ông pha trộn giữa sự chọn lọc và nét bình dị, tạo nên dấu ấn đặc biệt.
Xuân Diệu đã tôn vinh Tản Đà là thi sĩ mở đầu cho thơ Việt Nam hiện đại, người có can đảm làm thi sĩ một cách đường hoàng, bạo dạn. Cái tôi độc đáo, mới mẻ của ông đã làm nên bản ngã tài hoa của mình, đặc biệt với Hầu Trời.
............
Tải tài liệu để đọc thêm về bài văn mẫu thể hiện cái ngông của Tản Đà