Phân tích về hình tượng người lính trong bài thơ Từ ấy và Chiều tối bao gồm dàn ý và 5 mẫu văn hay, được đánh giá cao. Bằng cách sử dụng mẫu văn này, học sinh lớp 11 có thêm nhiều gợi ý để tham khảo, cải thiện kỹ năng viết văn và đạt kết quả cao trong kỳ thi học kỳ 2 môn Ngữ văn 11.
Bài thơ Chiều tối và Từ ấy đã thành công trong việc mô tả hình tượng của những chiến sĩ cách mạng với vẻ đẹp nhân cách rực rỡ. Họ là những con người ưu tú của thời đại, sở hữu những phẩm chất cao quý, lý tưởng và mục tiêu đúng đắn, đồng thời có niềm tin vào tương lai. Để nâng cao kỹ năng viết văn, các bạn có thể tham khảo thêm một số mẫu văn khác trong chuyên mục Văn 11.
Dàn ý về hình tượng người lính trong Từ ấy và Chiều tối
1. Giới thiệu về hai tác giả và tác phẩm
– Hồ Chí Minh là một nhà lãnh đạo cách mạng vĩ đại, cũng là một nhà văn, nhà thơ lớn của dân tộc. Trong tác phẩm văn học của Người, thơ ca chiếm một vị trí đặc biệt quan trọng, đặc biệt là tập thơ “Nhật ký trong tù” viết trong những ngày Người bị giam giữ tại các nhà tù ở tỉnh Quảng Tây. Chiều tối (Mộ - 1942) là một bài thơ được trích từ tập thơ này.
– Tố Hữu là một nhà cách mạng, cũng là một nhà thơ trữ tình chính trị tiêu biểu của văn học cách mạng. Sự nghiệp cách mạng của Tố Hữu mật thiết liên quan đến sự nghiệp thơ ca của ông. Từ ấy (1938) là một bài thơ được trích từ tập thơ cùng tên, ghi lại những khoảnh khắc đặc biệt trong cuộc sống cách mạng và sự sáng tạo văn học của Tố Hữu khi nhà thơ tìm thấy lý tưởng cách mạng và hướng đi cho sự nghiệp và thơ ca của mình.
– Cả hai bài thơ đều nhấn mạnh vào việc mô tả vẻ đẹp tinh thần và lí tưởng sống cao đẹp của những người chiến sĩ cách mạng.
2. Hình tượng vĩ nhân chiến sĩ cách mạng trong bài thơ Chiều tối (Hồ Chí Minh)
– Bài thơ được sáng tác trong bối cảnh đặc biệt: khi Hồ Chí Minh đang ở Trung Quốc nhờ sự giúp đỡ của phe Đồng minh. Khi đến Quảng Tây, Người bị chính quyền của Tưởng Giới Thạch bắt giữ. Mặc dù không có bằng chứng để buộc tội, họ vẫn tìm mọi cách hành hạ Người bằng cách giam giữ Người ở các nhà lao trong hơn một năm nhằm khuất phục ý chí của người chiến sĩ cách mạng. Bài thơ này cũng giống như nhiều tác phẩm khác được viết trên hành trình từ Tĩnh Tây đến Thiên Bảo, khoảng bốn tháng sau khi Người bị bắt. Tác phẩm này là một bức chân dung chân thực của Hồ Chí Minh trong những thời điểm khó khăn nhất trên con đường cách mạng.
– Đó là một chiến sĩ cách mạng mang trong mình tâm hồn mở rộng, rộng lượng, yêu thiên nhiên núi rừng. Bức tranh của cảnh thiên nhiên chiều mở ra với sự rộng lớn, mênh mông của không gian và được vẽ bằng những nét phác họa đơn giản, với những hình ảnh đậm màu sắc cổ điển như chim bay và đám mây, mang một chút buồn vắng, cô đơn nhưng vẫn thanh thoát, ấm áp như hơi thở của cuộc sống. Bức tranh này đã tôn vinh nhân vật trữ tình là con người nhạy cảm, tinh tế, đam mê thiên nhiên hơn cả những khó khăn trong tù đày.
– Đó cũng là một chiến sĩ cách mạng có trái tim nhân ái, rộng lượng, đầy tình yêu thương, quan tâm và chia sẻ với người lao động, một tâm hồn luôn hướng về sự sống và ánh sáng. Dù phải sống trong bóng tối, con người đã quên đi nỗi vất vả của chính mình, chỉ để chăm sóc cho cô gái lao động ở xóm núi xay ngô và nung than đỏ để chia sẻ, chăm sóc, ấm áp và lan tỏa niềm vui lao động của con người.
– Phong cách viết tả chân dung của chiến sĩ cách mạng: là một phong cách miêu tả, với những hình ảnh sặc sỡ màu sắc cổ điển nhưng vẫn đầy tinh thần hiện đại. Vẻ đẹp của chiến sĩ cách mạng hiện lên qua bức tranh thiên nhiên và bức tranh về cuộc sống lao động của con người. Đó là một con người thanh bình, hòa hợp với thiên nhiên nhưng vẫn luôn kiểm soát hoàn cảnh, hướng về con người, sự sống và ánh sáng, sự kết hợp giữa tinh thần thi sĩ và tinh thần chiến sĩ.
3. Hình tượng người chiến sĩ cách mạng trong bài thơ Từ ấy (Tố Hữu)
– Bài thơ được viết trong một thời điểm quan trọng trong sự nghiệp và nghệ thuật của Tố Hữu. Sau khi gia nhập Đảng Cộng sản và tham gia vào hàng ngũ của những người cách mạng chiến đấu cho một ý tưởng chung, ông đã sáng tác bài thơ này. Đặt trong bối cảnh đó, bài thơ đã thể hiện tình yêu, sự hâm mộ của Tố Hữu dành cho lí tưởng cách mạng và cuộc sống cao quý, tạo nên hình tượng đẹp của người chiến sĩ trong bài thơ.
– Đó là một người có tình yêu, đam mê mãnh liệt với lí tưởng cộng sản. Lí tưởng như ánh nắng chiếu rực lửa, như mặt trời chiếu sáng, là nguồn sáng soi đường dẫn đến chân lý, công bằng, niềm tin và hy vọng. Lí tưởng còn là nguồn sống mới, mang lại cảm xúc mới, năng lượng mới cho nghệ thuật thơ của người chiến sĩ.
– Đó là một chiến sĩ sống cao đẹp, có lòng nhân đạo. Từ khi ông nhận ra lí tưởng, ông biết rằng cuộc sống và nghệ thuật thơ của mình không chỉ thuộc về bản thân mình nữa mà còn thuộc về cộng đồng lao động và cuộc chiến đấu chung của dân tộc. Ông tự nguyện gắn bó với cuộc sống để tạo ra sức mạnh đoàn kết, chiến đấu cho một mục tiêu cao cả.
– Bút pháp khắc hoạ: được thể hiện thông qua cách miêu tả trực tiếp bằng cảm xúc của nhân vật khi nhìn thấy ánh sáng của lí tưởng hoặc khi thề quyết tâm chiến đấu cho lí tưởng chung. Bài thơ là hình ảnh của một chiến sĩ không trốn tránh cuộc sống, mà ngược lại, sống với trách nhiệm, yêu thương và đam mê với lí tưởng cộng sản.
4. Điểm tương đồng và khác biệt trong hình tượng người chiến sĩ trong hai bài thơ
d1. Điểm tương đồng: cả hai bài thơ đều tập trung vào việc miêu tả hình ảnh của người chiến sĩ cách mạng, những con người xuất sắc nhất trong lịch sử dân tộc, có tâm hồn cao quý, lí tưởng nhân đạo, và sự kết hợp giữa thi sĩ và chiến sĩ trong tâm hồn của họ.
d 2. Điểm khác biệt:
– Trong “Chiều tối”, người chiến sĩ thể hiện tình yêu thiên nhiên sâu sắc, gắn bó chặt chẽ với cuộc sống, luôn hướng về sự sống và ánh sáng ngay cả khi đối mặt với những thử thách khó khăn nhất trong cuộc đời cách mạng. Tâm hồn đẹp được miêu tả qua những hình ảnh sắc nét, phong cách cổ điển.
– Trong “Từ ấy”, người chiến sĩ thể hiện tình yêu mãnh liệt với ý tưởng, sống cao quý, sẵn lòng hy sinh cho cuộc đấu tranh của dân tộc. Nhân vật được miêu tả trực tiếp qua những hình thơ trẻ trung, nhiệt huyết.
Hình tượng người chiến sĩ trong Từ ấy và Chiều tối - Mẫu 1
Liên kết với tư tưởng của Hồ Chí Minh trong bài thơ Chiều tối, bài thơ Từ ấy của Tố Hữu cũng là một tác phẩm đầy nhiệt huyết, đam mê, hướng về cuộc sống và lí tưởng cách mạng để hy sinh cho những ý nghĩa cao cả.
Từ ấy không chỉ là kỉ niệm mà còn là sự tiếp diễn của cảm xúc, ý nguyện, và ước mơ cao cả. Đó là một dấu mốc quan trọng trong hành trình cách mạng và sự nghiệp sáng tác của nhà thơ Tố Hữu, một người thanh niên chiến sĩ và nhà thơ cộng sản trẻ tuổi.
Cốt truyện của bài thơ là tình cảm chân thành của sự hồi tưởng về một kỉ niệm đã thay đổi cuộc đời của một chiến sĩ, một nghệ sĩ.
Trong “Từ ấy”, chúng ta được trải nghiệm một cảm giác nghệ thuật mới mẻ dưới ánh sáng của cách mạng. Tâm hồn trẻ trung nhận lên nhiều lần khi tiếp nhận lí tưởng cách mạng và gắn bó chặt chẽ với nhân dân.
Bài thơ đẹp vì nó chân thực phản ánh những trải nghiệm đầu tiên của nhà thơ trong cuộc đời cách mạng và sự gắn bó của anh với nhân dân.
Cảm động của những dòng thơ đến từ sự thân thiết và trách nhiệm đối với nhân dân, là sự gắn bó chặt chẽ và yêu quý tất cả như một phần của cơ thể sống tràn đầy sinh lực, tựa như một phần của nhân dân.
Đó là sự trân trọng và khiêm nhường của nhà thơ đối với quần chúng, cũng như nhận thức về vai trò và sức mạnh của quần chúng cách mạng. Trong bài thơ 'Chiều tối', hình ảnh của người thôn nữ xay ngô bên lò than rực hồng mang lại sự ấm áp cho cuộc sống vùng sơn cước buổi hoàng hôn.
Ở phía sau bức tranh đó, có hình ảnh của một người tù, một người chiến sĩ nhìn nhận hiện thực một cách sống động, tạo nên sự tươi sáng, lạc quan trong bức tranh chiều tối, gợi lên niềm vui vào lao động, vào đấu tranh, và vào ngày mai tươi sáng.
Trong thời kỳ kháng chiến, hình ảnh người chiến sĩ đã được khắc họa chân thực trong văn học, đặc biệt trong các tác phẩm 'Chiều tối' của Hồ Chí Minh và 'Từ ấy' của Tố Hữu.
Bài thơ 'Chiều tối' được rút ra từ tập 'Nhật kí trong tù' và phản ánh những trải nghiệm đặc biệt của Hồ Chí Minh trong cuộc đời cách mạng.
Bài thơ 'Chiều tối' được viết dưới hoàn cảnh đặc biệt, phác họa không chỉ bức tranh thiên nhiên mà còn chân dung của người chiến sĩ trên con đường cách mạng.
Trong bài thơ, người chiến sĩ hiện ra là người có lòng yêu thiên nhiên, tâm hồn rộng mở, phóng khoáng. Trên đường từ nhà lao này sang nhà lao khác, là một cuộc hành trình đầy gian khổ, mệt mỏi, nhưng tâm hồn, tình yêu thiên nhiên của Bác vẫn không bị dập tắt. Trước cảnh hoàng hôn đẹp đẽ ở rừng núi, Người vẫn dành thời gian để cảm nhận đầy đủ vẻ đẹp của thiên nhiên:
'Quyện điểu quy lầm tầm túc thụ, Cô vân mạn mạn độ thiên không.'
Người đã rất tinh tế, nhạy cảm bắt được khoảnh khắc chú chim nhỏ bay về rừng tìm nơi nghỉ sau một ngày kiếm ăn vất vả. Những đám mây lặng lẽ trôi về phía cuối trời. Bức tranh mang đậm nét cổ điển, với những đường nét đơn giản, nhưng đủ để cảm nhận được tinh thần của sự vật.
Không chỉ vậy, người chiến sĩ còn mang trong lòng tấm lòng nhân đạo sâu sắc: 'Sơn thôn thiếu nữ ma bao túc, Bao túc ma hoàn lô dĩ hồng.' Mặc dù chịu nhiều cực khổ về thể xác và tinh thần, nhưng Bác vẫn quan tâm, chia sẻ với những người lao động. Hình ảnh người thiếu nữ say mê xay ngô vào buổi tối, vừa thể hiện sức khỏe, sự sống động, vừa cho thấy lòng quan tâm của Bác đối với tất cả mọi người. Bác chia sẻ niềm vui với cuộc sống bình dị của con người ở đây. Ngoài ra, người chiến sĩ luôn hướng về ánh sáng, hướng về tương lai tươi sáng. Trong không gian yên bình của đêm tối, khi bóng tối bao phủ, ánh sáng của viên than rực hồng làm sáng bức tranh u tối. Thơ Bác thể hiện tâm hồn lạc quan, luôn hướng về tương lai.
Để miêu tả người chiến sĩ cách mạng, Bác sử dụng bút pháp gợi tả, kết hợp giữa cổ điển và hiện đại. Người chiến sĩ hiện ra là một con người yêu thiên nhiên, lòng nhân đạo rộng lớn, luôn hướng về tương lai tươi sáng. Người có sự hòa hợp, dung hòa với thiên nhiên, nhưng vẫn là chủ nhân của bức tranh ấy.
Người chiến sĩ trong bài Từ ấy lại hiện ra với những nét đẹp riêng biệt, không lẫn vào đâu được. Từ ấy được viết vào năm 1938 khi Tố Hữu trở thành Đảng viên. Bài thơ đó là một bản ca đầy nhiệt huyết, say mê của người chiến sĩ cách mạng.
Người chiến sĩ trước hết là người có tình yêu, đam mê mãnh liệt với lý tưởng cách mạng. Ngày được kết nạp Đảng là mốc son sáng chói trong cuộc sống của ông: “Từ ấy trong tôi bừng nắng hạ/ Mặt trời chói chang qua lòng/ Hồn tôi là một vườn hoa lá/ Rất đậm hương và rộn tiếng chim”. Khi được kết nạp, Đảng đã sưởi ấm tâm hồn, giúp người chiến sĩ tìm thấy lối đi chân lý mà ông đã tìm kiếm suốt thời gian dài. Khoảnh khắc đó mang lại cho tôi những cảm xúc mới mẻ, tràn đầy sức sống, làm thức tỉnh phẩm chất nghệ sĩ trong tâm hồn của người chiến sĩ.
Vẻ đẹp của người chiến sĩ còn phản ánh qua cuộc sống cao đẹp, sự hy sinh cho sự nghiệp cách mạng. Cá nhân không còn tự do, độc lập mà hòa nhập, kết nối với mọi người: “Tôi buộc hồn tôi với mọi người/ Để tình trạng đồng lòng với khắp nơi”. Tâm hồn của người chiến sĩ gắn bó với quần chúng, sẵn lòng hy sinh tuổi trẻ, tính mạng cho mọi người. Đó là tinh thần hòa nhập, trách nhiệm của một Đảng viên. Sức mạnh của sự hòa nhập đó tạo ra một khối đời to lớn, mạnh mẽ. Khối đời là cuộc sống chung, rộng lớn, không thể đong đếm. Nhưng được Tố Hữu kết hợp với từ “khối” đã làm cho nó trở nên rõ ràng, hiểu được. Người chiến sĩ hòa nhập vào gia đình lớn của quần chúng lao động và nhận thức được trách nhiệm của bản thân để giúp đỡ những cuộc đời khó khăn. Đó là một ý thức, một trách nhiệm với con người, cuộc sống, với cuộc chiến chính nghĩa của dân tộc.
Chân dung người chiến sĩ trong bài Từ ấy chủ yếu được miêu tả qua những cung bậc cảm xúc, sự thay đổi trong nhận thức của nhân vật trung thành. Đó là tinh thần hăng hái, nhiệt huyết, sống cuộc sống đầy trách nhiệm với cách mạng, với cuộc sống.
Chiều tối và Từ ấy đều đã thành công trong việc vẽ nên chân dung của người chiến sĩ cách mạng với vẻ đẹp nhân cách rạng ngời. Họ là những con người ưu tú của thời đại, mang trong mình những phẩm chất cao quý, lý tưởng, mục tiêu chính xác, tin vào tương lai của cuộc chiến đấu công bằng của dân tộc.
Ngoài những điểm tương đồng, hai bài thơ vẫn có những khác biệt, thể hiện phong cách riêng của hai tác giả. Trong bài Chiều tối, người chiến sĩ hiện ra với tâm hồn mở rộng, lòng yêu thiên nhiên, gắn bó sâu sắc với cuộc sống. Tâm hồn người chiến sĩ luôn tìm kiếm và hướng về ánh sáng dù có nhiều khó khăn, thử thách. Vẻ đẹp tâm hồn vừa cổ điển, vừa hiện đại. Còn với Từ ấy, tâm hồn của người chiến sĩ là say mê, nhiệt huyết với lí tưởng cách mạng. Lối sống cao đẹp, có ý thức trách nhiệm với cuộc sống chung. Tình cảm của nhân vật được thể hiện một cách trực tiếp.
Bằng những câu thơ chân thành, tinh tế, cả hai bài thơ đã xây dựng nên bức chân dung đẹp đẽ về tinh thần, nhân cách của những người chiến sĩ. Mỗi người mang trong mình những vẻ đẹp riêng, làm phong phú thêm bức tranh tâm hồn của người chiến sĩ. Nhưng đồng thời ở họ còn tỏa sáng vẻ đẹp chung đó là lòng yêu nước nồng nàn.
Hình tượng người chiến sĩ trong Từ ấy và Chiều tối - Mẫu 3
Hồ Chí Minh và Tố Hữu là hai nhà thơ cách mạng lớn của văn học Việt Nam thế kỷ 20. Gặp gỡ trong cảm hứng thi ca cách mạng, bài thơ Chiều tối của Hồ Chí Minh và Từ ấy của Tố Hữu đã rõ ràng vẽ nên hình ảnh của người chiến sĩ cách mạng bước đi trong những ngày giam giữ nhưng vẫn kiêng nhẫn, tràn đầy sức sống, lạc quan, yêu đời, hướng về tương lai. Họ là những người chiến sĩ kiên cường, bất khuất, giàu lòng yêu thương, sẵn sàng hy sinh vì lý tưởng cách mạng và sự nghiệp giải phóng dân tộc. Cả hai bài thơ đều nhằm mục đích khắc họa vẻ đẹp trong tâm hồn và lý tưởng sống cao đẹp của người chiến sĩ cách mạng.
Hồ Chí Minh là một nhà cách mạng vĩ đại của dân tộc, đồng thời cũng là một nhà thơ, nhà văn lớn. Sự nghiệp sáng tác của Người rất đa dạng và phong phú ở nhiều thể loại với nhiều tác phẩm có giá trị. Trong đó có tập Nhật kí trong tù. Tập thơ này được sáng tác từ mùa thu 1942 đến mùa thu 1943 gồm 134 bài thơ bằng chữ Hán, khi tác giả bị giam giữ trong nhà tù của Tưởng Giới Thạch (Trung Quốc). Chiều tối (Mộ) là bài thơ thứ 31 của tập Nhật kí trong tù. Bài thơ này thể hiện rõ vẻ đẹp của người chiến sĩ cách mạng Hồ Chí Minh.
Tố Hữu cũng là một nhà thơ vĩ đại, là người tiên phong của thơ cách mạng Việt Nam. Đối với Tố Hữu, con đường của thơ luôn đi kèm với con đường của cách mạng. Thơ của Tố Hữu là sự kết hợp giữa tình cảm và chính trị. Các sự kiện quan trọng trong cuộc sống chính trị của chính ông, của dân tộc đã trở thành nguồn cảm hứng cho thơ của ông, đặc biệt là trong bài thơ “Từ ấy”. Tố Hữu viết bài thơ này vào tháng 7 năm 1938 khi ông được gia nhập Đảng. Điều này có thể coi như một lời cam kết, quyết tâm chiến đấu vì lý tưởng cách mạng của người chiến sĩ trẻ tuổi.
Hình tượng của người chiến sĩ cách mạng trong bài thơ Chiều tối của Hồ Chí Minh.
Bài thơ Chiều tối được sáng tác trong tình hình đặc biệt: khi Người đang trên đường chuyển từ nhà lao Tĩnh Tây sang nhà lao Thiên Bảo, vào khoảng bốn tháng sau khi Người bị bắt. Tác phẩm này là bức chân dung tự họa của một con người bị giam giữ, người chiến sĩ Hồ Chí Minh, trong những thời điểm khó khăn nhất trên con đường cách mạng. Đó là hình ảnh của một người chiến sĩ cách mạng với tâm hồn mở rộng, rộng lượng, yêu thiên nhiên và đón nhận vẻ đẹp của cảnh vật núi rừng:
Chim mỏi về rừng tìm chốn ngủ
Chòm mây trôi nhẹ giữa tầng không
Bức tranh thiên nhiên của buổi chiều được mô tả ở mọi chiều cao, chiều rộng của không gian và được vẽ bằng những nét vẽ đơn giản, với những hình ảnh rõ ràng và sắc nét như: “cánh chim” và “chòm mây”, mang một chút cảm giác cô đơn, u buồn nhưng vẫn thanh thoát, ấm áp, phản ánh sự sống.
Thông qua bức tranh thiên nhiên đó, chúng ta thấy nhân vật trong bài thơ là một con người nhạy cảm, tinh tế, yêu thiên nhiên một cách nồng nàn, vượt lên trên hoàn cảnh khắc nghiệt. Dù đang bị còng tay, chân bị xiềng xích, thân thể mệt mỏi sau một ngày lao động nhưng người tù - người chiến sĩ Hồ Chí Minh vẫn quên mọi khó khăn của bản thân để nhìn lên theo một con chim chiều về tổ, một đám mây trôi nhẹ trên bầu trời.
Đó là một người chiến sĩ mang trong mình tấm lòng nhân đạo, bao la, yêu thương và quan tâm chia sẻ với con người lao động, một tâm hồn luôn hướng về sự sống và ánh sáng:
Cô em ở xóm núi xay ngô trong bóng tối
Xay hết lò than đã rực hồng
Dù vẫn phải tiếp tục chuyển lao trong cảnh trời tối, giá lạnh nơi miền sơn cước, nhưng người chiến sĩ đó đã quên đi nỗi nhọc nhằn của mình, hướng về cuộc sống của người lao động với cô gái trẻ trong xóm núi đang xay ngô và lò than rực hồng để cảm thông, chia sẻ, ấm áp, và lan tỏa niềm vui lao động của con người.
Vẻ đẹp của người chiến sĩ cách mạng được thể hiện qua bức tranh cảnh vật thiên nhiên và bức tranh sinh hoạt lao động của con người. Đó là con người ung dung, hoà hợp với thiên nhiên nhưng vẫn luôn trong tư thế làm chủ hoàn cảnh, hướng về con người, sự sống và ánh sáng, kết hợp giữa chất thi sĩ và chất chiến sĩ. Đó là người chiến sĩ cách mạng có tâm hồn rộng mở, phóng khoáng, đón nhận vẻ đẹp của cảnh thiên nhiên núi rừng. Bức tranh thiên nhiên cảnh chiều mở ra ở cả chiều cao, chiều rộng của không gian và được vẽ bằng những nét phác họa đơn sơ, với những hình ảnh đậm đà sắc màu cổ điển như cánh chim và chòm mây, có chút buồn vắng, quạnh hiu những vẫn thanh thoát, ấm áp hơi thể sự sống. Bức tranh thiên nhiên đã nói lên nhân vật trữ tình là con người tinh tế, nhạy cảm, yêu thiên nhiên tha thiết vượt lên trên cảnh ngộ tù đày. Đó cũng là người chiến sĩ mang trong mình tấm lòng nhân đạo, bao la, yêu thương, quan tâm chia sẻ với con người lao động, một tâm hồn luôn hướng về sự sống và ánh sáng. Dù vẫn phải tiếp tục chuyển lao trong cảnh trời tối, người đó đã quên đi nỗi nhọc nhằn của mình, hướng về cô gái nhỏ lao động nơi xóm núi xay ngô và lò than rực hồng đã đỏ để cảm thông, chia sẻ, ấm áp, và lan tỏa niềm vui lao động của con người.
Bút pháp khắc hoạ chân dung người chiến sĩ cách mạng: là bút pháp gợi tả, những hình ảnh đậm đà màu sắc cổ điển nhưng vẫn thấm đẫm tinh thần hiện đại. Vẻ đẹp của người chiến sĩ cách mạng được thể hiện qua bức tranh cảnh vật thiên nhiên và bức tranh sinh hoạt lao động của con người. Đó là con người ung dung, hoà hợp với thiên nhiên nhưng vẫn luôn trong tư thế làm chủ hoàn cảnh, hướng về con người, sự sống và ánh sáng, kết hợp giữa chất thi sĩ và chất chiến sĩ.
Bài thơ Từ ấy được sáng tác đánh dấu một bước ngoặt quan trọng trong cuộc đời và sự nghiệp nghệ thuật của Tố Hữu. Khi nhà thơ gia nhập Đảng Cộng sản, đồng hành với những người cách mạng chiến đấu vì một lý tưởng chung, ông đã viết nên bài thơ này. Trong bối cảnh sáng tác đó, bài thơ đã phản ánh sự yêu thương và sự hết mình với lí tưởng cách mạng và lý tưởng sống cao đẹp, tạo nên hình ảnh đẹp của người chiến sĩ trong bài thơ.
Vào cuối những năm ba mươi của thế kỉ XX, giống như nhiều thanh niên khác, Tố Hữu đã từng:
“Băn khoăn tìm kiếm lẽ sống
Vẫn mơ mộng mãi vòng quanh
Muốn thoát ra, than ôi, bước chẳng dứt”
(Nhớ đến những người bạn)
Trong thời điểm đang bế tắc về hướng đi, nhà thơ may mắn hơn nhiều người khác khi nhanh chóng nhận ra lí tưởng của Cách mạng và trở thành một người của Đảng. Niềm vui, sự hứng khởi mạnh mẽ trong những khoảnh khắc quyết định bước ngoặt của cuộc đời và sự nghiệp được Tố Hữu thể hiện chân thành trong những dòng thơ đầu tiên của bài thơ:
Từ ấy trong lòng tôi tỏa sáng như nắng hạ
Mặt trời của lẽ phải chói qua tâm hồn
Hồn tôi như một vườn hoa xanh tươi
Đầy hương thơm và vang vọng tiếng chim hót
Lí tưởng chính là ánh nắng hạ rực rỡ, là mặt trời chiếu sáng, chiếu sáng giúp nhà thơ nhận ra con đường đến với lẽ phải, công bằng, niềm tin, hi vọng. Lí tưởng cũng là nguồn sống mới, là đường chỉ dẫn, mang đến cảm xúc mới, sức sống mới cho nghệ thuật, thơ ca của những người chiến sĩ.
Không chỉ có tình yêu, niềm say mê mãnh liệt với lí tưởng Cộng sản, người chiến sĩ trong bài thơ Từ ấy còn là những người có tâm hồn nhân đạo cao đẹp. Họ từ khi nhận ra lí tưởng, ý thức rằng cuộc sống và nghệ thuật thơ của họ không còn là của riêng họ nữa mà là của cộng đồng và cuộc đấu tranh chung của dân tộc:
Tôi cam kết lòng mình với mọi người
Để chia sẻ cùng mọi nỗi khó
Để hồn tôi gắn kết với bao nỗi khổ đau
Gần gũi nhau, chúng ta mạnh mẽ hơn trong cuộc sống.
Người chiến sĩ đã tự nguyện gắn bó cái 'tôi' nhỏ bé của mình với cuộc sống để tạo ra sức mạnh đoàn kết, chiến đấu. Họ cũng ý thức rằng họ sẽ là thành viên chân thành trong gia đình cách mạng của những người lao động, bị áp bức, chiến đấu vì một lý tưởng cao đẹp. Nhà thơ tự nhận mình là 'con', 'em', 'anh' trong gia đình đó.
Hình tượng người chiến sĩ trong bài thơ Từ ấy được vẽ nên thông qua cách miêu tả trực tiếp bằng những cảm nhận của nhân vật trung thực khi gặp ánh sáng của lí tưởng, hoặc những lời ước nguyện, lời thề quyết tâm chiến đấu vì lí tưởng chung.
Đó là con người có tình yêu, niềm đam mê mãnh liệt với lí tưởng cộng sản. Lí tưởng chính là ánh nắng hạ rực rỡ, là mặt trời chói sáng, soi rọi giúp cho nhà thơ nhận ra con đường đến với chân lí, lẽ phải, công bằng, niềm tin, hi vọng. Lí tưởng cũng là nguồn sống mới, là đường chỉ dẫn, mang đến cảm xúc mới, sức sống mới cho nghệ thuật thơ ca của người chiến sĩ.
Đó là những người chiến sĩ có lẽ sống nhân đạo cao đẹp. Họ từ khi nhận ra lí tưởng, ý thức rằng cuộc sống và nghệ thuật thơ của họ không còn là của riêng họ nữa mà thuộc về quần chúng cần lao và cuộc đấu tranh chung của dân tộc. Họ đã tự nguyện gắn kết cái “tôi” nhỏ bé của mình với cuộc đời để tạo ra sức mạnh đoàn kết, tranh đấu. Người chiến sĩ cũng ý thức rằng mình sẽ là một thành viên ruột thịt trong gia đình cách mạng của những người lao động, bị áp bức, chiến đấu vì một lí tưởng cao đẹp.
Bút pháp khắc hoạ: được vẽ nên thông qua cách miêu tả trực tiếp bằng những cảm nhận của nhân vật trung thực khi gặp ánh sáng của lí tưởng hoặc những lời ước nguyện, lời thề quyết tâm chiến đấu vì lí tưởng chung. Bài thơ làm hiện lên chân dung của một cái “tôi” chiến sĩ không khác biệt, không trốn tránh cuộc đời như cái “tôi” thơ mới. Chúng trẻ trung, hăm hở, nhiệt huyết, tràn đầy tình yêu, niềm đam mê với lí tưởng cộng sản, sống có trách nhiệm với cuộc đời, với nhân dân đau khổ bị áp bức, với cuộc đấu chung của dân tộc.
Bài thơ làm hiện lên chân dung của một cái “tôi” chiến sĩ không khác biệt, không trốn tránh cuộc đời như cái “tôi” thơ mới. Cái “tôi” trong bài thơ Từ ấy trẻ trung, hăm hở, nhiệt huyết, tràn đầy tình yêu, niềm đam mê với lí tưởng cộng sản, sống có trách nhiệm với cuộc đời, với nhân dân đau khổ bị áp bức, với cuộc đấu chung của dân tộc.
Hình tượng người chiến sĩ trong bài Từ ấy và bài Chiều tối đều là những người chiến sĩ nhưng mang trong mình tâm hồn của thi sĩ. Cả hai đều là những người chiến sĩ kiên cường đấu tranh vì lí tưởng trong thời đại mới, nhạy cảm trước những biến thái của cuộc sống, đầy tình yêu thương và đam mê với thiên nhiên, cuộc sống, và nhân dân.
Nhờ được trang bị với thế giới quan và nhân sinh quan Cộng sản, người chiến sĩ trong hai bài thơ cũng là những người có cái nhìn biện chứng và lạc quan đối với sự vận động của cuộc sống và cách mạng.
Trong bài thơ Chiều tối, chúng ta thấy vẻ đẹp của người chiến sĩ yêu thiên nhiên, gắn bó với cuộc sống, một tâm hồn luôn hướng về sự sống và ánh sáng ngay cả khi đối diện với những thử thách khó khăn nhất trên hành trình cách mạng. Người chiến sĩ trong bài thơ này là một bậc lão thành cách mạng, đã trải qua nhiều gian khổ trong cuộc đấu tranh, với cảm xúc thâm trầm và sâu sắc.
Trong khi đó, trong bài Từ ấy, chúng ta gặp một người chiến sĩ đầy tình yêu và niềm đam mê với ý tưởng, sẵn sàng hy sinh và dâng hiến cho cuộc đấu tranh của dân tộc. Nhân vật trong bài thơ này được mô tả bằng những hình ảnh trẻ trung, nhiệt huyết, và tươi mới, là tiếng lòng của một người chiến sĩ trẻ tuổi, lạc quan, và đầy nhiệt huyết.
Đối với thời đại, hình tượng người chiến sĩ trong bài Từ ấy và Chiều tối thể hiện tinh thần yêu nước sâu sắc, tư thế kiên định và niềm tin vững chắc vào tương lai thắng lợi của cách mạng. Do đó, hai bài thơ này không chỉ là tiếng lòng của hai nhà thơ – chiến sĩ mà còn là sự động viên to lớn cho các thế hệ người Việt đang chiến đấu cho độc lập, tự do của dân tộc và hạnh phúc cho nhân dân.
Cho đến thời điểm hiện tại, mặc dù đã gần 80 năm kể từ khi hai bài thơ này được sáng tác, nhưng khi đọc lại chúng, những hình ảnh tươi sáng của thơ, giọng điệu đầy nhiệt huyết và đặc biệt là hình ảnh của người chiến sĩ cách mạng kiên cường, đầy tình yêu thương sẽ luôn là nguồn động viên tinh thần to lớn cho các thế hệ trẻ Việt Nam ngày nay và trong tương lai.
Bằng những từ ngữ chân thành và tinh tế, cả bài thơ Chiều tối của Hồ Chí Minh và Từ ấy của Tố Hữu đã vẽ lên bức tranh đẹp về tinh thần và nhân cách của các chiến sĩ. Mỗi người mang trong mình một vẻ đẹp độc đáo, làm phong phú thêm bức tranh tâm hồn của người chiến sĩ, nhưng đồng thời, trong họ cũng chiếu sáng vẻ đẹp chung đó là lòng yêu nước mãnh liệt.
Hình tượng của người chiến sĩ trong Từ ấy và Chiều tối - Mẫu 4
Trong bối cảnh đất nước bị xâm lăng, dân tộc bị đàn áp, người chiến sĩ cộng sản cùng với nhân dân đã tạo ra sức mạnh để đánh bại kẻ thù. Họ không chỉ xuất hiện trên chiến trường mà còn được các nhà văn, nhà thơ miêu tả trong văn học. Hai bài thơ “Chiều tối” của Hồ Chí Minh và “Từ ấy” của Tố Hữu là ví dụ điển hình cho hình ảnh của người chiến sĩ Việt Nam, với tình yêu quê hương, lòng yêu thương con người và niềm tin vào cách mạng.
Chủ tịch Hồ Chí Minh là một trong những người chiến sĩ cộng sản hàng đầu của Đông Dương. Ông đã sâu sắc thấm nhuần chủ nghĩa Mác-Lênin và áp dụng nó vào thực tiễn cách mạng của Việt Nam. Bài thơ “Chiều tối” là sản phẩm thơ thứ 31 trong tập thơ “Nhật ký trong tù” của Bác, được viết khi ông bị chính quyền Tưởng Giới Thạch giam giữ trái phép trong suốt 13 tháng. Bài thơ được sáng tác khi Bác bị chuyển từ nhà tù Tĩnh Tây sang nhà tù Thiên Bảo, cảm hứng từ bầu trời chiều tà cùng với tâm hồn thi sĩ đã tạo nên một bức tranh tuyệt đẹp về thiên nhiên và con người.
Tố Hữu cũng là một chiến sĩ cách mạng thuộc thế hệ sau Hồ Chí Minh, nhưng giữa hai con người đó, họ chia sẻ cùng một lí tưởng cộng sản. Chính Bác và Đảng là nguồn sáng soi đường cho các trí thức trẻ như Tố Hữu, khi ông 'Băn khoăn đi kiếm lẽ yêu đời' và gặp ánh sáng từ Đảng. Bài thơ 'Từ ấy' đánh dấu một cột mốc quan trọng trong cuộc đời Tố Hữu vào năm 19378, khi ông chính thức gia nhập Đảng. Tác phẩm thể hiện niềm hạnh phúc, sung sướng và niềm tin của một chiến sĩ đối với Đảng và sự thay đổi trong nhận thức và tình cảm của Tố Hữu.
Hình tượng của người chiến sĩ trong hai bài thơ có những nét tương đồng và khác biệt, chúng ta hãy phân tích để hiểu rõ hơn vẻ đẹp của những con người làm nên hình ảnh đất nước. Người chiến sĩ trong 'Chiều tối' của Hồ Chí Minh là một người yêu thiên nhiên, nhạy cảm với sự biến đổi của môi trường. Dù đã mệt mỏi sau một ngày di chuyển, Bác vẫn có thể nhận biết sự thay đổi khi chiều tà xuất hiện, như cánh chim mệt mỏi trở về tổ, như đám mây đơn lẻ trôi trên bầu trời. Thông qua các hình ảnh này, Bác muốn truyền đạt mong muốn được tự do, một khát khao đặc biệt trong tâm hồn của mình. Còn người chiến sĩ trong 'Từ ấy' của Tố Hữu luôn đồng cảm với những người nghèo khổ, có trái tim nhân ái yêu thương con người. Điều này được thể hiện trong bức tranh cuộc sống nông thôn, khi một cô bé đang vất vả xay ngô từ chiều tới tối, làm sáng tỏ hình ảnh ấm cúng và đáng quý của cuộc sống đầy cố gắng. Tâm hồn yêu đời và thương người của Bác thể hiện rõ trong những dòng thơ này.
Người chiến sĩ luôn tin vào cách mạng và hướng về một tương lai tươi sáng. Đó là tư tưởng cao đẹp được thể hiện qua việc vượt qua bóng tối và nỗi buồn, hướng tới niềm vui và tương lai. Điều này thể hiện trong thơ ca của Hồ Chí Minh, khi ông mô tả một cuộc sống lao động vất vả nhưng vẫn rạng rỡ bằng tình yêu và sự đồng cảm. Tâm trạng nhẹ nhàng và lạc quan được phản ánh qua việc tả cảnh thiên nhiên và cuộc sống hàng ngày. Đó là những điều làm nên vẻ đẹp và ý nghĩa của người chiến sĩ cộng sản.
Trong bài thơ “Từ ấy”, hình tượng người chiến sĩ được Tố Hữu mô tả như thế nào? Đó là niềm vui, sự say mê khi chứng kiến ánh sáng của Đảng được so sánh như “Vườn hoa lá”, “Rất đậm hương và rộn tiếng chim”. Tố Hữu sử dụng hình ảnh “Mặt trời chân lí” để ám chỉ ánh sáng vĩnh cửu mà Đảng mang lại, với các từ ngữ mạnh mẽ “bừng” “chói” để chỉ sự bất ngờ và xuyên thấu vào tâm trí, trái tim của người lính. Lí tưởng cộng sản được ví như ánh sáng chói lòa, bất ngờ đến mức làm tan đi bóng tối trong tư duy của những ngày vô nghĩa “Băn khoăn đi kiếm lẽ yêu đời”. Trong một bài thơ khác, ông viết: “Từ vô vọng mênh mông đêm tối/Người đã đến chói chang nắng dọi/ Trong lòng tôi. Ôi Đảng thân yêu/ Sống lại rồi”. Hạnh phúc ấy thế nào” để diễn đạt lòng kính trọng đối với Đảng và Bác Hồ. Trong tư duy của Tố Hữu, chủ nghĩa Mác-Lênin và Đảng luôn là nguồn sống của lý tưởng.
Từ những niềm vui, sự sung sướng đó, tư duy của nhà thơ trải qua sự chuyển biến về nhận thức và tình cảm. Tư duy đó khác biệt so với nhân vật Hạ Du trong tác phẩm “Thuốc” của Lỗ Tấn, người phải rời xa nhân dân để rồi gánh chịu bi kịch. Trong khi đó, Tố Hữu đã hòa mình vào tinh thần cộng đồng, xác định cách mạng là sứ mệnh của mọi người, như thể hiện trong khổ thơ thứ hai: “Tôi buộc lòng tôi với mọi người/…Gần gũi nhau thêm mạnh khối đời”. Từ “buộc” thể hiện ý thức tự nguyện, tinh thần đoàn kết giữa “cá nhân” và “cộng đồng”, để tâm hồn nhà thơ mở rộng ra với cuộc sống, với nhân dân trên khắp mọi miền Tổ quốc, là trách nhiệm của mỗi người. Tố Hữu luôn gắn kết, đồng cảm và chia sẻ khổ đau, bất hạnh với những “hồn khổ” của dân tộc, thể hiện qua những tình huống khó khăn. “Khối đời” là biểu tượng cho những người chung hoàn cảnh, chung lý tưởng cách mạng, đồng thời là tinh thần đoàn kết của người Việt Nam, là nguồn sức mạnh dân tộc. Tình cảm của ông không chỉ là sự tích cực của một tầng lớp trí thức, mà còn là tình đoàn kết giữa các tầng lớp như người anh em ruột trong gia đình. Nhà thơ xác định mình là thành viên của “vạn nhà”, “Là em của vạn kiếp phôi pha/ Là anh của vạn đầu em nhỏ”. Tình cảm này thật sự chân thành và quý báu.
Phân tích hai tác phẩm, chúng ta thấy hình tượng người chiến sĩ hiện ra với những đặc điểm tương đồng. Họ đều có trái tim nhân ái, đầy tình yêu thương, luôn tin vào lý tưởng cách mạng, tin vào một tương lai tươi sáng cho dân tộc, và đều sử dụng vẻ đẹp của thiên nhiên để thể hiện tâm trạng cá nhân. Tuy nhiên, cũng có những khác biệt do tính sáng tạo cá nhân trong sáng tác. Hồ Chí Minh, như một lãnh đạo cách mạng lão lành, thể hiện tâm hồn sâu sắc và phức tạp, kết hợp giữa cổ điển và hiện đại, trong khi Tố Hữu, một trí thức trẻ mới nhận thức được lý tưởng cách mạng, thể hiện tính hiện đại và sử dụng hình ảnh sâu sắc, giàu cảm xúc đậm đà của một người yêu nước.
Hình tượng người chiến sĩ cách mạng trong hai bài thơ đều đáng kính phục với tinh thần yêu nước, lòng nhân ái và niềm tin bất diệt vào ánh sáng của Đảng. Điều này giúp em hiểu thêm về phẩm chất cách mạng của người chiến sĩ, là điều mà em nên học tập và theo đuổi. Tuy nhiên, trong xã hội hiện nay, một số nhỏ chiến sĩ quân đội, công an_những “Con sâu làm rầu nồi canh”, đang làm tổn hại hình ảnh của những người chiến sĩ. Mong rằng Đảng và nhà nước luôn trong sạch, mạnh mẽ để dẫn dắt nhân dân xây dựng đất nước ngày càng tốt đẹp hơn.
Hình tượng người chiến sĩ trong bài thơ “Chiều tối” của Hồ Chí Minh và “Từ ấy” của Tố Hữu đã thắp sáng tinh thần cách mạng, vẻ đẹp của những con người đã góp phần làm nên hình ảnh đất nước. Hình tượng đó sẽ mãi sống trong tâm trí của người dân Việt Nam.
Hình tượng người chiến sĩ trong bài Từ ấy và Chiều tối - Mẫu 5
Hồ Chí Minh, người lãnh đạo vĩ đại, không chỉ xuất sắc trong lĩnh vực chính trị và quân sự mà còn để lại một di sản thơ ca phong phú. Nhật ký trong tù là một trong những tác phẩm thơ nổi tiếng của Người, với tâm trạng sâu lắng của người chiến sĩ trong những thời điểm khó khăn nhất. Một nhà văn khác, Tố Hữu, cũng là một nhà thơ cách mạng xuất sắc, với những tác phẩm thơ đầy tinh thần cách mạng, phục vụ cho sự nghiệp cách mạng. Từ ấy, một trong những tác phẩm nổi bật nhất của ông, kể về sự khởi đầu của người chiến sĩ trẻ với ước mơ và lý tưởng cách mạng. Mặc dù viết trong hoàn cảnh khác nhau, nhưng mỗi bài thơ về người chiến sĩ lại mang một phong cách riêng, tiêu biểu cho cá tính của từng tác giả.
Chiều tối là một tác phẩm ra đời trong hoàn cảnh đặc biệt, khi Hồ Chí Minh bị bắt và giam giữ tại Trung Quốc trước khi được chuyển qua hơn 30 nhà tù Tưởng Giới Thạch. Mặc dù phải chịu đựng sự giam giữ, cô đơn và mệt mỏi, nhưng tâm hồn của Người vẫn luôn lạc quan, yêu đời và trung thành với cách mạng. Trong bức tranh của buổi chiều tối, Người vẫn nhận ra vẻ đẹp tinh tế của thiên nhiên và tình người, một cách sâu lắng và cảm xúc.
“Bình minh rồi trải lòng thiên nhiên
Mây trắng nhẹ nhàng phủ khung trời”
Dịch thơ:
“Chim mệt về rừng tìm nơi an giấc
Đám mây nhẹ trôi giữa bầu trời cao vút”
Với các yếu tố quen thuộc trong thi ca cổ điển như cánh chim lúc chiều hay đám mây trôi trên bầu trời, Hồ Chí Minh đã mô phỏng một cảnh tối u ám và cô đơn, dễ làm cho người ta cảm thấy buồn bã, đặc biệt là khi gặp phải những hoàn cảnh khó khăn. Tuy nhiên, Hồ Chí Minh không phải là một nhà thơ cổ điển, Người chỉ sử dụng những yếu tố đó và hiện đại hóa chúng để làm cho thơ của mình phong phú hơn. Với tâm hồn của một người bị giam giữ chính trị, không chỉ nhìn thấy con chim mà còn cảm nhận được sự di chuyển, trạng thái của nó. Đó là một con chim mệt mỏi trở về rừng tìm chỗ nghỉ ngơi, tìm về mái ấm, tổ ấm thân thương của nó sau một ngày làm việc vất vả, và nhà thơ cũng tìm thấy một mối liên hệ sâu sắc giữa mình và con chim đó. Bác cũng đang trải qua cảnh mệt mỏi, rã rời sau một ngày làm việc vất vả. Chính vì vậy, với tâm hồn nhân từ và thấu hiểu, Người không nhìn con chim bằng góc nhìn của một người cổ điển, nghĩ rằng con chim đó cô đơn và lạc lõng, mà thay vào đó, Người khéo léo hướng dẫn nó tìm về mái ấm, gia đình. Từ đó, chúng ta có thể hiểu rõ hơn nỗi lòng của tác giả, sự buồn bã của một người con xa quê, luôn mong ước có một ngày được trở về với quê hương, mặc dù điều đó còn khá xa xôi. Bác Hồ đặt hy vọng vào con chim, tin rằng từ quá khứ đến hiện tại, con chim cuối cùng cũng sẽ tìm được nơi an ủi, và tương tự, người chiến sĩ cách mạng cũng sẽ có được ngày hạnh phúc ấy. Với hình ảnh của đám mây, trong văn học cổ điển, thường được sử dụng để biểu đạt ước mơ của con người được tự do, trốn thoát khỏi cuộc sống hằn buồn, cùng với những cảm xúc sâu lắng trước thiên nhiên vô tận. Tuy nhiên, trong thơ của Hồ Chí Minh, đám mây trở nên hiện đại và vật chất hơn, Người sử dụng chúng để diễn tả tinh thần lạc quan, yêu đời và yêu thiên nhiên của mình. Trong bức tranh của những ngày giam giữ, gông xiềng, nhưng nhà thơ vẫn cảm nhận được sự tự do, thoải mái của đám mây trên bầu trời buổi tối, mở ra một khung cảnh mở rộng và thanh thoát giữa cảnh núi rừng bao la. Có thể nói rằng hiếm có ai có thể cảm nhận được như Bác, trước cảnh khốn khổ, mệt mỏi nhưng vẫn giữ tinh thần lạc quan, thưởng thức vẻ đẹp của thiên nhiên, từ con chim bay qua đến đám mây lửng lờ trên bầu trời, và gắn những cảm xúc tích cực cho chúng. Tuy nhiên, trong cách nhìn và diễn đạt về đám mây, Người cũng bộc lộ nỗi buồn bã, sự cô đơn trên đất xa quê, niềm mong ước được trở về càng thêm sâu sắc. Tuy nhiên, đó không phải là những cảm xúc tuyệt vọng, mà thay vào đó, đó là những tình cảm mà bất kỳ ai cũng có, và với Bác, đó trở thành động lực để Người phấn đấu thoát khỏi gông xiềng, quay trở lại phục vụ Tổ quốc và nhân dân.
“Sơn thôn thiếu nữ ma bao túc
Bao túc ma hoàn lô dĩ hồng”
Dịch thơ:
“Cô gái ở làng quê xay ngô vào buổi tối
Khi lò than đã sáng rực”
Trong hai câu thơ tiếp, từ bức tranh thiên nhiên vô cùng rộng lớn, ánh mắt Người đã nhìn thấy một bức tranh về lao động đầy sức sống của con người giữa rừng già, điều đó đã làm cho toàn bộ bài thơ trở nên ấm áp và đậm chất nhân văn hơn. Đồng thời, qua đó, vẻ đẹp tinh thần của người chiến sĩ cách mạng lại được bộc lộ rõ hơn ở nhiều khía cạnh khác nhau. Với hình ảnh xay ngô vào buổi tối, một công việc rất bình thường, nhưng trong thơ của Hồ Chí Minh, chúng ta thấy được những vẻ đẹp nghệ thuật, từ công việc lao động vất vả, mệt nhọc, ta nhận ra sự sung túc, tính chăm chỉ và kiên trì của tuổi trẻ trong lao động. Đặc biệt, hình ảnh “cô gái ở làng quê” xay ngô là một hình ảnh hiện đại và ý nghĩa, phụ nữ ngày nay trở nên mạnh mẽ, tham gia vào các công việc mà trước đây thường thuộc về nam giới, thể hiện sự bình đẳng của con người trong xã hội, sức mạnh tiềm ẩn, khả năng tự lập trong cuộc sống hàng ngày. Bên cạnh đó, hình ảnh cô gái xay ngô cũng thể hiện quan điểm thẩm mỹ mới mẻ, hiện đại trong thơ của Hồ Chí Minh, khi con người trong lao động trở thành trung tâm, điểm nhấn nổi bật giữa cảnh núi rừng bao la, biến một khung cảnh trước đây lạnh lẽo trở nên sôi động và ấm áp. Con người lao động trở thành trung tâm, là điểm nhấn đặc biệt, khác biệt hoàn toàn so với hình ảnh con người trong thơ cổ điển, luôn bị mờ nhạt, ảm đạm bởi sức mạnh của thiên nhiên, sự che lấp. Sự biến đổi và sáng tạo mới trong thơ của Hồ Chí Minh đã tiết lộ lòng yêu thương, gắn bó với cuộc sống lao động của nhân dân, sự tinh tế trong việc cảm nhận vẻ đẹp của con người bình thường. Khung cảnh lao động hàng ngày, gian khổ đã khiến Người quên đi những nỗi buồn, mệt mỏi để cùng vui vẻ với sự tự do, dồn tâm trí vào những vẻ đẹp tiềm ẩn của con người trong cuộc sống hàng ngày của nhân dân. Trong câu thơ cuối cùng “Ma túc bao hoàn lô dĩ hồng”, từ “hồng” được coi là chìa khóa của bài thơ, vừa đánh dấu sự thay đổi của thiên nhiên từ chiều tối sang đêm tối hoàn toàn, vừa trở thành điểm sáng làm tan đi cái cảnh lạnh lẽo, ảm đạm của núi rừng trong toàn bộ bài thơ, mang lại sự ấm áp cho khung cảnh cũng như lòng người. Có thể nói rằng trong khi tác giả cảm thấy cô đơn, trống trải ở nơi xa quê hương, thì chính hình ảnh lò than sáng rực và con người say mê lao động đã mang lại hơi ấm của tình người, làm cho tác giả cảm thấy hạnh phúc, sự sum họp, đoàn kết quý báu. Điều đó đã thể hiện sự tích cực trong tâm hồn của người tù cách mạng, niềm tin vào cuộc sống, vào một tương lai không bị gò bó bởi những cái gông xiềng, cảnh tù đày, mà đó càng làm cho tình yêu của Người dành cho cuộc sống lao động và tình người sáng rõ. Bác luôn hướng tâm hồn về cuộc sống của con người trong lao động, hướng về sự ấm áp của tình người, tìm kiếm nó giữa cảnh rừng rú bao la bằng một tinh thần lạc quan và yêu đời, hòa mình với thiên nhiên, không bao giờ coi cảnh rừng rú như nơi đáng sợ, mà thay vào đó, trong bối cảnh ấy, Người luôn tìm ra và khám phá những nét đẹp tinh tế, mới lạ.
Với bài thơ của Tố Hữu, hình tượng người chiến sĩ cách mạng được xây dựng dựa trên sự khởi đầu của một lý tưởng của một tuổi trẻ sẵn sàng hy sinh. Bài thơ là một trong những tác phẩm đầu tiên nổi tiếng nhất của tác giả, thể hiện những cảm xúc đặc biệt khi ông nhận ra lý tưởng cách mạng và gia nhập hàng ngũ của Đảng khi còn trẻ. Với phong cách thơ đầy tinh nghịch, sống động, cùng với nhiều hình ảnh so sánh sâu sắc, Tố Hữu đã bày tỏ hầu hết những cảm xúc, tấm lòng sâu nặng của mình đối với nhân dân và đất nước như một người thanh niên tràn đầy nhiệt huyết.
“Từ đó, trong tâm tôi sáng lên ánh nắng hạ
Mặt trời của sự thật tỏa sáng qua trái tim
Tâm hồn tôi như một vườn hoa rộn ràng
Hương thơm và tiếng hót của chim rộn ràng…”
Đối với Tố Hữu, được kính trọng đứng vào hàng ngũ của Đảng, phục vụ với tư cách là một người chiến sĩ cách mạng, là bước ngoặt quan trọng nhất trong cuộc đời, là dấu mốc quan trọng tiếp theo trong việc hy sinh cho lý tưởng cao cả. “Nắng hạ” của “mặt trời chân lý” chính là biểu tượng ẩn dụ cho Đảng và cách mạng, đã kịp thời dẫn dắt người trẻ ra khỏi bóng tối của tư tưởng tiểu tư sản, giác ngộ và nhanh chóng mở ra một con đường sáng, làm cho nhà thơ bước chắc chắn vào tương lai, hiến dâng mình cho công việc vĩ đại của Tổ quốc. Trong đó, ánh sáng của cách mạng của Đảng được tác giả tôn trọng, tôn vinh lên tầm cao vũ trụ, khẳng định sức sống vĩnh cửu chiếu sáng cho những trái tim cách mạng, là động lực để giúp người chiến sĩ tiến về phía trước. Và khi được giác ngộ, Tố Hữu - người chiến sĩ cách mạng mới đã trải qua những cảm xúc hạnh phúc tột bậc, tâm hồn người trở nên sáng sủa như “một vườn hoa lá” đang phát triển mạnh mẽ, tràn ngập sức sống của mùa xuân tuổi trẻ, lại “rất đậm hương và rộn tiếng chim” thể hiện sự hân hoan, phấn khích, làm rung động mạnh mẽ trong tâm hồn của nhà thơ. Cả tâm hồn và cuộc sống của nhà thơ bỗng chốc trở nên đầy hy vọng, đầy sức sống, hướng về một tương lai tươi sáng dưới sự soi sáng của ánh sáng Đảng, của cách mạng.
“Tôi ràng buộc lòng mình với mọi người
Để chia sẻ với nhiều người
Để tâm hồn tôi chia sẻ những khổ đau của người khác
Để tương tác với nhau mạnh mẽ hơn
Tôi là con của mọi nhà
Là em của mọi thời kỳ
Là anh của những người em nhỏ
Không phân biệt giai cấp, không phân biệt giàu nghèo…”
Và khi đã gia nhập hàng ngũ của Đảng, người chiến sĩ cách mạng càng nhận thức rõ vai trò của mình, Tố Hữu đã ngay lập tức mở rộng tâm hồn để hoà mình vào đời sống của nhân dân, vào cuộc sống lao động khó khăn, hiểu biết về những khó khăn của dân tộc dưới sự cai trị của thực dân. Nhà thơ đã nhận ra một chân lý của thời đại, rằng muốn chiến thắng kẻ thù mạnh mẽ chỉ có một cách, đó là tập hợp sức mạnh đoàn kết của dân tộc “mọi người là nhà”, cùng nhau đóng góp để có thể thành công. Vì vậy, Tố Hữu đã sẵn lòng, mở lòng mình ra sống với lòng nhân từ, tôn trọng, xem mình là một phần của một cộng đồng lớn, trở thành “con của mọi nhà”, là “anh”, là “em” của những người khác nhau. Ông hoà mình vào cuộc sống của nhân dân để hiểu biết về sự khó khăn “không phân biệt giai cấp, không phân biệt giàu nghèo…”, đi sâu và hiểu biết về cuộc sống của nhân dân để gắn kết và yêu thương, tạo nên sức mạnh đại đoàn kết dân tộc, thắp sáng lý tưởng của Đảng.
Điểm chung trong sáng tác của Hồ Chí Minh và Tố Hữu trong việc xây dựng hình tượng người chiến sĩ cách mạng chủ yếu nằm ở hai điểm chính. Một là tấm lòng hòa mình với thiên nhiên, sử dụng hình ảnh của thiên nhiên để diễn đạt tâm trạng của mình, Hồ Chí Minh dùng thiên nhiên để thể hiện tinh thần lạc quan, yêu đời, cùng với những cảm xúc cô đơn, trống trải ẩn sau lời cao trào. Trong khi đó, Tố Hữu sử dụng thiên nhiên để ẩn dụ cho những niềm vui, sự phấn khích trong lòng khi được vinh dự đứng dưới bóng Đảng, được hiến dâng cho cách mạng. Điểm chung thứ hai là tấm lòng hướng về nhân dân, gắn bó, hòa mình, hiểu biết về nhân dân để làm cách mạng. Mặc dù cách diễn đạt của hai tác giả hoàn toàn khác nhau, nhưng ta vẫn có thể dễ dàng nhận ra điểm chung đó khi nhìn vào cảm xúc chung của bài thơ, tất cả đều hướng đến mục đích cuối cùng đó là lòng mong muốn được hiến dâng cho cách mạng, giải phóng cho những con người lao động cùng chịu khổ, bị bóc lột vì chiến tranh.
Bên cạnh 'Chiều tối', 'Từ ấy' cũng là một trong những bài thơ xuất sắc về việc tạo hình người chiến sĩ cách mạng từ lòng yêu thiên nhiên và tấm lòng sâu sắc, gắn bó với nhân dân. Hai bài thơ này thể hiện lý tưởng cách mạng cao cả của người chiến sĩ, luôn kiên định tin vào tương lai, sẵn sàng hiến dâng bản thân cho Tổ quốc, cho nhân dân một cách kiên trì và bền bỉ, dù cuộc sống có gian khó, đắng cay thế nào đi nữa.