Phân tích sắc đẹp từ xa xưa và hiện tại trong tác phẩm Tràng Giang bao gồm dàn ý chi tiết kèm theo 12 mẫu cực hay, dễ hiểu, dễ nhớ. Sắc đẹp từ xa xưa và hiện đại trong tác phẩm Tràng Giang được thể hiện từ chủ đề, nguồn cảm hứng sáng tác và ngôn từ thi ca. Tràng Giang là một dòng chảy của nỗi buồn ngàn năm của con người trước thời gian và không gian vô tận, vô biên.
TOP 12 bài văn phân tích vẻ đẹp từ xa xưa và hiện đại trong Tràng Giang bao gồm cả bài viết ngắn gọn và đầy đủ để các bạn tham khảo, chọn lựa theo khả năng viết của mình. Ngoài ra, để cải thiện kỹ năng viết văn, các bạn cũng có thể tham khảo phân tích khổ thơ 1 của bài Tràng Giang, phần mở bài của Tràng Giang.
Sắc đẹp từ xa xưa và hiện đại trong tác phẩm Tràng Giang
- Dàn ý về vẻ đẹp cổ điển và hiện đại trong bài thơ Tràng Giang
- Phân tích vẻ đẹp cổ điển và hiện đại trong Tràng Giang để đạt điểm cao
- Sắc đẹp cổ điển và hiện đại trong tác phẩm Tràng Giang
- Phân tích vẻ đẹp từ xa xưa và hiện đại trong bài Tràng Giang
Dàn ý về sắc đẹp từ xa xưa và hiện nay trong bài thơ Tràng Giang
1. Giới thiệu về tác giả và tác phẩm
- Huy Cận được biết đến như một nhà thơ nổi bật trong phong trào Thơ Mới.
- Bài thơ Tràng Giang (viết vào năm 1939 và được in trong tập Lửa Thiêng) là một trong những tác phẩm nổi tiếng và điển hình nhất của Huy Cận trước Cách Mạng tháng Tám, nó thể hiện một vẻ đẹp kết hợp giữa cổ điển và hiện đại.
2. Phân tích khổ thơ
a. Phần thứ nhất
- Lời đề và tiêu đề đã thể hiện một phần của cảm xúc chủ đạo trong bài thơ: sự thấp thỏm trước sự mênh mông của vũ trụ.
- Bài thơ mở đầu bằng hình ảnh của dòng sông ngoại cảnh, nhưng cũng là biểu tượng cho dòng sông của tâm hồn, nơi mà nỗi buồn bộc lộ ra như lớp sóng trên mặt nước. Không giống như những dòng sông hùng vĩ và cuồn cuộn của Lý Bạch, Đỗ Phủ, dòng sông trong bài thơ của Huy Cận lại trầm lặng (sóng êm, thuyền trôi chậm), với nỗi đau chia xa (thuyền trở lại bến, buồn thảng thốt). Hình ảnh của củi lạc và cành cây khô là biểu tượng cho thực tại đời thường, truyền đạt sự lo âu của tác giả về cuộc sống con người.
b. Phần thứ hai
- Trước bức tranh thiên nhiên rộng lớn đó, nhà thơ ước ao tìm kiếm những nơi gặp gỡ của con người (làng, chợ, bến) nhưng chỉ thấy những cảnh vắng vẻ, trống trải. Huy Cận đã học từ câu thơ dịch của Chinh phụ ngâm (Bến Phì gió thổi đìu hiu mấy gò), nhưng thêm một từ (Lơ thơ cồn nhỏ gió đìu hiu) để làm cho cảnh vật trở nên cô đơn hơn. Câu thơ Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều nhấn mạnh vào âm thanh nhưng cũng làm nổi bật sự yên bình.
(Lưu ý: Có thể hiểu câu thơ này với hoặc không có tiếng vãn chợ chiều)
Nếu khổ thơ 1 mở ra theo chiều rộng và chiều dài, thì khổ thơ 2 mở rộng thêm theo chiều cao. Các cấu trúc đối đầu với ánh nắng từ trên xuống và từ dưới lên, sông dài vô biên nhấn mạnh sự mở ra của không gian ở cả ba chiều. Kết hợp một cách độc đáo giữa sâu rộng và sự thâm thúy của vũ trụ. Lời đề từ được nhắc lại ở đây, làm nổi bật sự cô đơn.
c. Phần thứ ba
- Khổ thơ 3 thể hiện một cách rõ ràng bút pháp mô tả cảnh ngụ tình với những hình ảnh gần gũi nhưng đầy sức cuốn hút. Các cảnh vật nghèo nàn lặng lẽ giữa bờ xanh và bãi cát có lẽ cũng là biểu tượng cho sự lênh đênh, không chắc chắn của cuộc sống con người.
- Nhà thơ mong muốn tìm kiếm một sự kết nối, một sự gắn bó nhưng trước mắt chỉ là một không gian vô tận, không có một chiếc đò, không có một cây cầu nào để nối liền. Con người cảm thấy bị bỏ rơi, cô đơn giữa cuộc sống thiếu đi sự gần gũi.
d. Phần thứ tư
- Nỗi cô đơn càng trở nên sâu sắc vào lúc hoàng hôn. Được lấy cảm hứng từ câu thơ dịch của Đỗ Phủ (Mặt đất mây đùn cửa ải xa), Huy Cận đã tạo ra hình ảnh hoàng hôn hùng vĩ với những đám mây dày đặc đang đùn lên như núi bạc. Những chú chim quen thuộc trong thơ về hoàng hôn, đối với Huy Cận cũng mang một nét mới lạ: sự hiện diện rõ ràng của chúng, cùng với ánh nắng hoàng hôn làm nổi bật cái cảm giác cô đơn, ám ảnh trước vũ trụ, trước cuộc sống.
- Huy Cận đã liên tưởng đến Thôi Hiệu khi viết hai câu cuối cùng của bài thơ. Trong bài thơ của Thôi Hiệu, là khói sóng trên sông khiến người ta buồn, còn đối với Huy Cận, thậm chí cả không khói hoàng hôn cũng đủ làm tác giả nhớ về nhà mình với một cảm xúc sâu sắc.
3. Sự Hòa Trộn Giữa Vẻ Đẹp Cổ Điển Và Hiện Đại Trong Bài Thơ
a. Đề Tài, Cảm Hứng
- Tràng Giang Mang Đậm Nỗi Sầu Vạn Cổ Của Con Người, Đối Diện Với Thời Gian Vô Hạn Và Không Gian Vô Tận.
- Bên Cạnh Đó, Tràng Giang Cũng Phản Ánh 'Nỗi Buồn Thế Hệ' Của Thơ Mới Trong Bối Cảnh Mất Nước, Một 'Cái Tôi' Mà 'Chưa Tìm Thấy Lối Ra'.
b. Chất Liệu Thi Ca
- Trong Tràng Giang, Chúng Ta Bắt Gặp Nhiều Hình Ảnh Quen Thuộc Từ Thơ Cổ (Như Tràng Giang, Bờ Bãi Đìu Hiu, Cánh Chim Trong Bóng Chiều...), Những Hình Ảnh, Tứ Thơ Mà Ta Thường Gặp Trong Thơ Cổ.
- Ngoài Ra, Tràng Giang Cũng Không Thiếu Các Hình Ảnh, Âm Thanh Thực Tế Của Cuộc Sống Hằn Hiện, Không Làm Đẹp (Như Củi Khô, Tiếng Vãn Chợ Chiều, Bèo Dạt...)
c. Thể Loại Và Kỹ Thuật Sáng Tạo
- Trong Tràng Giang, Đặc Trưng Của Thể Loại Cổ Điển Được Thể Hiện Qua Việc Sử Dụng Thể Thơ 7 Chữ Một Cách Lưu Loát, Kết Hợp Với Cách Ngắt Nhịp, Gieo Vần, Và Cấu Trúc Đặc Biệt; Bên Cạnh Đó, Kỹ Thuật Tả Cảnh Ngụ Tình Cũng Được Sử Dụng Phổ Biến, Mang Lại Cảm Giác Cổ Điển Từ Những Từ Hán Việt Cổ (Như Tràng Giang, Cô Liêu...).
- Tuy Nhiên, Tràng Giang Cũng Mang Đậm Phong Cách Mới Lạ Qua Việc Phản Ánh Trực Tiếp 'Cái Tôi' Trữ Tình Với Những Câu Thơ Như 'Buồn Điệp Điệp, Sầu Trăm Ngả, Không Khói Hoàng Hôn Cũng Nhớ Nhà...', Và Sử Dụng Những Từ Ngữ Sáng Tạo Mang Tính Chất Cá Nhân Của Tác Giả (Như Sâu Chót Vót, Niềm Thân Mật, Dợn Dợn…).
4. Tổng Kết
- Tràng Giang Của Huy Cận Không Chỉ Là Một Bức Tranh Phong Cảnh Mà Còn Là 'Một Bài Thơ Về Tâm Hồn'. Bài Thơ Tựa Như Bức Tranh Tâm Hồn Bày Tỏ Nỗi Buồn Cô Đơn Trước Sự Vĩ Đại Của Vũ Trụ Và Cuộc Đời.
- Từ Đề Tài, Cảm Hứng, Chất Liệu Đến Giọng Điệu, Kỹ Thuật Sáng Tạo, Tràng Giang Mang Đậm Dấu Ấn Của Sự Kết Hợp Giữa Thi Ca Cổ Điển Và Hiện Đại, Đây Cũng Là Đặc Điểm Riêng Biệt Của Phong Cách Văn Chương Của Huy Cận.
Phân Tích Vẻ Đẹp Cổ Điển Và Hiện Đại Trong Tràng Giang Đạt Điểm Cao
Cảm Hứng Chính Trong Bài Thơ Là Nỗi Buồn Sâu Lắng Của Một Cá Nhân Cô Đơn Trước Vũ Trụ, Được Diễn Đạt Một Cách Sâu Sắc Và Hàm Súc. Tâm Trạng Của Một Cá Nhân Lãng Mạn Được Thể Hiện Bằng Bút Pháp Tả Thực Và Phá Vỡ Qui Tắc Ước Lệ Truyền Thống, Đồng Thời Mang Đến Một Phong Cách Trữ Tình Mới. Trong Bài Thơ “Tràng Giang”, Màu Sắc Cổ Điển Và Hiện Đại Được Kết Hợp Hài Hòa, Tạo Nên Vẻ Độc Đáo Đặc Trưng.
Xu Hướng Kết Hợp Màu Sắc Cổ Điển Và Hiện Đại Là Điểm Nổi Bật Của Bài Thơ “Tràng Giang”, Tạo Nên Một Vẻ Đẹp Đặc Biệt Và Độc Đáo.
Trong Bài Thơ “Tràng Giang”, Màu Sắc Cổ Điển Thể Hiện Ngay Ở Nha Đề Với Tên Gọi Bằng Chữ Hán: “Tràng Giang”, Gợi Lên Sự Cổ Kính Và Trang Trọng.
Màu Sắc Cổ Điển Tiếp Tục Được Khẳng Định Ở Lời Đề Từ, Tạo Ra Ấn Tượng Về Sự Vô Biên Của Vũ Trụ Và Cái Vô Cùng Của Không Gian.
'Tiền Bất Kiến Cổ Nhân, Hậu Bất Kiến Lai Giả. Niệm Thiên Địa Chi Du Du, Độc Thương Nhiên Nhi Thế Hạ.'
(Người Trước Không Thấy Ai
Người Sau Thì Chưa Tới
Ngẫm Trời Đất Thật Vô Cùng
Một Mình Xót Xa Mà Rơi Lệ)
Tính Cổ Điển Của Bài Thơ Hiện Rõ Ở Tứ Thơ Sóng Đôi. 'Tràng Giang' Được Cấu Tứ Trên Nền Cảm Hứng Không Gian Sóng Đôi Hết Sức Độc Đáo.
Tiếp Cận 'Tràng Giang' Trong Tư Cách Dòng Sông Thiên Nhiên Có Thể Thấy Một Điều Đặc Biệt: Khổ Thơ Nào Cũng Có Thông Điệp Về Nước.
Tiếp Cận 'Tràng Giang' Với Tư Cách Dòng Sông Cảm Xúc Trong Tâm Hồn Lại Phát Hiện Thêm Một Điều Thú Vị: Cảnh Nào Cũng Gợi Buồn.
Nhà Thơ Huy Cận Đã Vận Dụng Nghệ Thuật Đối Cổ Điển Mang Dấu Ấn Đậm Đà Của Đường Thi Nhưng Khá Linh Hoạt Và Phóng Tùng.
'Sóng Gợn Tràng Giang Buồn Điệp Điệp
Con Thuyền Xuôi Mái Nước Song Song,
Thuyền Về Nước Lại, Sầu Trăm Ngả;
Củi Một Cành Khô Lạc Mấy Dòng'.
Hay:
'Nắng Xuống, Trời Lên Sâu Chót Vót;
Sông Dài, Trời Rộng, Bến Cô Liêu.'
Nghệ Thuật Tiểu Đối Thường Thấy Trong Thơ Nguyễn Du, Hồ Xuân Hương Được Vận Dụng Triệt Để Nhưng Đóng Góp Quan Trọng Hơn Cả Là Nghệ Thuật Đối Được Sử Dụng Một Cách Triệt Để Bằng Hai Hệ Thống Hình Ảnh Mang Tính Tương Phản Giữa Một Bên Là Những Sự Vật Nhỏ Bé, Gợi Suy Ngẫm Về Cái Hữu Hạn Của Kiếp Người: “Thuyền”, “Củi”, “Bến”, “Bèo”, “Cánh Chim”… Và Một Bên Là Những Hình Ảnh Lớn Lao, Hùng Tráng Gợi Liên Tưởng Về Cái Vô Hạn Của Vũ Trụ: “Sông Dài”, “Trời Rộng”, “Lớp Lớp Mây Cao”, “Núi Bạc”…
Nhà Thơ Sử Dụng Có Hiệu Quả Hệ Thống Từ Láy Gợi Âm Hưởng Cổ Kính. Hệ Thống Từ Láy Trải Khắp Bài Thơ: “Tràng Giang”, “Điệp Điệp”, “Song Song”, “Lơ Thơ”, “Đìu Hiu”, “Chót Vót”, “Mênh Mông”, “Lặng Lẽ”, “Lớp Lớp”, “Dợn Dợn”. Những Từ Lấy Giàu Tính Tạo Hình, Giúp Cho Lời Thơ Mềm Mại, Giàu Cảm Xúc.
Ngoài Ra, Tác Giả Còn Sử Dụng Sáng Tạo Thi Liệu Của Đường Thi Với Rất Nhiều Hình Ảnh Và Chất Liệu Quen Thuộc. Đặc Biệt Câu Kết Mượn Thẳng Ý Thơ Của Thôi Hiệu Trong Bài “Hoàng Hạc Lâu”: “Yên Ba Giang Thượng Sử Nhân Sầu” (Trên Sông Khói Sóng Cho Buồn Lòng Ai – Tản Đà Dịch). Điểm Khác Biệt Ở Hai Tác Giả Là: Nỗi Nhớ Nhà Của Thôi Hiệu Được Gợi Từ Hình Ảnh “Khói Sóng” Còn Nỗi Nhớ Của Huy Cận Không Cần Tác Động Của Ngoại Giới (Không Khói Hoàng Hôn) Vì Đã Là Một Yếu Tố Nội Tâm Thường Trực. Đây Cũng Là Nét Khác Biệt Cơ Bản Của Hai Cách Phô Diễn Cảm Xúc Tạo Nên Đặc Điểm Riêng Của Thi Pháp Thơ Trung Đại Và Thi Pháp Thơ Hiện Đại.
Dù Bài Thơ “Tràng Giang” Có In Đậm Màu Sắc Cổ Điển Trên Một Số Phương Diện Như Đã Phân Tích Thì Hiện Đại Vẫn Là Nét Chính Của Thi Phẩm Này. Bởi Cảm Hứng Chủ Đạo Của Bài Thơ Là Nỗi Buồn Mênh Mang, Sâu Lắng Của Cái Tôi Cô Đơn Trước Vũ Trụ Được Bộc Lộ Một Cách Trực Tiếp Qua Một Cách Diễn Đạt Cô Đọng Và Hàm Súc. Tâm Trạng Của Một Cái Tôi Lãng Mạn Đó Lại Được Thể Hiện Bằng Bút Pháp Tả Thực Vừa Phá Vỡ Qui Tắc Ước Lệ Truyền Thống Vừa Đem Đến Một Phong Cách Trữ Tình Mới.
Nét Đặc Sắc Của Bài Thơ Là Ở Chỗ Nỗi Buồn Đó Được Thể Hiện Đa Dạng Với Nhiều Cung Bậc Và Hết Sức Tinh Tế. Ngay Trong Khổ Thơ Đầu, Nỗi Sầu Muộn Đã Thấm Vào Cái Nhìn Cảnh Vật. Tuy Thuyền Và Nước “Song Song” Nhưng “Thuyền Về” Ngược Hướng Với “Nước Lại” Gợi Liên Tưởng Về Một Sự Ngổn Ngang Trăm Mối Trong Lòng. Và Hình Ảnh Gây Ấn Tượng Chính Là Hình Ảnh Củi Trong Câu “Củi Một Cành Khô Lạc Mấy Dòng”. Theo Lời Thổ Lộ Của Chính Tác Giả, Trong Bản Thảo, Ông Đã Băn Khoăn Nhiều, Cân Nhắc Rất Kỹ Trước Khi Chọn Hình Ảnh Này. Quả Nhiên, Chi Tiết Giàu Chất Thực Đó Mang Đến Cho Câu Thơ Một Màu Sắc Hiện Đại. Hình Ảnh “Củi” Không Chỉ Tạo Một Ấn Tượng Mới Mẻ Mà Còn Gợi Những Liên Tưởng Và Suy Ngẫm Về Kiếp Người Lam Lũ, Tủi Cực, Lênh Đênh…
Mạch Cảm Xúc Trong Khổ Thơ Tiếp Theo Diễn Tả Nỗi Ám Ảnh Về Cái Hờ Hững, Mất Liên Lạc Giữa Con Người Và Tạo Vật Cùng Cảm Giác Trống Trải Của Tâm Hồn Con Người Trước Cái Thế Giới Hoang Vắng Với Hình Ảnh Bóng Cây “Lơ Thơ” Trên Những Cù Lao Nhỏ Trơ Trọi Và Ngọn Gió Hi...
Nhưng Câu Thơ “Nắng Xuống Trời Lên Sâu Chót Vót” Mới Thực Sự Gây Ấn Tượng Mạnh Bởi Cách Sử Dụng Nghệ Thuật Tiểu Đối, Bởi Lối Dùng Từ Mới Mẻ, Táo Bạo ( Cách Dùng Hình Dung Từ Sâu Chót Vót Thay Cho Cách Diễn Đạt Thông Thường Cao Chót Vót ) Vừa Mở Ra Chiều Cao Mênh Mang Đến Thăm Thẳm Của Bầu Trời Vừa Diễn Tả Nỗi Cô Đơn Của Cái Tôi Trữ Tình, Đặc Biệt Là Cảm Giác Rợn Ngợp Của Con Người Hữu Hạn Trước Một Vũ Trụ Vô Biên.
Nếu Câu Thơ Vừa Phân Tích Chủ Yếu Gợi Ấn Tượng Rợn Ngợp Bởi Nỗi Cô Đơn Do Chiều Cao Vô Cùng Của Bầu Trời Đem Lại Thì Câu Thơ Tiếp Theo Sử Dụng Nhịp 2/2/3 Cùng Hàm Ý Nhấn Mạnh Vào Các Tính Từ Miêu Tả Không Gian: Sông Dài/ Trời Rộng/ Bến Cô Liêu… Nghe Tựa Như Một Tiếng Thở Dài Đầy Bâng Khuâng Và Sầu Muộn Của Cái Tôi Trước Tạo Vật Hững Hờ. Nỗi Sầu Muộn Đó Sẽ Còn Tiếp Tục Gây Ám Ảnh Trong Khổ Thơ Tiếp Theo Khi Cái Tôi Trữ Tình Đối Diện Với Một Thiên Nhiên Gần Như Ngoảnh Mặt Làm Ngơ Với Bao Nỗi Niềm Cần Chia Sẻ Của Con Người:
“Bèo Dạt Về Đâu Hàng Nối Hàng
Mênh Mông Không Một Chuyến Đò Ngang
Không Cầu Gợi Chút Niềm Thân Mật
Lặng Lẽ Bờ Xanh Tiếp Bãi Vàng”.
Trong Khổ Thơ Có Những Câu Hỏi Không Thể Có Câu Trả Lời. Những Câu Hỏi Như Để Khơi Sâu Thêm Nỗi Buồn, Cảm Giác Hẫng Hụt Và Đặc Biệt Là Tình Cảnh Bơ Vơ Của Cái Tôi Trước Một Thế Giới Không Còn Là Nơi Nương Tựa Quen Thuộc Như Muôn Nghìn Năm Trước Nữa.
Trong Khổ Thơ Còn Có Sự Diễn Đạt Mang Tính Tăng Cấp Nhấn Vào Các Ngôn Từ Mang Tính Phủ Định Khiến Người Đọc Nảy Sinh Những Liên Tưởng Và So Sánh. Từ “Khách Vắng Teo” Của Nguyễn Khuyến Qua “Đã Vắng Người Sang Những Chuyến Đò” Của Xuân Diệu Cho Đến Hàng Loạt Từ “Không Đò”, “Không Cầu”, “Lặng Lẽ” Của Huy Cận Là Cả Một Hành Trình “Càng Đi Sâu Càng Thấy Lạnh” (Hoài Thanh) Của Con Người Khi Bước Vào Thế Giới Hiện Đại.
Khổ Thơ Cuối Diễn Tả Một Sự Đối Lập Cao Độ Giữa Con Người Với Vũ Trụ. Cái Mênh Mông Của Không Gian: “Lớp Lớp Mây Cao Đùn Núi Bạc” Tương Phản Gay Gắt Với Hình Ảnh “Chim Nghiêng Cánh Nhỏ: Bóng Chiều Sa”. Rõ Ràng, Không Còn Là Cánh Chim Mang Tính Nghệ Thuật Thuần Tuý Duy Mĩ Như Trong Đường Thi: “Chiếc Cò Bay Với Ráng Pha/ Sông Xanh Cùng Với Trời Xa Một Màu” – Vương Bột. Hay Cảnh “Bạch Lộ Song Song Phi Hạ Điền” (Đôi Cò Trắng Song Song Bay Xuống Cánh Đồng – Thiên Trường Vãn Vọng – Trần Nhân Tông) Nữa. Cánh Chim Ở Đây Chứa Đựng Cái Tôi Rợn Ngợp Trước Hoàng Hôn, Gợi Ám Ảnh Về Cái Hữu Hạn Của Kiếp Người Trước Cái Vô Hạn Của Tạo Hoá.
Trong Hai Câu Kết, Huy Cận Đã Sử Dụng Sáng Tạo Ý Thơ Thôi Hiệu Để Bày Tỏ Tâm Trạng Của Mình. Điểm Khác Biệt Ở Hai Tác Giả Là: Nỗi Nhớ Nhà Của Thôi Hiệu Được Gợi Từ Hình Ảnh “Khói Sóng” Còn Nỗi Nhớ Của Huy Cận Không Cần Tác Động Của Ngoại Giới (Không Khói Hoàng Hôn) Vì Đã Là Một Yếu Tố Nội Tâm Thường Trực. Đây Cũng Là Nét Khác Biệt Cơ Bản Của Hai Cách Phô Diễn Cảm Xúc Tạo Nên Đặc Điểm Riêng Của Thi Pháp Thơ Trung Đại Và Thi Pháp Thơ Hiện Đại.
Đi Suốt Bài Thơ Là Một Nỗi Buồn Triền Miên, Vô Tận. Đó Cũng Là Nỗi Buồn Của Các Nhà Thơ Mới, Nỗi Buồn Của Cả Một Thế Hệ Lúc Bấy Giờ. Dường Như Theo Họ Cái Đẹp Thường Đi Sóng Đôi Với Cái Buồn. Như Baudelaire Đã Từng Có Câu Thơ Nổi Tiếng: “Em Cứ Đẹp, Và Em Cứ Buồn”. Cái Buồn Của Huy Cận Trong Bài Thơ Này, Trước Sau, Vẫn Là Cái Buồn Trong Sáng, Góp Phần Làm Phong Phú Thêm Tâm Hồn Người Đọc. Nhìn Chung, Nhu Cầu Tìm Về Một Hình Ảnh Thân Thương, Quen Thuộc Sưởi Ấm Lòng Người Trong Bối Cảnh Nỗi Cô Đơn Đang Ngập Tràn Tâm Trạng Như Sắp Dìm Cái Tôi Trữ Tình Vào Một Nỗi Buồn Vừa Mang Tính Muôn Thuở Vừa Chưa Từng Trải Qua Bao Giờ Sẽ Là Một Tất Yếu. Đấy Là Lý Do Vì Sao Bài Thơ Kết Thúc Bởi Hai Câu: “Lòng Quê Dợn Dợn Vời Con Nước / Không Khói Hoàng Hôn Cũng Nhớ Nhà” Vừa Như Chịu Ảnh Hưởng Từ Hai Câu Thơ Của Nổi Tiếng Của Thôi Hiệu: “Nhật Mộ Hương Quan Hà Xứ Thị/ Yên Ba Giang Thượng Sử Nhân Sầu” Vừa Như Muốn Đối Lập Với Người Xưa Bằng Lối Bộc Lộ Cảm Xúc Trực Tiếp Theo Phong Cách Của Con Người Thời Hiện Đại.
Bài Thơ “Tràng Giang” Đã Kết Hợp Được Thơ Ca Truyền Thống, Những Nét Cổ Điển Của Thơ Đường, Với Những Nét Hiện Đại Trong Thơ Phương Tây. Những Hình Ảnh “Con Thuyền Xuôi Mái”, “Củi Một Cành Khô”, “Bèo Dạt Về Đâu Hàng Nối Hàng” Mang Tính Chân Thực Của Đời Thường, Không Ước Lệ. Và Cũng Có Những Hình Ảnh Mang Vẻ Đẹp Tượng Trưng. Sự Kết Hợp Hài Hoà Hai Yếu Tố Đó Đã Tạo Nên Nét Đặc Sắc Không Trộn Lẫn Của Huy Cận Trong “Tràng Giang” Nói Riêng Và Tập “Lửa Thiêng” Nói Riêng Trong Phong Trào Thơ Mới: Vẻ Đẹp Cổ Điển Mà Hiện Đại.
Nhận Định Về Bài Thơ “Tràng Giang” Của Huy Cận, Có Ý Kiến Cho Rằng: Đó Là Nỗi Sầu Vạn Kỉ. Ý Kiến Khác Thì Nhấn Mạnh: Đó Là Nỗi Sầu Của Một Con Người Giàu Sức Lực. Anh/Chị Hiểu Những Ý Kiến Trên Như Thế Nào? Làm Sáng Tỏ Những Ý Kiến Đó Qua Việc Phân Tích Thi Phẩm.
Vẻ Đẹp Cổ Điển Và Hiện Đại Trong Bài Thơ Tràng Giang
Bài Mẫu 1
Nhà Thơ Huy Cận Tên Thật Là Cù Huy Cận, Với Giọng Thơ Rất Riêng Đã Khẳng Định Tên Tuổi Của Mình Trong Phong Trào Thơ Mới 1930-1945. Ông Vốn Quê Quán Hương Sơn, Hà Tĩnh, Sinh Năm 1919 Và Mất Năm 2005. Trước Cách Mạng Tháng Tám, Thơ Ông Mang Nỗi Sầu Về Kiếp Người Và Ca Ngợi Cảnh Đẹp Của Thiên Nhiên, Tạo Vật Với Các Tác Phẩm Tiêu Biểu Như: Lửa Thiêng, Vũ Trụ Ca, Kinh Cầu Tự. Nhưng Sau Cách Mạng Tháng Tám, Hồn Thơ Của Ông Đã Trở Nên Lạc Quan, Được Khơi Nguồn Từ Cuộc Sống Chiến Đấu Và Xây Dựng Đất Nước Của Nhân Dân Lao Động: Trời Mỗi Ngày Lại Sáng, Đất Nở Hoa, Bài Thơ Cuộc Đời... Vẻ Đẹp Thiên Nhiên Nỗi Ưu Sầu Nhân Thế, Một Nét Thơ Tiêu Biểu Của Huy Cận, Được Thể Hiện Khá Rõ Nét Qua Bài Thơ Tràng Giang. Đây Là Một Bài Thơ Hay, Tiêu Biểu Và Nổi Tiếng Nhất Của Huy Cận Trước Cách Mạng Tháng Tám. Bài Thơ Được Trích Từ Tập Lửa Thiêng, Được Sáng Tác Khi Huy Cận Đứng Ở Bờ Nam Bến Chèm Sông Hồng, Nhìn Cảnh Mênh Mông Sóng Nước, Lòng Vời Vợi Buồn, Thương Cho Kiếp Người Nhỏ Bé, Nổi Trôi Giữa Dòng Đời Vô Định. Mang Nỗi U Buồn Hoài Như Thế Nên Bài Thơ Vừa Có Nét Đẹp Cổ Điển Lại Vừa Đượm Nét Hiện Đại, Đem Đến Sự Thích Thú, Yêu Mến Cho Người Đọc.
Bâng Khuâng Trời Rộng Nhớ Sông Dài
Sóng Gợn Tràng Giang Buồn Điệp Điệp
Không Khói Hoàng Hôn Cũng Nhớ Nhà.
Ngay Từ Thi Đề, Nhà Thơ Đã Khéo Gợi Lên Vẻ Đẹp Cổ Điển Lại Hiện Đại Cho Bài Thơ Tràng Giang Là Một Cách Nói Chệch Đầy Sáng Tạo Của Huy Cận. Hai Vầng Ang Đi Liền Nhau Đã Gợi Lên Trong Người Đọc Cảm Giác Về Con Sông, Không Chỉ Dài Vô Cùng Mà Còn Rộng Mênh Mông, Bát Ngát. Hai Chữ Tràng Giang Trong Thơ Đường Thi, Một Dòng Sông Của Muôn Thuở Vĩnh Hằng, Dòng Sông Của Tâm Tưởng.
Tứ Thơ Tràng Giang Mang Nét Cổ Điển Như Thơ Xưa: Nhà Thơ Thường Ẩn Hiện Cái Tôi Của Mình. Nhưng Nếu Các Thi Nhân Xưa Tìm Đến Thiên Nhiên Để Mong Hòa Nhập, Giao Cảm, Huy Cận Lại Tìm Về Thiên Nhiên Để Thể Hiện Nỗi Ưu Tư, Buồn Bã Về Kiếp Người Cô Đơn, Nhỏ Bé Trước Vũ Trụ Bao La. Đó Cũng Là Vẻ Đẹp Đầy Sức Quyến Rũ Của Tác Phẩm, Ẩn Chứa Một Tinh Thần Hiện Đại.
Câu Đề Từ Giản Dị, Ngắn Gọn Với Chỉ Bảy Chữ Nhưng Đã Thâu Tóm Được Cảm Xúc Chủ Đạo Của Cả Bài: Bâng Khuâng Trời Rộng Nhớ Sông Dài. Trước Cảnh Trời Rộng, Sông Dài Sa Mà Bát Ngát, Mênh Mông Của Thiên Nhiên, Lòng Con Người Dấy Lên Tình Cảm Bâng Khuâng Và Nhớ. Từ Láy Bâng Khuâng Được Sử Dụng Rất Đắc Địa, Nó Nói Lên Được Tâm Trạng Của Chủ Thể Trữ Tình, Buồn Bã, U Sầu, Cô Đơn, Lạc Lõng. Và Con Sông Dài, Nghe Miên Man Tít Tắp Ấy Cứ Vỗ Sóng Đều Đặn Khắp Các Khổ Thơ, Cứ Cuộc Sống Lên Mãi Trong Lòng Nhà Thơ Làm Rung Động Trái Tim Người Đọc.
Và Ngay Từ Khổ Thơ Đầu, Người Đọc Đã Bắt Gặp Những Con Sóng Lòng Đầy Ưu Tư, Sầu Não Như Thế:
Sóng Gợn Tràng Giang Buồn Điệp Điệp,
Con Thuyền Xuôi Mái Nước Song Song.
Thuyền Về Nước Lại Sầu Trăm Ngả
Củi Một Cành Khô Lạc Mấy Dòng.
Vẻ Đẹp Cổ Điển Của Bài Thơ Được Thể Hiện Khá Rõ Ngay Từ Bốn Câu Đầu Tiên Này. Hai Từ Láy Nguyên Điệp Điệp, Song Song Ở Cuối Hai Câu Thơ Mang Đậm Sắc Thái Cổ Kính Của Đường Thi. Và Không Chỉ Mang Nét Đẹp Ấy, Nó Còn Đầy Sức Gợi Hình, Gợi Liên Tưởng Về Những Con Sóng Cứ Loang Ra, Lan Xa, Gối Lên Nhau, Dòng Nước Thì Cử Cuốn Đi Xa Tận Nơi Nào, Miên Man Miên Man. Trên Dòng Sông Gợi Sóng Điệp Điệp, Nước Song Song Ấy Là Một Con Thuyền Xuôi Mái, Lững Lờ Trôi Đi. Trong Cảnh Có Sự Chuyển Động Là Thế, Nhưng Sao Chỉ Thấy Vẻ Lặng Lờ, Mênh Mông Của Thiên Nhiên, Một Dòng Tràng Giang Dài Và Rộng Bao La Không Biết Đến Nhường Nào.
Dòng Sông Thì Bát Ngát Vô Cùng, Vô Tận, Nỗi Buồn Của Con Người Cũng Đầy Ắm Ắp Trong Lòng.
Thuyền Trôi Đi Nước Xô Vỗ, Lại Sầu Trăm Ngả
Cành Khô Củi Lạc Trên Dòng Nước Mấy Con Sóng.
Thuyền Và Nước Thường Đồng Hành, Nhưng Huy Cận Lại Thấy Chúng Rời Xa, Điều Này Gợi Lên Nỗi Xót Xa Trái Tim. Từ 'Trăm Ngả' Và 'Mấy Dòng' Tôn Lên Nỗi Buồn Không Lối Thoát.
Tâm Hồn Trữ Tình Hiện Hình Qua Câu Thơ Tuyệt Vời: 'Cành Khô Lạc Mấy Dòng Nước'. Huy Cận Sử Dụng Phép Đảo Ngữ Và Từ Ngữ Sắc Sảo, Thể Hiện Sự Cô Đơn Trước Vũ Trụ Bao La. Hình Ảnh Đơn Giản Nhưng Đầy Rợn Ngợp Gợi Lên Sự Trống Vắng, Đơn Côi.
Nét Đẹp Cổ Điển Tả Cảnh Ngụ Tình Thông Minh, Gợi Mở Về Nỗi Buồn Sâu Lắng. Đồng Thời, Cách Diễn Đạt Đặc Biệt Về 'Cành Khô Củi' Làm Sâu Thêm Tâm Trạng Của Nhân Vật, Điều Này Thể Hiện Sự Độc Đáo Và Thi Vị Trong Khổ Thơ.
Nỗi Lòng Được Thể Hiện Rõ Hơn Qua Hình Ảnh Lạnh Lẻo Của Không Gian Quạnh Vắng:
Cồn Nhỏ Trống Trải, Gió Thì Rì Rào
Tiếng Làng Xa Vắng Vẻ Chiều Buông.
Từ 'Lơ Thơ' Và 'Đìu Hiu' Được Sắp Xếp Khôn Khoẻ Trong Cùng Một Dòng Thơ, Tạo Ra Một Khung Cảnh Yên Bình. Cồn Nhỏ Trống Trải, Gió Thì Rì Rào, Đem Lại Cảm Giác Cô Đơn, Quạnh Quẽ. Bên Cạnh Cồn Nhỏ, Tiếng Làng Xa Vắng Vẻ Buông, Mang Đến Hình Ảnh Hơi Thở Của Sự Hoang Vắng Trong Chiều Tà.
Ánh Mắt Trữ Tình Theo Dõi Sự Lặng Lẽ Của Sông:
Ánh Nắng Tắt, Bầu Trời Tối Sầm
Sông Dài, Bầu Trời Rộng, Bến Cô Liêu.
Ánh Nắng Tan, Bầu Trời Tối Đã Tạo Nên Sự Di Chuyển Và Mở Rộng Không Gian, Đồng Thời Gợi Lên Cảm Giác Sự Chia Lìa. Cảnh Sâu Chót Vót Thể Hiện Sự Sáng Tạo Mới Mẻ, Đầy Hiện Đại Của Huy Cận. Đôi Mắt Nhà Thơ Như Xuyên Thấu Vào Vũ Trụ, Không Gian Mênh Mông. Cõi Thiên Nhiên Mang Lại Sự Lớn Lao Với Sông Dài, Bầu Trời Rộng, Trong Khi Con Người Lại Bị Nhỏ Bé, Cô Đơn: Bến Cô Liêu.
Vẻ Đẹp Cổ Điển Trong Khung Cảnh Quen Thuộc Của Đường Thi Hiện Lên, Với Sông, Trời, Và Ánh Nắng. Cuộc Sống Buồn Tẻ, Chán Chường, Với Vẻ Vắng Vẻ Của Chợ Chiều, Tất Cả Đã Tan Rã, Chia Lìa.
Nhà Thơ Được Hướng Về Dòng Sông, Ngắm Nhìn Khung Cảnh Xung Quanh, Mong Mỏi Tìm Thấy Chút Gì Quen Thuộc Mang Lại Hơi Ấm Cho Tâm Hồn Đang Chìm Trong Giá Lạnh Và Cô Đơn. Thiên Nhiên Đáp Trả Bằng Cách Hiển Thị Hình Ảnh Càng Quạnh Quẽ, Đìu Hiu:
Cánh Bèo Trôi Bồng Bềnh Trên Dòng Sông, Hình Ảnh Thường Thấy Trong Thơ Cổ Điển, Gợi Lên Sự Bấp Bênh, Nổi Trôi Của Kiếp Người Giữa Dòng Đời. Nhưng Trong Thơ Huy Cận, Không Chỉ Có Một Hay Hai Cánh Bèo, Mà Là Hàng Nối Hàng. Bèo Trôi Hàng Hàng Làm Rợn Người Trước Thiên Nhiên, Khiến Cõi Lòng Đau Đớn, Cô Đơn. Bên Cạnh Hàng Nối Hàng Cánh Bèo Là Bờ Xanh Tiếp Bãi Vàng Như Mở Ra Một Không Gian Bao La, Vô Tận, Thiên Nhiên Nối Tiếp Thiên Nhiên, Dường Như Không Có Sự Giao Hòa, Nối Kết:
Mênh Mông Không Một Chuyến Đò Ngang
Không Cầu Gợi Chút Niềm Thân Mật.
Đâu Chuyến Đò Nào Chèo Qua
Lạc Lõng Không Lối Về.
Tác Giả Sử Dụng Cấu Trúc Phủ Định.. Không…Không Để Hoàn Toàn Phủ Định Những Kết Nối Của Con Người. Trước Mắt Nhà Thơ Bây Giờ Không Còn Gì Gợi Niềm Thân Mật Để Kéo Mình Ra Khỏi Cô Đơn, Đang Bao Trùm, Vây Kín, Chỉ Có Một Thiên Nhiên Mênh Mông, Mênh Mông, Không Có Chuyến Đò Ngang, Phương Tiện Giao Kết Của Con Người, Dường Như Đã Bị Cõi Thiên Nhiên Nhấn Chìm, Trôi Đi Nơi Nào.
Huy Cận Lại Khéo Léo Vẽ Nét Đẹp Cổ Điển Và Hiện Đại Cho Bầu Trời Trên Cao:
Lớp Lớp Mây Cao Đùn Núi Bạc,
Chim Nghiêng Cánh Nhỏ Bóng Chiều Sa.
Bút Pháp Chấm Phá Với Mây Cao Đùn Núi Bạc Thành Lớp Lớp Đã Khiến Người Đọc Tưởng Tượng Ra Những Núi Mây Trắng Được Ánh Nắng Chiếu Vào Như Dát Bạc. Hình Ảnh Mang Nét Đẹp Cổ Điển Thật Trữ Tình Và Lại Càng Thi Vị Hơn Khi Nó Được Khơi Nguồn Cảm Hứng Từ Một Tứ Thơ Đường Cổ Của Đỗ Phủ:
Mặt Đất Mây Đùn Cửa Ải Xa.
Huy Cận Đã Sử Dụng Rất Tài Tình Động Từ Đùn, Khiến Mây Như Chuyển Động, Có Nội Lực Từ Bên Trong, Từng Lớp Từng Lớp Mây Cứ Đùn Ra Mãi. Đây Cũng Là Một Nét Thơ Đầy Chất Hiện Đại, Bởi Nó Đã Sử Dụng Sáng Tạo Từ Thơ Cổ Điển Quen Thuộc.
Và Nét Hiện Đại Càng Bộc Lộ Rõ Hơn Qua Dấu Hai Chấm Thần Tình Trong Câu Thơ Sau. Dấu Hai Chấm Này Gợi Mối Quan Hệ Giữa Chim Và Bóng Chiều: Chim Nghiêng Cánh Nhỏ Kép Bóng Chiều, Cùng Sa Xuống Mặt Tràng Giang, Hay Chính Bóng Chiều Sa, Đè Nặng Lên Cánh Chim Nhỏ Làm Nghiêng Lệch Cả Đi. Câu Thơ Tả Không Giang Nhưng Gợi Được Thời Gian Bởi Nó Sử Dụng Cánh Chim Và Bóng Chiều, Vốn Là Những Hình Tượng Thẩm Mĩ Để Tả Hoàng Hôn Trong Thơ Ca Cổ Điển.
Nhưng Giữa Khung Cảnh Cổ Điển Đó, Người Đọc Lại Bắt Gặp Nét Tâm Trạng Hiện Đại.
Lòng Quê Dợn Dợn Vời Con Nước,
Không Khói Hoàng Hôn Cũng Nhớ Nhà.
Dợn Dợn Là Một Từ Láy Nguyên Sáng Tạo Của Huy Cận, Chưa Từng Thấy Trước Đó. Từ Láy Này Hô Ứng Cùng Cụm Từ Vời Con Nước Cho Thấy Một Nỗi Niềm Bâng Khuâng Cô Đơn Của Lòng Quê. Nỗi Niềm Đó Là Nỗi Niềm Nhớ Quê Hương Khi Đang Đứng Giữa Quê Hương, Nhưng Quê Hương Đã Không Còn. Đây Là Nét Tâm Trạng Chung Của Các Nhà Thơ Mới Lúc Bây Giờ, Một Nỗi Lòng Đau Xót Trước Cảnh Mất Nước.
Bên Cạnh Tâm Trạng Hiện Đại Ấy Là Từ Thơ Cổ Điển Được Gợi Từ Câu Thơ: Trên Sông Khói Sóng Cho Buồn Lòng Ai Của Thôi Hiệu. Xưa Thôi Hiệu Cần Vịnh Vào Sóng Để Mà Buồn Mà Nhớ, Còn Huy Cận Thì Buồn Mà Không Cần Ngoại Cảnh, Bởi Tự Nỗi Buồn Nó Đã Sâu Sắc Lắm Rồi. Thế Mới Biết Tấm Lòng Yêu Quê Hương Thắm Thiết Đến Nhường Nào Của Nhà Thơ Hôm Nay.
Cả Bài Thơ Mang Nét Đẹp Cổ Điển, Vừa Mang Nét Hiện Đại, Vẻ Đẹp Cổ Điển Được Thể Hiện Qua Lối Thơ Bảy Chữ Mang Đậm Phong Vị Đường Thi, Qua Cách Dùng Từ Láy Nguyên, Qua Việc Sử Dụng Các Thi Liệu Cổ Điển Quen Thuộc Như Mây, Sông, Cánh Chim, Và Trên Hết Là Cách Vận Dụng Các Tứ Thơ Cổ Điển, Gợi Cho Bài Thơ Không Khí Cổ Kính, Trầm Mặc Của Thơ Đường.
Vẻ Đẹp Hiện Đại Lan Tỏa Qua Các Câu Chữ Sáng Tạo, Độc Đáo Của Nhà Thơ Như Sâu Chót Vót, Dấu Hai Chấm Thần Tình. Nhưng Vẻ Đẹp Ấy Đọng Lại Cuối Cùng Là Tấm Trạng Nhớ Quê Hương Ngay Khi Đứng Giữa Quê Hương, Nét Tâm Trạng Hiện Đại Của Các Nhà Tri Thức Muốn Đóng Góp Sức Mình Cho Đất Nước Mà Đành Bất Lực, Không Làm Gì Được.
Bài Thơ Sẽ Còn Mãi Đi Vào Lòng Người Với Phong Cách Tiêu Biểu Rất Huy Cận, Với Vẻ Đẹp Cổ Điển Trang Nhã Sâu Lắng Và Vẻ Đẹp Hiện Đại Mang Nặng Một Tấm Lòng Yêu Nước, Yêu Quê Hương.
Bài Làm Mẫu 2
Nhà Phê Bình Hoài Thanh Từng Phát Biểu: “Buồn Thương, Sầu Não Là Âm Hưởng Chính Khiến “Lửa Thiêng” Như Bản Ngậm Ngùi Dài. Tập Thơ Dằng Dặc Một Nỗi Buồn Nhân Thế, Một Nỗi Đau Đời.” Trong Đó, Người Đọc Biết Đến Huy Cận Nhiều Nhất Qua Bài “Tràng Giang” Trích Trong Tập Thơ Này. “Tràng Giang” Đã Khắc Họa Thành Công Cái Lăng Kính Sầu Vạn Cổ Cùng Hiện Thực Giàu Sắc Thái. Chính Vì Lẽ Đó, Bài Thơ “Tràng Giang” Của Huy Cận Đã Khắc Họa Thành Công Hai Vẻ Đẹp: Cổ Điển Và Hiện Đại.
Phân Tích Vẻ Đẹp Cổ Điển Và Hiện Đại Trong Bài Tràng Giang Có Thể Cho Ta Thấy Được Từ Chính Hoàn Cảnh Sáng Tác Và Nhan Đề Bài Thơ. Theo Tác Giả, Đây Là Bài Thơ Được Cảnh Sông Nước Mênh Mông Của Sông Hồng Gợi Tứ. Huy Cận Đã Có Lần Tâm Sự: “Một Chiều Mùa Thu Năm 1939, Tôi Đi Dạo Trên Bờ Sông Cái Bằng Xe Đạp, Có Đoạn Dắt Xe Đi Bộ Thấy Buổi Chiều Trên Đê Và Sông Đẹp Quá: Nắng Chiều Đã Nhạt, Mây Đùn Phía Núi Xe Và Man Mác Một Nỗi Buồn Khó Tả, Nửa Như Gần Gũi, Nửa Xa Vời, Quạnh Hiu”. Vì Vậy, Bức Tranh Thiên Nhiên Được Khắc Họa Trong Bài Thơ Này Gần Như Đã Trở Thành Cổ Điển Mà Linh Hồn Của Nó Là Một Nỗi Buồn Đìu Hiu, Mênh Mang, Cô Đơn Bao Trùm. Qua Mỗi Khổ Thơ, Tác Giả Điểm Thêm Một Nét Buồn, Gợi Thêm Một Tâm Sự Đáu.
Tất Cả Những Điều Ấy Cứ Trở Đi Trở Lại Như Sóng Nước, Vẫn Là Bát Ngát Mênh Mang Nhưng Phủ Trùm Bởi Hoang Vắng Và Tàn Tạ, Lụi Tắt, Bơ Vơ, Nổi Trôi, Chia Lìa, Phiêu Bạt, Bềnh Bồng.... Đây Là Nỗi Buồn Cô Đơn Đến Rợn Ngợp Của Con Người Cá Nhân Bé Nhỏ Trước Không Gian Ba Chiều Bao La, Luôn Luôn Có Niềm Khát Khao Hoà Hợp, Cảm Thông Giữa Người Và Người Trong Tình Cảnh Đất Nước Và Tình Thương Yêu Nhân Loại. Thiên Nhiên Trước Giờ Là Đề Tài Chung Của Thi Nhân, Là Cảm Hứng Dạt Dào Bất Tử. Nhưng Rõ Ràng, Sự Xuất Hiện Của Con Người, Bóng Dáng Của Cái Tôi Cá Nhân Là Một Nét Mới – Hoàn Toàn Đứt Lìa Với “Cái Ta” Cổ Kính Trung Đại Để Dấn Thân Vào Khám Phá Những Chiều Kích Nội Tâm. Là Nhà Thơ Nổi Tiếng Của Phong Trào Thơ Mới, Huy Cận Đã Để Lại Những Dấu Ấn Khó Phai Trên Thi Đàn, Vừa Tiếp Nối, Gìn Giữ Những Nét Cổ Điển Trong Thơ Xưa Vừa Thực Hiện Cuộc Khai Phá Ngoạn Mục Trong Hành Trình Thơ Mới.
Nhan Đề “Tràng Giang” Xuất Phát Từ Sự Biến Đổi Lại Từ “Trường Giang”, Hai Âm Hán - Việt Và Vần “Ang” Đi Liền Với Nhau Làm Cho Con Sông Trong Thơ Bỗng Trở Nên Dài Rộng Hơn, Mệnh Mang, Rợn Ngợp Hơn Trong Tâm Tưởng Người Đọc. Cùng Với Đó Là Lời Đề Từ: “Bâng Khuâng Trời Rộng Nhớ Sông Dài”. Lời Đề Từ Này Được Xem Như Cảm Xúc Chủ Đạo Của Bài Thơ, Là Nơi Để Người Đọc Đi Vào Và Phân Tích Những Giá Trị Của Bài Thơ.
Vẻ Đẹp Cổ Điển Và Hiện Đại Của Bài Thơ Còn Được Gợi Từ Đề Tài, Cảm Hứng Sáng Tác Và Chất Liệu Thi Ca. Tràng Giang Đượm Một Nỗi Sầu Vạn Cổ Của Con Người Bé Nhỏ, Hữu Hạn Trước Thời Gian, Không Gian Vô Hạn, Vô Cùng. Bài Thơ Chỉ Vỏn Vẹn Bốn Khổ Và Được Mở Đầu Bằng Màu Sắc Chia Lìa:
“Gió đìu hiu lạc lơ trên cồn nhỏ
Đồng sông mênh mông, sóng vẫn buồn thiu
Thuyền về bến lại, sầu vẫn âm thầm
Một cành cây cô đơn, dòng nước lạc lõng”
Ta Thấy, Nhà Thơ Sử Dụng Hàng Loạt Những Thi Liệu Trong Thơ Đường Như Sóng, Thuyền, Nước… Sự Xuất Hiện Của Củi Khô Ở Câu Thơ Cuối Cùng Chính Là Một Hình Ảnh Mới Lạ, Độc Đáo, Một Nét Đẹp Đơn Sơ Và Bình Thường Của Văn Học Hiện Đại. Tuy Nhiên, Bức Tranh Đẹp Như Thủy Mặc Ấy Lại Đượm Nét Buồn Tái Tê “Chúng Tôi Lúc Đó Có Một Nỗi Buồn Thế Hệ, Nỗi Buồn Không Tìm Được Lối Ra Nên Kéo Dài Triền Miên”. Những Từ Láy “Đìu Hiu”, “Buồn Thiu” Như Xoáy Sâu Đặc Tả Nỗi Buồn Ấy. Cùng Với Đó Là Sự Chia Lìa, Vĩnh Quyết “Thuyền Về Bến Lại”, “Dòng Nước Lạc Lõng”. Trong Những Khổ Thơ Tiếp Theo, Nỗi Buồn Sầu Chất Ngất Ấy Càng Phát Ra Âm Thanh Đìu Hiu Não Nuột Hơn Nữa:
“Nhỏ Cồn Lơ Thơ, Gió Đìu Hiện Hiện
Nghe Tiếng Làng Xa Vãn, Chợ Chiều Buồn Thênh Thang”
Thậm Chí, Chính Tác Giả Cũng Hai Lần Phủ Định Sự Giao Hòa, Kết Nối Giữa Con Người Và Thiên Nhiên, Con Người Và Con Người, Phủ Định Tín Hiệu Của Sự Sống Để Gợi Nên Cái Tôi Cô Đơn Rờn Rợn Bốn Bề:
“Bèo Dạt Về Đâu, Hàng Nối Hàng
Mênh Mông Không Một Chuyến Đò Ngang
Không Cầu Gợi Chút Niềm Thân Mật
Lặng Lẽ Bờ Xanh Tiếp Bãi Vàng”
Cảm Hứng Đơn Độc Bao Trùm Cả Bài Thơ. Tạo Vật Cứ Chảy Trôi Như Nó Vốn Dĩ, Cứ Chia Li Như Nó Đã Từng. Để Rồi Trong Sự Mênh Mông Ấy, Con Người Lọt Thỏm Và Nhỏ Bé Đến Đáng Thương. Con Người Như Người Lữ Hành Cô Độc Giữa Không Gian, Thời Gian Vô Thủy Vô Chung. Cất Lên Tiếng Nói Tâm Tư Chính Là Bộc Bạch Nỗi Lòng Sâu Kín Của Thi Nhân Về Tình Yêu Quê Hương Xứ Sở:
“Mây Cao Lớp Lớp Đùn Núi Bạc
Chim Nghiêng Cánh Nhỏ Bóng Chiều Sa
Lòng Quê Nôn Nao Với Dòng Nước
Khói Hoàng Hôn Chưa Lặng Lẽ Nhớ Nhà”
Đối Lập Với Cảnh Tượng Hùng Vĩ Của Mây Cao, Núi Bạc Là Hình Ảnh Cánh Chim Nhỏ Bé Chìm Vào Sự Vô Cùng Vô Tận Của Vũ Trụ. Và Lúc Này Đây, Điểm Nhìn Thi Nhân Có Sự Thay Đổi, Nhà Thơ Không Nhìn Ngắm Ngoại Cảnh Bao La Rộng Lớn Nữa Mà Quay Ngược Hướng Về Lòng Mình “Lòng Quê”. Hai Chữ “Nôn Nao” Chính Là Sáng Tác Riêng Của Huy Cận, Là Tâm Trạng Nôn Nao, Day Dứt Triền Miên Của Một Người Đứng Trên Quê Hương Mà Lại Cảm Thấy Thiếu Quê Hương Như Các Nhà Thơ Cùng Thời. Ta Từng Bắt Gặp Nỗi Nhớ Quê Da Diết Ấy Trong Tâm Hồn Của Thôi Hiệu:
“Nhật Mộ Hương Quan Hà Xứ Thị
Yên Ba Giang Thượng Sử Nhân Sầu”
Thể Loại Và Bút Pháp Cũng Là Một Điểm Đặc Biệt Huy Cận Đã Vận Dụng Để Thể Hiện Vẻ Đẹp Cổ Điển Và Hiện Đại Của Bài Thơ. “Tràng Giang” Mang Đậm Phong Vị Cổ Điển Với Cách Ngắt Nhịp, Gieo Vần, Bút Pháp Đối Lập, Bút Pháp Tả Cảnh Ngụ Tình, Mang Tính Chất Gợi Hơn Là Tả Qua Những Từ Hán Việt Cổ Kính (Tràng Giang, Cô Liêu...). Bên Cạnh Đó, “Tràng Giang” Lại Cũng Rất Mới Qua Xu Hướng Giãi Bày Trực Tiếp “Cái Tôi Cá Nhân” Qua Vận Dụng Thể Thơ Bảy Chữ (Buồn Điệp Điệp, Sầu Trăm Ngả, Không Khói Hoàng Hôn Cũng Nhớ Nhà...), Qua Những Từ Ngữ Sáng Tạo Mang Dấu Ấn Xúc Cảm Cá Nhân Của Tác Giả (Sâu Chót Vót, Niềm Thân Mật, Nôn Nao…).
Sự Kết Hợp Giữa Cổ Điển Và Hiện Đại Trong Bài Tràng Giang Của Huy Cận Vô Cùng Hài Hòa Chớ Không Hề Gượng Ép. Chẳng Hạn, Với Câu “Củi Một Cành Khô Lạc Mấy Dòng” Ta Thấy, “Một” Đi Với “Mấy”, Cứng (Khô) Đối Với Mềm (Dòng Sông) Là Quá Quen Thuộc, Là Cũ Nhưng Chất Liệu “Củi Một Cành Khô” Thì Không Còn Cổ Điển Nữa! Bằng Những Cách Như Vậy, Huy Cận Đã Lặng Lẽ Góp Phần Biến Đổi Bộ Mặt Thơ Xưa Mà Mượn Cách Nói Của Hoài Thanh, Ta Thấy, Huy Cận Vừa Bước Vào Làng Thơ Đã Nhanh Chóng Có Một Chỗ Ngồi Ổn Định.
Tóm Lại, Bài Thơ “Tràng Giang” Là Kết Tinh, Là Thành Công Tiêu Biểu Cho Sự Kết Hợp Hài Hòa Giữa Nét Cổ Điển Và Lãng Mạn. Qua Đó, Ta Thấy Được Bức Tranh Không Gian Rộng Lớn Vô Cùng Vô Tận Cùng Nỗi Sầu “Cảnh Có Vui Đâu” Khi “Người Buồn” Tự Muôn Thuở:
“Hồn Đơn Chiếc Như Đảo Rời Dặm Biển
Suốt Một Đời Như Núi Đứng Riêng Tây”
Bài Làm Mẫu 3
Huy Cận Là Một Nhà Thơ Tên Tuổi Trong Nền Thi Ca Nước Nhà Với Nhiều Tác Phẩm Tiêu Biểu, Có Đóng Góp Rất Nhiều Trong Phong Trào Thơ Mới. “Tràng Giang” Là Một Trong Những Bài Thơ Tiêu Biểu Và Nổi Tiếng Nhất Của Ông. “Tràng Giang” Trích Trong Tập “Lửa Thiêng” Được Viết Trước Cách Mạng Tháng Tám. Với Bút Pháp Nghệ Thuật Đặc Sắc, Bài Thơ Là Một Bức Tranh Đẹp Được Hòa Quyện Giữa Nét Cổ Điển Và Hiện Đại.
Nét Đẹp Cổ Điển Và Hiện Đại Được Thể Hiện Ngay Từ Thi Đề Của Bài Thơ “Tràng Giang”. Hai Chữ “Tràng Giang” Mang Tính Cổ Điển Mà Trang Nhã, Là Từ Hán Việt, Gợi Cho Ta Đên Những Bài Thơ Đường Thi Có Màu Sắc Xưa Cũ, Cổ Kính. Nhưng Nếu Các Thi Nhân Xưa Đến Với Thiên Nhiên Để Tìm Sự Giao Cảm Thì Nhà Thơ Hiện Đại Huy Cận Lại Đứng Trước “Tràng Giang” Để Thể Hiện Nỗi Ưu Tư, Buồn Bã Trước Kiếp Người Nhỏ Bé Cô Đơn. Đó Là Một Tâm Hồn Rất Hiện Đại Mà Qua Đó Ta Có Thể Thấy Được Nét Quyến Rũ Của Bài Thơ.
Với Khổ Thơ Đầu Tiên:
Sóng Gợn Tràng Giang Buồn Điệp Điệp
Con Thuyền Xuôi Mái Nước Song Song
Thuyền Về Nước Lại Sầu Trăm Ngả
Củi Một Cành Khô Lạc Mấy Dòng
Hai Từ Láy “Điệp Điệp” Và “Song Song” Của 2 Câu Thơ Đầu Đậm Chất Cổ Điển Của Thơ Đường. Giữa Cái Bao La Bát Ngát Của Sóng, Của Nước Là Hình Ảnh Một “Con Thuyền Xuôi Mái”. Thuyền Và Nước Thường Đi Đôi Với Nhau Nhưng Ở Đây “Thuyền Về Nước Lại” Nghe Sao Xót Xa. Câu Thơ Cuối “Củi Một Cành Khô Lạc Mấy Dòng” Cho Ta Thấy Được Sự Cô Đơn Lẻ Loi Đến Lạc Lõng Giữa Vũ Trụ Bao La. Nét Đẹp Cổ Điển Của Khổ Thơ Được Thể Hiện Qua Ngòi Bút Đặc Sắc Của Tác Giả, Chỉ Bằng Vài Nét Chấm Phá Đơn Sơ Đã Gợi Được Lên Hồn Cốt Của Tạo Vật. Nhưng Bên Cạnh Đó Ta Cũng Nhìn Thấy Được Nét Đẹp Hiện Đại Của Khổ Thơ, Đó Là Hình Ảnh Độc Đáo Không Ước Lệ “Củi Một Cành Khô”, Hình Ảnh Thâu Tóm Ý Tưởng Chủ Đạo Cả Khổ Thơ, Hé Mở Tâm Trạng Nhân Vật Trữ Tình Cô Đơn, Lạc Lõng.
Khổ Thơ Tiếp
Bờ Cồn Nhỏ Lơ Thơ, Gió Thổi Đìu Hiu
Dường Như Tiếng Làng Xa Vãn Trong Chiều Tà
Bầu Trời Sâu Chót Vót, Nắng Trải Đến
Dòng Sông Dài, Bến Cô Liêu Trong Trắng.
Từ Láy Mà Tác Giả Dày Đặc “Lơ Thơ” Và “Đìu Hiu”, “Chót Vót” Cùng Với Việc Sử Dụng Hình Ảnh Đối Lập “Nắng Xuống - Trời Lên”, “Sông Dài - Trời Rộng” Là Thủ Pháp Nghệ Thuật Trong Lối Thơ Cổ. Vẻ Đẹp Cổ Điển Còn Hiện Ra Qua Các Thi Liệu Quen Thuộc Như Sông, Trời Còn Cuộc Sống Con Người Thì Cô Đơn, Buồn Bã. Cái Mới Mẻ Ở Đây Là Cách Diễn Đạt Qua Hình Ảnh Chuyển Đổi Cảm Giác Của Tác Giả Khi “Nắng Xuống Trời Lên” Lại “Sâu Chót Vót”, Gợi Lên Cho Ta Cái Mở Rộng Về Thời Gian, Không Gian Để Rồi Thấy Rõ Hơn Cái Nhỏ Bé Cô Đơn Của Con Người.
Ở Khổ Thơ Thứ Ba:
Bèo Dạt Về Đâu, Hàng Nối Hàng
Mênh Mông Không Một Chuyến Đò Ngang
Không Cầu Gợi Chút Niềm Thân Mật
Lặng Lẽ Bờ Xanh Tiếp Bãi Vàng.
“Bèo” Là Hình Ảnh Ẩn Dụ Cho Kiếp Người Trôi Nổi Thường Được Sử Dụng Trong Những Bài Thơ Cổ Điển. Ở Đây, Bèo Không Chỉ Có Một Cánh Mà “Hàng Nối Hàng” Rợn Ngợp. Cảnh Vật Ở Đây Hiu Quạnh Đến Vô Cùng. Cụm Kết Cấu “Không… Không” Nhấn Mạnh Điều Đó. Giữa Không Gian Mênh Mông Rợn Ngợp Giường Như Heo Hắt Không Có Sự Sống, Chỉ Có “Lặng Lẽ Bờ Xanh Tiếp Bãi Vàng”.
Vẻ Đẹp Cổ Điển Và Hiện Đại Tỏa Sáng Ở Khổ Thơ Cuối:
Mây Cao Đùn Núi Bạc Lớp Lớp,
Chim Nghiêng Cánh Nhỏ: Bóng Chiều Sa
Lòng Quê Dợn Dợn Vời Dòng Nước
Không Khói Hoàng Hôn Cũng Thấu Nhớ Nhà
“Lớp Lớp Mây Cao Đùn Núi Bạc” Được Tác Giả Lấy Cảm Hứng Từ Tứ Thơ Đường Cổ Của Đỗ Phủ “Mặt Đất Mây Đùn Cửa Ải Xa”. Bút Pháp Gợi Tả Cùng Từ Láy “Lớp Lớp” Cho Thấy Hình Ảnh Sống Động Của Núi Mây. Ở Đây Tác Giả Vận Dụng Rất Tài Tình Động Từ “Đùn” Khiến Cho Từng Lớp Mây Như Đang Chuyển Động. Hình Ảnh Này Rất Độc Đáo, Mang Vẻ Đẹp Hiện Đại. Ở Câu Thơ Sau, “Chim Nghiêng Cánh Nhỏ Bóng Chiều Sa”. Hình Ảnh “Chim Nghiêng Cánh” Và “Bóng Chiều” Cũng Là Những Hình Ảnh Quen Thuộc Của Thơ Ca Cổ Điển. Câu Thơ Tả Không Gian Nhưng Gửi Được Cả Thời Gian. Giữa Khung Cảnh Đó Là Một Tâm Hồn Rất Hiện Đại:
Lòng Quê Dợn Dợn Vời Dòng Nước
Không Khói Hoàng Hôn Cũng Thấu Nhớ Nhà
“Dợn Dợn” Là Một Từ Láy Độc Đáo Của Huy Cận Mà Trước Đó Chưa Ai Sử Dụng. Kết Hợp Cùng Với Cụm Từ “Vời Dòng Nước” Khiến Cho “Lòng Quê” Càng Thêm Hiu Quanh. Ở Câu Thơ Cuối Tác Giả Lấy Cảm Hứng Từ Tứ Thơ “Yên Ba Giang Thượng Sử Nhân Sầu” Của Thôi Hiệu. Nhưng Ở Đây Tác Giả Không Cần “Khói Hoàng Hôn” Cũng Vẫn “Thấu Nhớ Nhà” Bởi Nỗi Nhớ Đó Luôn Thường Trực Trong Tâm Khảm. Nét Khác Biệt Đó Làm Nên Vẻ Đẹp Hiện Đại Của Câu Thơ.
Ngoài Ra Bài Thơ “Tràng Giang” Mang Vẻ Đẹp Cổ Điển Và Hiện Đại Thể Hiện Ở Thể Loại Thơ Và Bút Pháp Mà Tác Giả Sử Dụng. Thể Loại Thơ Ở Đây Là Thơ 7 Chữ Với Lối Ngắt Nhịp Đăng Đối Nhuần Nhuyễn. Song, “Tràng Giang” Cũng Rất Mới Qua Những Từ Ngữ Giãi Bày Cảm Xúc Cá Nhân
“Tràng Giang” Là Một Bức Tranh Về Phong Cảnh Mà Còn Là Một Bản Nhạc Về Tâm Hồn. Nét Thi Vị Của Bài Thơ Là Ở Vẻ Đẹp Cổ Điển Và Hiện Đại Luôn Hòa Quyện, Sóng Đôi. Nét Đẹp Của Bài Thơ Sẽ Mãi Đi Vào Lòng Người, Để Rồi Qua Vẻ Đẹp Đó Ta Thấy Được Một Tấm Lòng Yêu Nước Thầm Kín, Một Tài Hoa Rực Sáng Của Thi Ca.
Bài Làm Mẫu 4
Nếu Xuân Diệu Được Mệnh Danh Là Chủ Soái Dòng Tây, Nguyễn Bính Là Chủ Soái Dòng Quê Thì Nhà Thơ Huy Cận Được Coi Là Chủ Soái Dòng Đường. Sinh Thời, Một Trong Những Gương Mặt Xuất Sắc Của Phong Trào Thơ Mới, Còn Được Mệnh Danh Là “Hồn Thơ Ảo Não” Ấy Cũng Đã Tự Nhận Mình Có Ảnh Hưởng Không Nhỏ Của Thơ Ca Cổ Điển, Nhất Là Thơ Đường. Bởi Vậy Sáng Tác Của Ông Luôn Có Sự Kết Hợp Nhuần Nhuyễn Giữa Hai Yếu Tố Cổ Điển Và Hiện Đại. Bài Thơ Tràng Giang, Ra Đời Vào Năm 1939, In Trong Tập “Lửa Thiêng” Đã Xuất Sắc Thể Hiện Một Cái Tôi Đa Sầu, Đa Cảm Qua Màu Sắc Nghệ Thuật Rất Đặc Trưng Đó.
Cổ Điển Và Hiện Đại Là Sự Kết Hợp Của Hai Màu Sắc Nghệ Thuật Vô Cùng Độc Đáo Trong Sáng Tác Của Những Nhà Thơ Tài Năng. Đối Với Nhà Thơ Huy Cận Sự Kết Hợp Của Hai Màu Sắc Đó Chính Là Yếu Tố Làm Nên Phong Cách Nghệ Thuật Của Thơ Ông. Bài Thơ Tràng Giang Có Sự Kết Hợp Đầy Sáng Tạo Giữa Hai Yếu Tố Ấy Tạo Nên Một Dấu Ấn Rất Riêng Để Huy Cận Khẳng Định Cái Tôi Buồn Bã, Cô Đơn Trước Cuộc Đời Qua Một Nguồn Cảm Hứng Bất Tận Với Không Gian Của Vũ Trụ Bao La.
Chính nhà thơ Huy Cận từng tâm sự, ban đầu Tràng giang có dự định là một bài thơ Đường theo thể thất ngôn bát cú. Bởi cảm xúc của một chàng sinh viên buồn bã trước thời cuộc, nhớ nhà, nhớ quê hương da diết đã khiến ông bật thành những câu thơ thất ngôn mang âm hưởng Đường thi. Có lẽ bởi vậy mà ngay từ nhan đề cho tới lời đề từ và xuyên suốt cả bốn khổ thơ, màu sắc cổ điển trong bài đã hiển hiện như một mạch nguồn kết nối tạo nên cái dư vang cho cái điệu buồn thương, ảo não rất đặc trưng của hồn thơ Huy Cận.
Thật vậy, nét cổ điển của bài thơ được gợi lên ngay từ nhan đề “Tràng giang”. Nếu đặt là “Chiều trên sông” như ban đầu thì sẽ không có được điều đó. “Tràng giang” là một từ Hán Việt, có nghĩa là một con sông dài, với điệp vần “ang” vừa tạo nên sắc thái cổ kính, trang trọng vừa có âm hưởng ngân vang dài rộng hơn. Bởi vậy thi đề khiến độc giả cảm nhận như tên một bài thơ Đường nào đó. Thêm vào nữa là lời đề từ Bâng khuâng trời rộng nhớ sông dài – một câu thơ thất ngôn vẽ nên một khung cảnh cũng rất Đường thi. Đó là cảm xúc buồn bã, cô đơn của con người trước một không gian rộng lớn bát ngát của trời, của sông mà ta cũng hay bắt gặp trong thơ của một thi sĩ xưa nào đó. Màu sắc cổ điển ngay từ ban đầu đã dẫn dắt cảm xúc của nhân vật trữ tình, khơi dậy nguồn cảm hứng để vẽ nên một khung cảnh đẹp, mênh mông có khả năng chất chứa nỗi sầu nhân thế của nhà thơ.
Và cứ thế phong vị cổ điển của Tràng giang được tiếp tục khơi gợi từ việc nhà thơ sử dụng những chất liệu, hình ảnh, bút pháp miêu tả, ngôn ngữ, giọng điệu… trong bài thơ. Huy Cận đã vận dụng và sáng tạo nguồn thi liệu cổ để tạo nên sắc thái riêng trong tác phẩm này. Những hình ảnh như: tràng giang, sóng gợn, con thuyền,bến cô liêu, bèo trôi, áng mây, cánh chim, bóng hoàng hôn… không hề xa lạ trong thơ xưa. Trước hết nó gợi lên những khung cảnh thiên nhiên rộng lớn nhưng vắng lặng, quạnh hiu. Chắc chắn, người yêu thơ cổ đã hơn một lần được cảm nhận khung cảnh quen thuộc như thế này:
Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp
Con thuyền xuôi mái nước song song
Hay
Lơ thơ cồn nhỏ gió đìu hiu
Và
Lớp lớp mây cao đùn núi bạc
Chim nghiêng cánh nhỏ: bóng chiều sa.
Chưa nói đến sóng gợn, thuyền trôi, bến cô liêu mà khung cảnh gió đìu hiu đã gợi cho chúng ta nhớ đến câu thơ: “Bến Phì gió thổi đìu hiu mấy gò” trong Chinh phụ ngâm. Ngay cả hình ảnh lớp lớp mây cao đùn núi bạc cũng được khơi nguồn cảm hứng từ ý thơ trong bài Cảm xúc mùa thucủa nhà thơ Đỗ Phủ: “Mặt đất mây đùn cửa ải xa”. Còn hình ảnh bèo trôi quá quen thuộc trong thơ xưa thường gợi nên những thân phận trôi nổi, bấp bênh, vô định trước dòng đời. Ý nghĩa ấy trong bài thơ này cũng vẫn nguyên vẹn như vậy. Hay cuối bài thơ, nỗi nhớ nhà của thi nhân cũng được khơi gợi từ tứ thơ trong Hoàng Hạc lâu của Thôi Hiệu. Dẫu không cần khói sóng trên sông nhưng ý vị nỗi niềm cũng bắt nguồn từ ý thơ của thi sĩ thời Đường. Điều đó có thể khẳng định, việc sử dụng những thi liệu cổ, hình ảnh trong thơ xưa đã làm nên sắc thái cổ điển rất riêng cho bài thơ này.
Và một yếu tố nữa làm nên chất cổ điển đặc trưng chính là bút pháp miêu tả. Từ nghệ thuật đối, nét chấm phá đến cái cách khơi gợi sự tĩnh lặng của cảnh vật trong bài thơ đều thuộc về âm hưởng của thơ xưa. Người đọc không ít lần thấy sự đối lập giữa những cái nhỏ bé, ít ỏi với không gian mênh mông, bất tận của sông, của trời. Ngay khổ thơ đầu tiên đã hiện lên một tràng giang rộng lớn, bất tận qua những sự vật nhỏ bé mà nhà thơ đã chạm tới như: những con sóng nhỏ lăn tăn, con thuyền buông trôi theo dòng nước, một cành củi khô. Con người bỗng dưng tìm thấy sự đồng điệu trong cảnh vật, cũng nhỏ bé, cô đơn nhưng nỗi buồn thì trải dài bất tận, lan tỏa khắp cả không gian. Sự đối ngược giữa cảnh vật với cảnh vật là sợi dây kết nối với nỗi lòng thi nhân. Đây chính là dư vị được khơi gợi từ thơ xưa mà nên.
Bên cạnh đó bút pháp chấm phá, rất đặc trưng của thơ Đường cũng được tác giả sử dụng để khắc họa cái rộng lớn vô biên của ngoại cảnh. Trước khi thấy được cảnh tượng: nắng xuống trời lên, sông dài trời rộng nhà thơ đã kịp phác qua cái lơ thơ cồn nhỏ gió đìu hiu và bến cô liêu. Hay ở cuối bài thơ, khung cảnh hùng vĩ, tráng lệ của bức tranh bầu trời hoàng hôn chỉ được hiện lên qua vài nét vẽ mây cao đùn núi bạc, chim nghiêng cánh nhỏ, bóng chiều sa. Cái thần thái của cảnh vật chỉ nằm trong một vài nét phác thảo như thế và làm nổi bật lên một khung cảnh mây trời, sông nước mênh mang như mở rộng ra cả ba chiều vô cùng, vô tận.
Tràng giang càng rộng lớn, bát ngát lại càng quạnh quẽ, vắng lặng, đìu hiu. Một phần do cách miêu tả qua thủ pháp nhân hóa như: buồn điệp điệp, nước song song, sầu trăm ngả, lạc mấy dòng, bến cô liêu, lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng… Các sự vật dường như không hề có mối liên hệ, gắn kết, chỉ để làm tô đậm thêm trạng thái lặng thinh đến nao lòng. Nhưng cũng bởi một phần do cách hạn chế ở mức tối đa về âm thanh, chuyển động của sự vật trong bài thơ. Nếu nói Tràng giang gần như tĩnh lặng vì không có một chút âm thanh nào rất đúng. Từ sóng đến thuyền, đến gió, đến mây, đến chim… đều êm ả, trầm buồn. Có xuất hiện tiếng làng xa vãn chợ chiều hay không vẫn chưa khẳng định được, vì nó đặt trong trạng thái nghi vấn Đâu? Bởi vậy có chăng là sự chuyển động đứt gãy, chia lìa của thuyền về nước lại, của nắng xuống trời lên sâu chót vót, là cái gấp gáp trong thời khắc hoàng hôn của lớp lớp mây cao đùn núi bạc, của chim nghiêng cánh nhỏ: bóng chiều sa… Cách để khơi gợi một không gian rộng lớn như thế nhưng hoàn toàn trong tĩnh lặng là cách thơ xưa hay làm. Bởi những ý nghĩa tượng trưng từ cảnh vật sẽ làm thức dậy nỗi buồn, sự cô đơn của nhân vật trữ tình.
Và một trong những điểm đặc sắc trong cách mang phong vị cổ điển đến cho bài thơ còn nhờ cách dùng ngôn ngữ, thể thơ, cách ngắt nhịp. Bài thơ dễ gợi nên cái hồn cốt cổ xưa là bởi nhà thơ Huy Cận đã sử dụng và sáng tạo rất nhiều các từ láy. Có đến hơn mười từ láy trong mười sáu câu thơ: điệp điệp, song song, lơ thơ, đìu hiu, chót vót, mênh mông, lặng lẽ, lớp lớp,dợn dợn. Chưa nói đến tác dụng của chúng trong việc tạo sắc thái ý nghĩa trong bài thơ mà những từ láy đó đã tạo nên cảm xúc buồn buồn, sâu lắng theo kiểu bàng bạc của thơ xưa mà ta hay bắt gặp. Thể thơ thất ngôn và cách ngắt nhịp 4/3 rất quen thuộc đã thổi cái chất cổ điển ngay trong âm hưởng, nhịp điệu cho bài thơ.
Tuy nhiên thành công nổi bật của Tràng giang là tác phẩm đã có sự kết hợp nhuần nhuyễn và đầy sáng tạo giữa hai yếu tố cổ điển và hiện đại. Màu sắc hiện đại thực sự đã mang tới những ý nghĩa và giá trị sâu sắc cho bài thơ. Có thể thấy, Tràng giang sử dụng rất nhiều những thi liệu cổ, nhưng chúng ta cũng nhận ra rằng bài thơ cũng có rất nhiều những hình ảnh, âm thanh rất đỗi đời thường, không hề ước lệ. Những cành củi khô, tiếng vãn chợ chiều hay bèo dạt là những gì hiện đại rất khác với thơ xưa. Lần đầu tiên trong thơ xuất hiện một thứ đã chẳng còn nhựa sống nhưng lại có ý nghĩa khắc họa tâm sự của một cái hồn bơ vơ, lạc lõng, vô định trước cuộc đời giàu ý nghĩa như cành củi. Chính Huy Cận cũng đã nói ông rất cân nhắc khi sử dụng hình ảnh này, nhưng cuối cùng nó vừa đậm chất hiện đại mà còn đạt được hiệu quả cao trong việc thể hiện cảm xúc của cái tôi trữ tình. Hay cứ nghĩ bèo dạt là thi liệu quen thuộc, nhưng ở đây nhà thơ không sử dụng một cánh bèo mà là hàng nối hàng bèo trong sự vô định không biết về đâu. Huy Cận không gợi lên một thân phận, một kiếp người mà là cả một thế hệ con người trong thời đại ấy. Bao người nghệ sĩ như ông đang sống trôi nổi, lênh đênh giữa thời cuộc mất nước này? Cái chân thực, hiện đại được Huy Cận gửi gắm trong đó. Bởi vậy những hình ảnh như thế trước khi chuyển tải tâm sự của một cái tôi “bất hòa nhưng bất lực”, bản thân chúng đã được nhà thơ khơi gợi lên những vẻ đẹp rất bình dị, đời thường. Trong khung cảnh của tràng giang mênh mông, bát ngát, người ta vẫn thấy vẻ đẹp của quê hương, đất nước rất đỗi gần gũi, mến yêu. Cho nên cảm xúc nhớ nhà không cần phải trỗi dậy bởi khói sóng hoàng hôn, mà tự thân nó đã là một nỗi niềm thường trực, không bao giờ nguôi trong lòng thi nhân.
Tâm trạng hiện đại trong bài thơ được thể hiện qua những cảm xúc chân thật nhất của “một linh hồn bé nhỏ/ mang trong mình nỗi buồn thiên cổ”. Cái tôi cô đơn, nhỏ bé, lạc lõng trước dòng đời đã được nhà thơ diễn đạt một cách thẳng thắn, trực tiếp. Ông tái hiện một khung cảnh rộng lớn, mênh mông thuộc về vũ trụ trên dòng sông Tràng Giang để tìm chốn ẩn náu cho bản thân. Hơi thở hiện đại chính là từ cảm xúc bất lực của một thế hệ đương thời trong bối cảnh mất nước. Tất cả điều đó được thể hiện qua những sự vật nhỏ bé trên dòng sông Tràng Giang mênh mông kia. Cái tôi ấy gửi sóng lòng mình theo nỗi buồn điệp điệp, theo mối sầu trăm ngả, theo cành củi khô lạc mấy dòng, theo chiếc cồn nhỏ gió đìu hiu, theo cái bến cô liêu, theo những dải bèo nối tiếp nhau… mà không đủ sức đối chọi với bầu trời bao la, dòng sông dài. Nỗi buồn cứ từ đó lan tỏa mênh mông, bao trùm đến khi mãi chẳng có điểm dừng. Trái tim của thi nhân bỗng rung lên một nỗi cô đơn, lạc lõng. Mọi thứ trôi nổi, bấp bênh, không định, thiếu vắng sự thân thuộc của sự sống con người. Do đó cái tôi mới dợn dợn trào dâng một nỗi nhớ nhà, nỗi nhớ quê hương khi đang đứng trên quê hương. Tâm sự đó là dấu ấn của cái tôi đương thời, của tình yêu quê hương, đất nước sâu kín mà tha thiết.
Không thể phủ nhận, một phần giá trị rất lớn của bài thơ Tràng Giang là ở bút pháp nghệ thuật vừa cổ điển vừa hiện đại. Phong cách nghệ thuật đặc trưng này của Huy Cận được thể hiện trong bài thơ Tràng Giang và nhiều bài thơ khác của ông trước cách mạng nói chung, thực sự đóng góp vào sự phong phú, sáng tạo và độc đáo của phong trào thơ mới. Huy Cận không chỉ làm cho chúng ta nhớ về một “hồn thơ ảo điệu” mà còn là nhà thơ của phong cách nghệ thuật cổ điển và hiện đại này.
Phân tích vẻ đẹp cổ điển và hiện đại trong bài thơ Tràng Giang
Bài viết mẫu 1
“Tràng Giang” là một trong những bài thơ xuất sắc nhất, tiêu biểu nhất cho phong cách thơ của Huy Cận trước cách mạng tháng Tám. Bài thơ được viết vào mùa thu năm 1939, xuất hiện trong tập Lửa Thiêng. Cảm xúc thơ được kích thích chủ yếu từ cảnh sông Hồng mênh mông sóng nước… Với bút pháp nghệ thuật đặc biệt, tác giả đã tạo ra một bức tranh thơ mang vẻ đẹp hòa quyện giữa cổ điển và hiện đại, đồng thời tiết lộ cái tôi cô đơn, tình thương, lòng yêu nước bí mật nhưng nguyên khát.
Tên của bài thơ “Tràng Giang” có nguồn gốc từ tiếng Hán-Việt. “Tràng” nghĩa là dài, “Giang” là sông, kết hợp lại thành “Tràng Giang” mang ý nghĩa là “Sông Dài”. Tuy nhiên, tại sao nhà thơ không chọn tựa đề “Sông Dài” mà lại chọn là “Tràng Giang”. Vì “Tràng Giang” mang một vẻ đẹp cổ kính, trang nhã, với vần “ang” gợi lên sự mênh mang, bao la của sóng nước, cũng là nỗi niềm của nhà thơ cũng mênh mang, không rõ ràng. Hai từ “Tràng Giang” như làm cho ta cảm nhận được nét buồn man mác, mang màu sắc cổ điển. Cảnh “trời rộng sông dài” không chỉ là cảnh vật mà còn là tình cảm. Cảnh “trời rộng sông dài” cũng là tình cảm “bâng khuâng”. Ngoài ra, tựa đề cũng gợi lên âm nhạc chủ âm cho bài thơ. Vẻ đẹp cổ điển của Tràng Giang hiện lên qua những hình ảnh thiên nhiên hùng vĩ nhưng cũng mang nỗi buồn đậm đà: “Sóng gợn Tràng Giang buồn điệp điệp”. Một hình ảnh đẹp đẽ của sóng gợn và những từ ngữ “buồn điệp điệp” cuối câu thơ đã gợi lên trong ta cảm giác về nỗi buồn dạt dào. Hình ảnh: “Lớp lớp mây cao đùn núi bạc” tạo ra vẻ đẹp thiên nhiên lộng lẫy, hùng vĩ, nhưng cũng không làm phai nhạt đi nỗi buồn. Câu cuối bài: “Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà” lấy cảm hứng từ hai câu thơ trong bài Hoàng Hạc lâu của nhà thơ Thôi Hiệu thời Đường, dịch bởi nhà thơ Tản Đà: “Quê hương khuất bóng hoàng hôn – Trên sông khói sóng cho buồn lòng ai”. Điều này thể hiện nỗi sầu xa xứ, nỗi buồn đau trăn trở và sâu sắc hơn, ý thơ thêm lặng.
Bên cạnh vẻ đẹp cổ điển, vẻ đẹp hiện đại trong Tràng Giang cũng được nhà thơ thể hiện rất đặc sắc với bút pháp nghệ thuật tinh tế. Những hình ảnh thơ rất bình dị, đời thường tưởng như vô nghĩa nhưng lại chứa đựng ý nghĩa sâu sắc: “Con thuyền xuôi mái nước song song” nhấn mạnh sự cô đơn, đồng thời là sự chia ly, là nỗi ám ảnh về cuộc sống lênh đênh, lạc loài: “Củi một cành khô lạc mấy dòng”. Hình ảnh thơ: “Lơ thơ cồn nhỏ – Đâu tiếng làng xa – nắng xuống trời lên – Sông dài, trời rộng, bến cô liêu”, là không gian mở rộng và đẩy cao hơn, cảnh vật càng trở nên vắng lặng, nhà thơ nghe thấy âm thanh cuộc sống nhưng chỉ cảm nhận được tiếng dội hoang vắng của lòng người. Tác giả khẳng định sự hiện diện của con người nhưng chỉ để phủ nhận nó, chỉ còn thiên nhiên đẹp, cô quạnh. Hình ảnh: “bèo dạt về đâu – Mênh mông không một chuyến đò ngang” sâu sắc nỗi buồn về sự chia ly, tan tác. “Chim nghiêng cánh nhỏ: bóng chiều sa” biểu tượng cho cái tôi nhỏ bé, cô đơn trước cuộc sống u ám, không có niềm vui. Vẻ đẹp hiện đại của bài thơ với tất cả những hình ảnh dường như vô nghĩa ấy đã tạo ra cho “Tràng Giang” một tính cách không bao giờ phai nhạt trong bức tranh thiên nhiên u ám, buồn tẻ.
Sự pha trộn giữa vẻ đẹp cổ điển và hiện đại đã tạo ra một “Tràng Giang” cao lớn, rộng lớn, mênh mang, hùng vĩ. Thông qua đó, Huy Cận đã biểu lộ nỗi sầu của một cái tôi cô đơn trước thiên nhiên hoang sơ nhưng chứa đựng tình người và lòng yêu nước thầm lặng, đau đớn..
Bài làm mẫu 2
Trong phong trào Thơ Mới, chúng ta không chỉ nhắc đến Xuân Diệu với những bài thơ tình đầy lãng mạn mà còn phải nhớ đến một Huy Cận, nhà thơ của vạn lí sầu. Trong khi phong trào Thơ Mới đang sôi động với sự đổi mới, Huy Cận lại chọn cho mình một con đường riêng, ông vẫn kết hợp một cách hài hòa giữa chất cổ điển và hiện đại trong các tác phẩm của mình. Tràng giang là một ví dụ xuất sắc nhất cho sự kết hợp hài hòa giữa hai nét tưởng chừng đối lập ấy là cổ điển và hiện đại.
Ở đây, chất cổ điển có thể hiểu là sự kế thừa những phẩm chất, những nét vốn có của văn học trung đại. Còn chất hiện đại được hiểu là sự hấp thụ những yếu tố mới trong văn học phương Tây. Duy trì sự hòa hợp giữa hai yếu tố này trong một tác phẩm không phải là điều đơn giản.
Về chất cổ điển trong bài thơ Tràng giang, tinh thần truyền thống của tập thơ Lửa thiêng không không phải là sự từ chối quá khứ, với tập thơ này Huy Cận nhấn mạnh vào sự kết hợp, áp dụng những giá trị của văn học truyền thống vào các bài thơ của mình. Vì vậy, không chỉ có Tràng giang mà cả tập thơ này của ông đều mang dấu ấn của văn học cổ điển. Trong tác phẩm này, nét cổ điển đầu tiên là ở đề tài, nguồn cảm hứng mà bài thơ đề cập đến. Đề tài đứng trước sự bao la của sông và trời, nhận thức được sự bé nhỏ, hạn hẹp của con người là đề tài thường thấy trong văn học trung đại. Chất cổ điển đó thể hiện ở ngay tiêu đề bài thơ, mặc dù là tác phẩm của thơ mới nhưng lại có một cái tên rất cổ điển: Tràng giang. Tràng ở đây là một cách phát âm cổ - dài, còn giang là từ dùng để chỉ chung tên của các con sông. Ngay từ tiêu đề, người đọc đã cảm nhận được không gian cổ kính của bài thơ, với không gian mênh mông, rộng lớn có phần rợn ngợp trải dài trước mắt. Kết hợp với tiêu đề, từ khóa của tác phẩm cũng mang nét cổ điển:
Nhớ sông dài trong trời rộng bao la
“Trời rộng sông dài” gợi lên vẻ mênh mông, vô tận của vũ trụ. Trong không gian ấy, con người trở nên cô đơn, nhỏ bé, đầy ám ảnh. Đây là tâm trạng của nhiều thi nhân trước đây, có thể kể đến như Trần Tử Ngang:
“Tiền không gặp cổ nhân
Sau không gặp lai giả
Niệm về thế giới này
Đọc thương nhiều như thế”.
Trước vẻ mênh mông, vô cùng của vũ trụ, con người dường như luôn cảm thấy mình đơn độc, nhỏ bé hơn. Do đó, nỗi buồn, nỗi sầu trở nên rõ nét hơn. Huy Cận cũng không tránh khỏi tâm trạng ấy, từ từ “bâng khuâng” đã thể hiện tâm trạng u buồn, lạc lõng của nhân vật trước vẻ đẹp mênh mông của sóng nước.
Chất cổ điển trong Tràng giang cũng được thể hiện qua hệ thống hình ảnh mà Huy Cận sử dụng. Hàng loạt hình ảnh cổ điển xuất hiện trong bài thơ: bến cô liêu, chiếc thuyền, dòng sông, cánh bèo, cánh chim là những hình ảnh phổ biến trong thơ cổ như: “Ngàn mai gió cuốn chim bay mỏi” (Bà Huyện Thanh Quan), “Cô chu thôi lạp ông/ Độc điếu hàng giang tuyết” (Liễu Tông Nguyên)... Mọi vật phẩm trong thơ ông đều đang trong tình trạng héo úa, tan tác, chia lìa: bèo hàng nối hàng không có mối liên hệ, những cảnh bèo trôi lạc như số phận lênh đênh của con người trong xã hội; chiếc đò qua sông không còn chuyến đi nào, bến cô liêu cô độc,… Không gian hoang vu, vắng lặng, dù đã cố gắng tìm kiếm dấu hiệu của sự sống nhưng có vẻ như Huy Cận đã thất bại hoàn toàn, chỉ còn lại “lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng”. Hình ảnh của những đám mây trắng, cánh chim cuối bài thơ: Lớp lớp mây cao đùn núi bạc/ Chim nghiêng cánh nhỏ bóng chiều sa, cũng là hình ảnh thân quen trong văn học cổ như trong câu thơ của Vương Bột: “Chiếc cò bay với ráng pha/ Sông xanh cùng với trời xa một màu”. Ở đây, Huy Cận đã linh hoạt sử dụng bút pháp chấm phá, chỉ cần một nét chấm nhỏ đã tạo ra không gian mênh mông, rộng lớn với “lớp lớp” núi xếp lên nhau, giống như những đám mây trong thơ Đỗ Phủ: “Mặt đất mây đùn cửa ải xa”. Không gian được mở rộng ở chiều cao, và trong không gian đó cánh chim, hay cả con người, trở nên bé nhỏ đến đáng thương. Bóng chiều có thể là quá nặng đã khiến cánh chim phải sa xuống, cánh chim bé nhỏ, đáng thương đến mức thương xót. Đặc biệt ở câu thơ cuối cùng: “Dòng sông dợn dợn vời con nước/ Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà”, Huy Cận đã áp dụng thi liệu của văn học Trung Quốc: Nhật mộ hương quan hà xứ thị/ Yên ba giang thượng sử nhân sầu. Để thể hiện nỗi cô đơn, nỗi nhớ quê hương sâu sắc, đau đớn của bản thân trong khoảnh khắc hoàng hôn.
Nghệ thuật so sánh cũng là một kỹ thuật thơ phổ biến. Trong văn bản, Huy Cận sử dụng hàng loạt hình ảnh so sánh một cách linh hoạt, sắc sảo: sóng gợn so với thuyền, nắng xuống so với trời lên, sông dài so với trời rộng,… tất cả những hình ảnh so sánh đối lập đó đã phản ánh được sự mênh mông, rộng lớn của vũ trụ và sự nhỏ bé, hữu hạn của con người. Ngoài ra, hệ thống từ ngữ cũng đóng góp vào việc tạo nên không khí cổ điển cho văn bản. Huy Cận sử dụng hàng loạt từ ngữ từ đầu đến cuối bài thơ: lặng lẽ, mênh mông, chót vót, lớp lớp,… để làm rõ hơn dấu ấn của thời kỳ thi ca trong tác phẩm.
Mặc dù, mang trong mình tinh hoa của văn học cổ điển, Tràng giang vẫn là một bài thơ hiện đại. Tính hiện đại đó được thể hiện ngay trong sự kết hợp của yếu tố cổ điển trong bài thơ. Mặc dù đề tài cảm hứng là nỗi buồn nhân thế trước vẻ đẹp mênh mông của thiên nhiên, nhưng không chỉ dừng lại ở nỗi buồn chung mà đối với Huy Cận đó là nỗi buồn rất riêng, nỗi buồn cá nhân khi phải đối mặt với thời kỳ đất nước mất chủ quyền, dân tộc sống trong cảnh nô lệ, xiềng xích.
Cách sử dụng chất liệu trong bài thơ cũng thể hiện sự khéo léo của Huy Cận trong việc áp dụng bút pháp hiện đại với những hình ảnh sáng tạo, đời thực:
“Một cành củi khô lạc mấy dòng”
“Lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng”
Hình ảnh củi khô, chợ chiều, bờ xanh bãi vàng là phản ánh thực tế đời sống đầy đủ, không có sự lạm dụng từ ngữ hoa mỹ, không có nét trang trí quá mức của thơ ca mà tất cả đều là “sự sống đời thường” của cuộc sống. Có lẽ lần đầu tiên trong văn học, hình ảnh “củi” xuất hiện trong thơ, đó là điều mới mẻ, hiện thực trong thơ Huy Cận. Từ “củi” được đặt lên đầu câu để nhấn mạnh sự vô giá trị của nó, không chỉ thế, nó còn là một cành củi khô, không còn sự sống. “Lạc mấy dòng” gợi lên sự chơ vơ, không rõ ràng, mất phương hướng không biết đi đâu. Đây là số phận của con người Việt Nam, là tâm trạng bơ vơ của cái tôi Thơ Mới lạc lõng trước cuộc sống. Một bức tranh nhạt nhòa, lạc lõng, là hiện thực u ám, tối tăm của cuộc sống người Việt Nam thời kỳ đó. Đồng thời, hình ảnh cũng gợi lên một quê hương thân quen và gần gũi với mỗi người Việt Nam.
Trong cảm giác cô đơn tột bậc, Huy Cận tìm kiếm một chút hơi thở, một tiếng nói của sự sống, nhưng chỉ nhận lại: “Âm thanh xa vãn chợ chiều”. Đó là tiếng nói nhỏ, vang vọng làm cho người nghe không thể xác định được nguồn gốc của âm thanh, âm thanh tưởng chừng như làm cho bức tranh tâm trạng không còn cô đơn buồn bã, nhưng nó lại làm cho bức tranh càng thêm buồn bã, trống trải vô cùng của không gian. Trong hai câu thơ cuối, dù bị ảnh hưởng từ câu thơ của Thôi Hiệu, nhưng cảm xúc của nhân vật không bị ẩn dấu, mà được thể hiện một cách trực tiếp: “Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà”.
Ngoài ra, việc kết hợp từ ngữ mới lạ như: buồn điệp điệp, sâu chót vót đã làm tăng tính hiện đại của bài thơ. Từ “buồn” kết hợp với từ láy “điệp điệp” khiến cho nỗi buồn trở nên sâu sắc, lan rộng và kéo dài mãi mãi. Từ sâu chót vót cũng là một sáng tạo mới lạ, chót vót thường được dùng để chỉ độ cao, nhưng Huy Cận lại kết hợp nó với từ sâu, khiến cho câu thơ mở rộng ra nhiều chiều sâu khác nhau, nhấn mạnh hơn sự mênh mông của vũ trụ.
Cuối cùng, tính hiện đại được thể hiện trong hình thức thơ. Huy Cận sử dụng thể thất ngôn trường thiên, nhưng ở đây được phân chia khổ rõ ràng, khác biệt với thơ cổ, thơ thất ngôn trường thiên không chia khổ. Và con người hiện ra trong tác phẩm không bị che lấp bởi thiên nhiên mà vẫn mạnh mẽ tồn tại, thể hiện mạnh mẽ cái tôi, tình cảm của chính mình.
Tràng giang là một tác phẩm thơ đặc sắc, kết hợp hoàn hảo giữa tinh hoa của thi ca cổ điển và phong cách hiện đại của Thơ Mới. Đây không phải là sự ghép nối ngẫu nhiên mà là sự thừa kế và sáng tạo tinh tế của tác giả. Qua bài thơ này, chúng ta nhìn thấy Huy Cận với sự hiểu biết sâu rộng, lòng nhiệt huyết và trí tuệ sâu sắc. Đằng sau những dòng thơ là tình yêu quê hương sâu thẳm và sự tận tâm với đất nước.
...............
Tải file văn bản để khám phá thêm về các bài văn mẫu xuất sắc nhất