Đánh giá về Hầu trời tập hợp 5 bài văn mẫu xuất sắc kèm theo hướng dẫn viết chi tiết nhất. Với 5 mẫu cảm nhận bài thơ Hầu trời mà Mytour giới thiệu, học sinh lớp 11 có thể tự tin hơn về việc viết bài văn hay và ấn tượng.
Bài thơ Hầu trời không chỉ là một câu chuyện vui nhộn mà còn chứa đựng những triết lý về bản ngã thơ ca dành cho các nhà văn Việt Nam. Tản Đà đã thực sự đem lại một làn gió mới cho thơ ca thông qua tác phẩm này, xứng đáng với danh hiệu người khởi xướng cho phong trào Thơ mới. Để hiểu rõ hơn về bài thơ này, mời các bạn theo dõi TOP 5 mẫu cảm nhận về Hầu trời dưới đây.
Phân tích cảm nhận bài thơ Hầu trời
1. Bắt đầu
- Giới thiệu về nhà văn Tản Đà và bài thơ Hầu trời
- Đưa ra vấn đề
2. Nội dung chính
- Tổng quan chung
- Nguyên bản: Trích từ tập “còn chơi”
- Cấu trúc: Gồm 4 phần
- Chủ đề: Thể hiện tính cách tự phụ của tác giả khi trở lại cuộc sống hàng ngày.
- Phân tích
- Thi nhân đọc thơ trước trời và các thần linh nghe
- Tinh thần của thi nhân khi đọc thơ và việc thi nhân mô tả về tác phẩm của mình:
- Thi nhân đọc thơ rất hứng khởi, phấn khích và có phần tự hào: “Đọc hết thơ văn chuyển sang văn xuôi/Hết văn lý lẽ lại làm văn chơi”
- Thi nhân mô tả chi tiết, cụ thể về những tác phẩm của mình: “Hai cuốn sách chủ đề văn lý thuyết/ Hai cuốn sách về tình vẫn là văn chơi/ Ma quỷ, giấc mơ trong văn tiểu thuyết….”
- Giọng đọc: đa dạng, hóm hỉnh, tự tin có phần kiêu căng.
=> Đoạn thơ cho thấy thi nhân tự tin vào tài năng văn thơ của mình và cũng là người can đảm, dám thể hiện “cái tôi” cá nhân mạnh mẽ. Ông cũng rất “ngông” khi thể hiện sự tự tin vào tài năng của mình. Đây là sự khát khao chân thành trong tâm trí của nhà thơ.
- Thái độ của người nghe: Rất kính trọng tài năng văn thơ của tác giả.
- Thái độ của trời: Khen ngợi hết lòng: văn thật tuyệt vời, văn thường thì chắc chắn có ít, văn trang trí như sao băng…
- Thái độ của các thần linh: Xúc động, ngưỡng mộ và ca tụng… Tâm hồn mở toang, miệng nói hoa mỹ…
=> Toàn bộ đoạn thơ tươi sáng với tinh thần lãng mạn và thể hiện ý niệm về sự thoái trào khỏi cuộc sống thường nhật.
- Thi nhân nói chuyện cùng trời:
- Thi nhân kể về hoàn cảnh cá nhân của mình => Trong văn chương, việc đề cập đến tên tuổi trong tác phẩm là một cách để khẳng định bản thân cá nhân.
- Thi nhân kể về cuộc sống: Đó là một cuộc sống vất vả, thiếu thốn, với tư cách nhà văn bị xem thường, coi thường. Trên trần gian, ông không thể tìm thấy sự hài lòng, vì vậy ông phải tìm đến trời cao để xoa dịu nỗi lòng.
=> Đó cũng là thực tế của cuộc sống của các nghệ sĩ trong xã hội thời kỳ đó, một cuộc sống khó khăn, không đủ để sống, với vai trò của nhà văn bị coi thường, bị phụ lòng. Đó là một cuộc sống cơ cực không mảy may, với tình trạng bất lợi.
=> Qua đoạn thơ, tác giả đã vẽ nên một bức tranh chân thực và cảm động về cuộc sống của mình cũng như của nhiều nhà văn, nhà thơ khác.
=> Tinh thần hiện thực bao phủ toàn bộ đoạn thơ này.
- Trách nhiệm và ước mơ của thi nhân:
- Nhiệm vụ của trời: Lan truyền những giá trị cao quý. => Nhiệm vụ này cho thấy Tản Đà vẫn giữ lại phần nào của tâm hồn lãng mạn, không hoàn toàn thoát khỏi cuộc sống thực tế. Ông vẫn nhận thức về trách nhiệm và nhiệm vụ của mình đối với cuộc sống, để mang lại hạnh phúc và sự sung túc cho mọi người.
- Thi nhân mong muốn đảm nhận trọng trách của cuộc đời => Điều này cũng là một cách để tự mình khẳng định trước cuộc sống.
=> Có thể nói rằng trong thơ của Tản Đà, cảm hứng lãng mạn và cảm hứng hiện thực giao nhau một cách chặt chẽ.
3. Tổng kết
- Tóm tắt ý kiến tổng quan
Cảm nhận về Hầu Trời - Mẫu 1
Tản Đà là biểu tượng của dòng dõi quý tộc và trí thức trong giai đoạn chuyển đổi, là người tiên phong đưa văn chương ra ngoài cung điện. Sáng tác của Tản Đà phản ánh cái tôi của một nghệ sĩ tài ba và người quý tộc. Ông viết cả văn và thơ, nhưng được biết đến nhiều hơn với vai trò nhà thơ. Thơ của Tản Đà có vẻ cổ điển trong hình thức nhưng mới lạ trong nội dung, ông được xem là một cầu nối giữa văn học truyền thống và hiện đại. Là một nhà thơ tài hoa và lãng mạn, ông viết nhiều về tình yêu và lòng yêu nước, quê hương được thể hiện rõ ràng từ hình thức đến nội dung. Trong thơ của ông, tình yêu quê hương được biểu hiện phong phú và đa dạng, một số trực tiếp, một số gián tiếp.
Bài thơ Hầu Trời trong tập Còn chơi (1921) là một ví dụ điển hình cho phong cách của Tản Đà. Bài thơ được viết dưới dạng tự truyện, kể về một tình huống tưởng tượng khi nhà thơ lên gặp trời để ngâm thơ. Điều này thể hiện quan điểm và thái độ của nhà thơ về văn học và cuộc sống.
Tản Đà được xem như là một cây cầu qua hai thế kỷ, là người kết nối giữa văn học cũ và mới, là người đặt nền móng cho văn học mới. Các đánh giá này đã làm nổi bật vị trí quan trọng của Tản Đà trong văn học Việt Nam ở giai đoạn chuyển đổi này. Ông là biểu tượng của văn học Việt Nam trong thời kỳ này, một giai đoạn có sự biến đổi, mở đầu cho việc hiện đại hóa văn học. Hầu Trời là một bài thơ đầy tính sáng tạo. Bài thơ này thể hiện rõ bản sắc sáng tạo của Tản Đà. Mạch thơ được triển khai một cách logic, với các chi tiết cụ thể, hấp dẫn và thuyết phục: từ việc ngồi một mình buồn bã, đến việc dậy đun nước uống và ngâm thơ, liên hệ với trời, tiên xuống hỏi rồi đưa lên gặp trời, trời và chư tiên đón tiếp trang trọng, mời đọc thơ, giới thiệu về bản thân và đọc thơ cùng trời, trời giải thích, ca tụng, sau đó đưa trở lại trần gian. Nhà thơ đã lựa chọn một cách rất độc đáo để thể hiện suy tư của mình.
Bằng cách tưởng tượng câu chuyện với Trời, nhà thơ đã thể hiện sự tự tin vào tài năng của mình và trình bày quan điểm mới mẻ về văn chương, cũng như sự cá tính của bản thân. Nhà thơ bắt đầu câu chuyện bằng một giọng điệu lôi cuốn, hài hước nhưng tự nhiên:
Tối qua không biết có chuyện gì.
Không hoảng sợ, không mơ mộng.
Thực là bất ngờ! Thực là quý phái! Thực là cảm thấy mình đang bay lên trời - thú vị kỳ lạ.
Lý do Trời mời nhà thơ lên không gì đặc biệt, cảm thấy buồn nên dậy đun nước uống, sau đó ngâm thơ, thư giãn dưới ánh trăng. Tiếng ngân từ sông Ngân Hà đã làm cho Trời không thể ngủ được. Và như vậy, nhà thơ được lên Trời.
Cuộc gặp gỡ với Trời và chư tiên được kể lại một cách tự nhiên, hồn nhiên, như thể thực sự xảy ra. Tác giả đã chọn lối kể chuyện gần gũi như dân gian để tái hiện câu chuyện về việc hầu Trời.
Nhà thơ tưởng tượng một tình huống gặp Trời để tự giới thiệu. Ông giới thiệu rõ ràng tên, quê hương, nghề nghiệp và các tác phẩm của mình. Tác giả đã chọn một tình huống độc đáo: gặp Trời, ngâm thơ cho Trời và chư tiên nghe, từ đó khẳng định tài năng của mình.
Khi đọc thơ thấy hứng thú,
Chè trời phải nhấn mạnh hơn.
Văn dài, hơi tốt, lượn cùng mây!...
Tự tỏ ra tự tin về tài năng của mình nhưng lại lựa chọn để Trời và chư tiên khen ngợi. Điều này thể hiện sự kiêu hãnh đáng yêu.
Sau khi giới thiệu các tác phẩm của mình và phân loại chúng theo quan điểm cá nhân (văn thuyết lý, văn chơi, văn tiểu thuyết, văn vị đời và lối văn dịch), nhà thơ đưa ra nhận xét, kèm theo nhận xét của Trời về sự phong phú và đa dạng của văn chương. Nhà thơ còn dùng lời của Trời để khẳng định tài năng của mình:
Trời lại khen: Văn thật tuyệt
Văn trần được thế, chắc không ít!
Đầm như mưa, lạnh như tuyết!
Nhà thơ đã tự tin khẳng định bản thân và liên kết với tên thật của mình, thể hiện sự kiêu ngạo của một người có tài năng và biết trân trọng, khẳng định tài năng của mình. Trong thời đại của Tản Đà, khi đất nước đang mất chủ quyền, việc tự giới thiệu còn là biểu hiện của sự tự hào, lòng tự trọng dân tộc. Hơn nữa, nhà thơ còn tuyên bố phong cách kiêu ngạo của mình:
Tôi tên Nguyễn Khắc Hiếu
Bị đày xuống dưới vì tính ngông ngầu.
Trong cuộc hội thoại tưởng tượng với trời, nhà thơ cũng khẳng định trách nhiệm cao cả của mình và của những người nghệ sĩ khác là đảm bảo sứ mệnh văn hóa của nhân loại:
Trời nói: Không phải là Trời đày,
Trời chỉ giao cho con một nhiệm vụ này
Là nhiệm vụ văn hóa của nhân loại,
Cho con mang đến với thế giới này.
Việc tạo ra tình huống tưởng tượng này để an ủi bản thân, đồng thời cũng nhấn mạnh ý nghĩa cao quý của văn chương và của nhà văn.
Tại đây, nhà thơ bày tỏ tâm trạng của mình về nghề viết văn. Tản Đà được coi là người mở đầu cho Thơ Mới, không chỉ vì thơ của ông thể hiện tinh thần hiện đại của thời đại với cá nhân mạnh mẽ giữa dòng văn mà còn vì ông là nhà thơ đầu tiên đưa văn chương ra thị trường, coi việc viết làm nghề sống. Khi chia sẻ trải nghiệm với Trời, nhà thơ đã nói rõ chi tiết về công việc viết văn kiếm sống này. Tản Đà cũng đã tìm kiếm sự an ủi từ lời của Trời.
Với bài thơ Hầu Trời, Tản Đà đã mang lại một câu chuyện tưởng tượng vui nhộn và mới mẻ cho văn học Việt Nam đầu thế kỷ XX. Dưới dạng một bài thơ hào hứng, nhà thơ đã khẳng định cá nhân của nghệ sĩ. Nhà thơ không chỉ tự tin khẳng định tài năng của mình mà còn truyền đạt quan điểm về việc viết văn để phục vụ lợi ích công cộng. Viết văn để làm cuộc sống tốt đẹp hơn là một nhiệm vụ mà Trời giao cho người nghệ sĩ.
Tản Đà đã có sáng tạo độc đáo về mặt nghệ thuật bằng cách đưa ngôn ngữ hàng ngày, dễ hiểu, giản dị nhưng vẫn rất cảm động vào thơ ca. Ngôn ngữ của bài thơ Hầu Trời đã kết hợp giọng điệu văn chương thông thường và ngôn ngữ dân dã. Không bị ràng buộc bởi các quy tắc về vần versification nên cảm xúc được thể hiện một cách tự nhiên và cá nhân của nhà thơ được thể hiện mạnh mẽ. Điểm độc đáo và thành công của bài thơ cũng nằm ở việc tạo ra tình huống với Trời để tự khẳng định tài năng và quan điểm của mình. Đó là một cách kiêu căng rất nghệ sĩ, vui vẻ và đáng yêu. Bài thơ cũng đã vẽ nên hình ảnh của thi sĩ Tản Đà với phong cách kiêu căng độc đáo, đó là kiêu căng của một người trí thức ở thời điểm mà ý thức cá nhân được coi trọng và khẳng định.
Nhận xét về bài thơ Hầu Trời - Mẫu 2
Trong những năm 20 của thế kỷ XX, xã hội đang chịu sự áp đặt của chế độ thực dân phong kiến, đầy u ám và đau buồn. Người tri thức không chấp nhận tham gia, nhưng để chống lại nó không phải là điều dễ dàng, không ai cũng làm được. Sáng tạo thơ giải sầu, đó là một lựa chọn khá phổ biến. Nhà thơ Tản Đà cũng như vậy. Tuy nhiên, khác với mọi người, Tản Đà là “người đầu tiên, là người đầu tiên có can đảm làm thi sĩ, đã làm thi sĩ một cách đứng đắn, mạnh mẽ, dám hiện hữu một cá nhân, dám có một tôi” (Xuân Diệu).
Tản Đà viết nhiều bài thơ. Hầu Trời là một trong số ít những bài thơ trường thiên vẫn tồn tại với thời gian, kiêu căng cùng với năm tháng. Điều thú vị, hấp dẫn nhất của bài thơ với độc giả là khẳng định sự tự tin, ngạo nghễ và khát khao khẳng định bản thân của Tản Đà giữa cuộc sống. Tản Đà đã từng tự nhận mình là “hủ nho lo việc đời”, là người có tài nhưng địa vị thấp. Đau khổ, mệt mỏi, ông tìm cách để thoát khỏi cuộc sống này. Và để trốn tránh, ông tưởng tượng mình đến cõi thượng giới. Ở đó, ông tự do, bay bổng. Tuy nhiên, ông muốn độc giả tin rằng, ông đã thực sự lên trời để Hầu Trời. Vì vậy, cách bài thơ bắt đầu là ông khẳng định:
Chẳng hoảng hốt, chẳng mơ màng
Thật hồn! Thật phách! Thật thân thể!
Thật được lên trời...
Mọi người có còn nghi ngờ khi nhà thơ cứ khăng khăng cho rằng linh hồn và thân thể của mình đã được lên trời, đó không phải là ảo ảnh và đừng cần phải hoảng sợ. Sự khẳng định cao độ như vậy, dù người ta không tin nhưng sẽ kích thích sự tò mò, họ sẽ tò mò biết câu chuyện mà Tản Đà sẽ kể là gì. Cách bắt đầu của bài thơ vừa hóm hỉnh lại vừa lạ lùng.
Tản Đà là nhà thơ, từng bán thơ ở phố phường để kiếm sống, nhưng vào thời điểm đó văn chương giá rẻ như cỏ bèo. Biết rõ cuộc sống khó khăn, nhưng nhà thơ nghèo vẫn tự tin lên Hầu Trời vì sự hay của thơ ông. Về sự kiêu căng, Tản Đà đã viết:
Vì ông quá tài hoặc ông không đạt được
Không đạt được càng tốt bộ ngông.
(Tự nhận xưng)
Ngông là việc tự tin khẳng định bản thân một cách chủ quan, làm những điều không theo truyền thống của đám đông, của cộng đồng. Tuy nhiên, không phải mọi hành động chống lại truyền thống đều là ngông. Để trở thành ngông, cần có cơ sở là tài năng và phẩm chất con người. Tản Đà đã nhận thức được điều này. Chính vì nhận thức bản thân mình, ông có một loại ngông đáng yêu đặc trưng của mình. Nhà thơ được mời lên thiên đình để đọc thơ cho Trời và Chư tiên nghe. Đó là phần chính của bài thơ. Cảnh đọc thơ cho Trời nghe được mô tả khá chi tiết. Được mời lên thiên đình để đọc thơ, đó là vinh dự của nhà thơ. Do đó, việc tự mãn của thi sĩ là dễ hiểu. Đối diện với sự cảm động khi người đọc vừa cao giọng đọc những vần thơ lên trời, ông cũng kể cho Trời và Chư tiên nghe những tác phẩm của mình: Hai quyển Khối tình, Thần tiên, Giấc mộng... Đáng chú ý là cách thi sĩ tự khen mình:
Văn đã phong phú lại đa dạng .
Tự đề cao bản thân có thể trở nên kiêu căng, ngạo mạn khi một người thông thường tự khen mình. Nhưng Tản Đà không phải là người thông thường, ông là một người thực sự có tài. Và đây không phải là lần đầu tiên nhà thơ tự khen. Trong tự nhận xưng, ông đã viết:
Đất Sơn Tây hiện lên một bậc sĩ tử
Tuổi trẻ vẫn còn, văn hay rất đỉnh
Đà núi Tản từng bao phen hùng vĩ
Văn pháp cao thủ sớm vươn xa.
Trước thái độ đó của Tản Đà, cả Trời và các Chư tiên không khỏi bật cười, các Chư tiên thậm chí còn xúc động, tán thưởng và hâm mộ:
Các tiên ao ước có cơ hội dặn dò:
Hãy đem chợ Trời lên đây cho ta
Là một nhà thơ nổi tiếng với lòng đa tình, khi lên Trời, Tản Đà không thiếu sự chú ý từ các nàng Tâm Cơ, Hằng Nga, Song Thành... Họ ngợi khen và tán dương Tản Đà - người đã đến từ thế gian. Sau đó, họ cũng vỗ tay tán thưởng. Đặc biệt, Trời đánh giá cao văn của Tản Đà:
Trời phê bình rằng: Văn thật là tuyệt vời
Có ít văn như thế trong thế gian
Và không tiếc lời khen ngợi: Lời văn sáng tạo như những vì sao lấp lánh, sức mạnh văn học như những đám mây biến đổi, từ nhẹ nhàng như sương, êm dịu như gió, đậm chất như mưa sa, đến lạnh lùng như tuyết.
Có thể nói, Tản Đà đã có nhận thức rõ về tài năng của mình và là một người dũng cảm, dám thể hiện bản thân và cái tôi mạnh mẽ của mình. Cách mà nhà thơ tự xưng tên họ ngay trước Ngọc Hoàng và Chư Tiên cũng là minh chứng cho điều đó:
Tên của tôi là Khắc Hiếu, họ Nguyễn
Quê ở Á Châu và Đại Cầu
Sông Đà núi Tản, nước Việt Nam.
Ông cũng rất kiêu hãnh khi đến Trời để khẳng định tài năng của mình trước Ngọc Hoàng Thượng Đế và Chư Tiên. Trong bài thơ Muốn làm thằng Cuội, Tản Đà đã mong muốn thoát tục lên thiên đình để trốn tránh cuộc sống hiện tại:
Mỗi dịp rằm tháng Tám
Cùng nhìn xuống thế gian và cười.
Ở cõi Thiên, nhà thơ một lần nữa thoát khỏi cuộc sống thường nhật. Nhưng trong bút, trong tâm hồn ông, ông được tự do sáng tạo trong không gian thơ thiên không bị gò ép bởi quy tắc và hình thức. Niềm khao khát chân thành trong tâm hồn của nhà thơ là được công nhận và đánh giá đúng đắn về tài năng của mình. Trong bối cảnh xã hội rối ren, nơi mà biên giới giữa thật và giả thường mơ hồ, văn chương trở nên rẻ tiền, và việc tìm kiếm độc giả hiểu và đồng cảm với thơ của Tản Đà thật khó khăn. Và chỉ khi lên thiên đình, ông mới thấy được sự hài lòng.
Tác giả hiện diện trong bài thơ với vai trò là người kể chuyện và cũng là nhân vật chính. Tâm trạng của tác giả trong bài thơ thể hiện sự phóng túng, tự do mà không bị ràng buộc. Đôi khi là cao hứng, đôi khi tự đắc, đôi khi lại trầm ngâm... Tất cả tạo ra một giọng thơ tự sự hóm hỉnh, duyên dáng và cuốn hút người đọc. Theo lời tác giả, người đọc được chứng kiến cảnh nhà thơ đọc thơ cho Trời nghe, cảnh Trời và các Chư Tiên đánh giá thơ của tác giả... Người đọc không chỉ cảm nhận được tính cách ngông nghênh, phóng túng của nhà thơ, mà còn cảm nhận được khát khao, mong muốn được khẳng định bản thân giữa cuộc sống của tác giả. Cuộc sống hàng ngày của nhà thơ đang phải đối mặt với những khó khăn, vất vả, những lo toan vài. Tản Đà, như nhiều nhà văn khác cùng thời, mang theo một bụng văn. Anh ta không đủ ăn, không đủ mặc. Nhà thơ chỉ còn cách kiếm sống bằng việc bán văn, nhưng điều đó cũng không dễ dàng:
Tâm trạng của con thơ nhà nghèo khổ
Trên trần gian, mảnh đất cũng không có.
Vốn mang theo là một bụng văn, nhưng nó không đủ để sống, không đủ để mặc. Nhà thơ chỉ còn cách kiếm sống bằng cách bán văn, nhưng đắng lòng:
Văn chương giờ đây trở nên rẻ tiền như bèo
Thu nhập từ viết văn thực sự là khó khăn.
Vì thế:
Mọi nỗ lực suốt năm cũng không đủ để sống qua ngày.
Điều cuối cùng, nghèo đói vẫn là kết quả.
Một số câu thơ ngắn nhưng chúng đã tái hiện lại hiện thực một cách chân thực và đầy xót xa. Có thể nói đó là một trong những lý do khiến nhà thơ chán ghét cuộc sống thường nhật:
Đêm thu buồn lắm, chị Hằng ơi.
Trần thế này, em chán rồi.
(Muốn trở thành thằng Cuội)
Và lời dặn của Trời đối với nhà thơ, nhiệm vụ mà Trời giao phó cho nhà thơ để giữ vững thiên lương giữa cuộc sống xô bồ, cám dỗ là một sứ mệnh thiêng liêng mà nhà thơ phải cố gắng thực hiện, dù:
Trời lại giao phó việc nặng nề
Biết cách làm nhưng dám thực hiện.
Giữ gìn được thiên lương đó cũng là điều mà Tản Đà mong muốn, khao khát thực hiện trách nhiệm mà Trời giao phó để thể hiện sự tận tâm, nhân cách cao quý và trong sáng của nhà thơ nghèo Tản Đà.
Khi phong trào Thơ mới nổi lên, Thế Lữ giống như một “tia sáng đột phá, chiếu rọi khắp bầu trời thơ Việt Nam” (Tế Hanh). Trong khi đó, Tản Đà như một vì sao đã dần phai nhạt và tan biến. Ban đầu, công chúng chỉ biết đến Tản Đà để chế nhạo, xem ông là biểu tượng của thơ cổ. Nhưng chỉ sau khi ông ra đi (71/1939) ở giường bệnh với một đống sách cũ rách nát trên ghế, thay vì bức thư tín và những trang bản thảo lộn xộn... thì những người đã từng chế nhạo ông mới cảm thấy tiếc nuối và hối hận.
Với một tâm hồn nghệ sĩ chân thành, một trí óc thực sự trăn trở, nhà thơ đã dành cả cuộc đời mình cho nghệ thuật văn chương, mang theo tên của dòng sông, những ngọn núi quê hương. Dù có những bài thơ cá tính, hơi hướng bạo dạn nhưng không bao giờ là mất kiểm soát, không bao giờ là phóng túng. Những dòng thơ châm biếm, hài hước chỉ là cách để ông thể hiện mong muốn được thừa nhận bản thân. Và không ai có thể phủ nhận sự công bằng khi người đọc, từ ngày hôm nay và sau này, vẫn luôn nhớ đến ông, thơ ông xứng đáng là cầu nối giữa hai giai đoạn văn học của dân tộc: Trung cổ và hiện đại. Ông đã tìm ra con đường đúng để khẳng định bản thân giữa thời kỳ thơ phú của nhà nho đang dần trôi qua.
Đánh giá về bài thơ Hầu trời - Mẫu 3
Bài thơ 'Hầu Trời' của Tản Đà có sự khác biệt về số câu ở hai bản thảo. Phiên bản do Nguyễn Nghiệp tuyển chọn - xuất bản lần đầu năm 1982 có 120 câu. Trong khi đó, bản của Nguyễn Khắc Xướng - xuất bản lần đầu năm 1986 chỉ có 114 câu. Chúng tôi sẽ sử dụng bản thảo đầu tiên.
Bài thơ 'Hầu Trời' rất đặc biệt và độc đáo; độc đáo ở hình thức, độc đáo ở cảm xúc, độc đáo ở nội dung. 'Hầu Trời' được viết theo thể thơ thất ngôn trường thiên, bên cạnh những khổ thơ bốn câu, tác giả đã xen kẽ vào những khổ thơ sáu câu, mười câu, mười hai câu... tạo nên một dạng thơ lớn hơn. Sự đa dạng trong cấu trúc đã mở ra một không gian nghệ thuật cho Tản Đà thể hiện bản thân, và cho nó “lượn bay” giữa Thiên đình vĩ đại.
Phần mở đầu của bài thơ kể về một cảnh trong đêm, khi thi sĩ ngồi viết thơ dưới gốc cây, tiếng đàn ngân vang khắp sông Ngân Hà', đã 'làm Trời không thể ngủ...'. Trời tức giận đã sai hai tiên nữ xuống gặp hàng ngàn thi sĩ tại Thiên đình. Tản Đà bắt đầu bài thơ bằng bốn câu thơ, sử dụng từ 'thật' để khẳng định rằng đó là một sự kiện thực sự đã xảy ra 'rất là hạnh phúc!'. Trong bài 'Tìm hiểu Tản Đà', nhà thơ Xuân Diệu đã viết:
'Phần mở đầu của bài 'Hầu Trời', tôi rất ấn tượng:
Đêm qua không biết có phải không
Không phải lo sợ mơ màng
Thật là linh hồn! Thật là hình dạng! Thật là thân thể!
Thật sự được làm thần - thật là hạnh phúc!
Đoạn mở đầu bất ngờ đặt ra câu hỏi để tạo sự đặc biệt, sau đó một cách khách quan, theo lý thuyết khoa học, câu sau đều làm rõ và khẳng định mạnh mẽ, đôi khi làm người ta ngạc nhiên'.
Phái bầu của Trời là hai tiên nữ 'với nụ cười duyên dáng',... Thi sĩ như được đưa lên bầu trời cùng hai tiên: 'Theo hai tiên nữ lên đường mây - Vù vù không cánh mà bay như chim'. Thấy Thiên đình lộng lẫy, thi sĩ không khỏi ngạc nhiên và tự hỏi:
Cửa sơn tỏa sáng rực rỡ chói lọi!
Thiên đình vẫn như thế ư?
Người làm thơ tại hạ giới được Trời và các tiên đánh giá cao. Sau khi làm lễ 'kneel down worship', Trời ân cần sai hai tiên nữ 'dẫn tôi dậy', sau đó mời thi sĩ 'ngồi thư giãn' trên 'Ghế bành mềm như tuyết, văn vẻ như mây'. Tiên phục vụ nước uống. Đám tiên đông đảo ngày càng tăng. Họ đến để gặp con người? Đến để chào đón với lòng hiếu khách? Hay đến để tham gia cuộc bình văn, bình thơ?
Tiên phục vụ nước đã xong,
Bất ngờ thấy chư tiên đông đảo,
Quanh đó đặt rất nhiều ghế ngồi,
Tiên bà, tiên cô, cùng tiên ông.
Trải qua trải nghiệm văn chương và bình văn tại Thiên môn đế khuyết, Tản Đà kể lại một cách sống động và hấp dẫn. Thính giả bao gồm cả Trời và nhiều tiên. Sau khi nghe lời dạy của Trời, văn sĩ khiêm tốn thưa: 'Dạ, bậc cao quý của Thiên, con xin được đọc', sau đó cuộc bình văn, đọc văn bắt đầu. Văn sĩ 'Đọc từ văn thơ chuyển sang văn xuôi
Khi đọc văn thuyết lí xong lại đọc văn giải trí', càng đọc càng thấy hài lòng, càng 'thú vị', đặc biệt khi được thưởng thức “chè Thiên”. Thính giả và văn sĩ trở thành bạn tri kỷ trong cuộc bình văn, đọc văn. Trời và các tiên đều hăng hái thưởng thức nghệ thuật. Văn sĩ đam mê đọc 'chè mây tới tận cung trời'. Không có rượu và hoa... nhưng có nhiều trải nghiệm thú vị. Trời nghe văn nghe thơ 'đều thấy tuyệt vời'. Mỗi tiên có cách biểu hiện riêng. Có tiên nữ “mở lòng” hoặc “nhún vai''. Có tiên đẹp ở Thiên môn quá xúc động nên “nhíu mày”. Nhiều tiên bị cuốn hút bởi văn thơ “chăm chú lắng nghe”. Tất cả đều nhiệt tình 'vỗ tay' tán thưởng. Hỏi đã từng có văn sĩ nào được hưởng hạnh phúc, được đọc văn, đọc thơ trước một thính giả ở Thiên môn đế khuyết như vậy chưa?
Văn sĩ tự hào khi 'báo cáo' với Trời về những tác phẩm của mình đã được xuất bản: ...
Hai quyển Khối tình văn thuyết lí
Hai Khối tình, con thứ văn giải trí
Thần tiền, Giấc mơ văn tiểu thuyết
Đài gương, Lên sáu vị văn đời
Quyển Đàn bà Tàu lối văn dịch
Tới quyển Lên tám nay là mười”
Trời 'mỉm cười thưởng thức' và khen ngợi: 'Văn đã phong phú và đa dạng' về phong cách và thể loại. Niềm vui biết bao khi các tiên nữ gọi văn sĩ bằng 'anh”:
“Chư tiên trao nhau lời khuyên răn:
Anh đang mang bát bún lên chợ Trời!'.
Bằng cách kể chuyện mộc mạc tự nhiên, sử dụng ngôn từ hóm hỉnh và giọng điệu dân dã, tác giả đã làm nổi bật phong cách 'bình dân' của ông Trời và các chư tiên, cùng với cái tinh thần chân thành của văn sĩ. Qua cảnh đọc văn trước Trời, Tản Đà đã phản ánh thực trạng xã hội lúc bấy giờ thật đáng buồn, đặc biệt là tầng lớp văn sĩ như ông:
Bán văn, mua chữ, kiếm tiền tiêu.
Xuân hạ thu đông, lo văn chẳng ế,
Thân thế không thua, chú hát chèo!
(Lo văn ế)
Ông cũng chỉ rõ, trong xã hội thực dân phong kiến, đã có một số tri âm hiểu biết và trân trọng những tác phẩm văn chương của ông, vì vậy ông phải đến hầu Trời, đọc văn trước Trời và chư tiên thưởng thức. Nguyễn Khắc Hiếu tự hào tỏ bày bản ngã, tài năng thực sự của mình trước đồng loại! Trời, với ánh mắt sáng, với sự thẩm văn tinh tế đã trao cho văn sĩ lời khen ngợi quý giá:
Trời lại khen ngợi: 'Văn tuyệt vời!
Văn phàm thế này chắc không thiếu!
Văn hoa như sao băng lấp lánh!
Khí văn mạnh mẽ như mây dồn
Dịu như gió lay, thanh như sương!
Dầm như mưa xuân, lạnh như tuyết!...,
Sao băng, mây, gió, sương, mưa, tuyết được Trời so sánh để ca ngợi tài năng văn chương, khí văn của văn sĩ. Cách kể, cách tả của tác giả đầy tài hoa và uyên bác. Bản ngã được khẳng định mạnh mẽ. Sau khi đọc văn, bình văn là cuộc hầu chuyện với Trời của văn sĩ:
Dạ, bẩm lạy Trời, con xin thưa
Con tên Nguyễn Khắc Hiếu...
Trời 'thưa', sau đó giao cho Thiên Tào xem xét: 'Bẩm, tên Nguyễn Khắc Hiếu
Bị giáng xuống hạ giới vì tội ngông. Nhưng Trời không phạt mà thậm chí an ủi, động viên. Trời không 'trục xuất' mà giao nhiệm vụ quan trọng cho văn sĩ, đó là tái thiên lương' thuật lại cho 'thế hệ sau', để mọi người đều hiểu biết. Văn sĩ phải chịu trách nhiệm tái thiên lương'- giáo dục nhân dân, để cuộc sống trần gian thêm tươi đẹp, bình yên hơn. Trong bài thơ 'Hầu Trời', không chỉ mang tính lãng mạn, mà còn chứa đựng yếu tố hiện thực, khi văn sĩ thưa với Trời về hoàn cảnh của mình ở hạ giới: rất nghèo khổ, không có một tấc đất là của riêng, chỉ 'còn một bụng văn'', vất vả kiếm sống hàng ngày:
...Giấy người, mực người, thuê người in .
Thuê cửa hàng người bán khắp phố
Văn chương hạ giới rẻ như bèo
Kiếm được đồng lãi thực là khó
Kiếm được thời ít, tiêu thời nhiều
Năm năm chẳng đủ tiêu…
Khi nghe văn sĩ lo lắng thưa: 'Trời lại giao cho con việc quá nặng nề - Liệu con có làm nổi không?', thì Trời đã động viên và hứa:
Rằng: 'Con không cần nói, Trời đã biết,
Dù Trời ở trên cao, Trời hiểu hết.
Cứ về và làm việc,
Dẫu có mưa sương, lòng đừng e ngại,
Cố gắng hoàn thành công việc Trời giao,
Trời sẽ đem con trở về nơi đế khuyết…
Đoạn cuối bài thơ kể về việc Trời sai Khiên Ngưu đến đón Trích tiên trở lại thế gian. Cuộc tiễn đưa của các tiên vừa đầy xúc động, vừa trang trọng: 'Hai hàng lụy biệt giọt sương rơi'. Khi trăng tà non, tiếng gà gáy rền rĩ, nhà thơ đã về đến sân nhà, cảm thấy cô đơn và ngậm ngùi. Mong mỏi và tiếc nuối:
Trong sân mình một mình ngậm ngùi.
Ba trăm sáu mươi đêm một năm,
Đêm nào cũng muốn lên hầu Trời!
Bài 'Hầu Trời' như một câu chuyện cổ tích được viết bằng thơ. Trời và các tiên rất gần gũi, thân thiện và dễ thương. Bài thơ này thể hiện sự phong phú của trí tưởng tượng và vốn từ phong phú của Tản Đà, đặc biệt khi ông miêu tả về Trời và các tiên cũng như cách họ sống. Đoạn thơ về việc đọc văn và bình văn, về việc trò chuyện giữa văn sĩ với Trời và các tiên được kể một cách sinh động và thú vị. Có lúc ta cảm thấy như mình đang tham dự vào cuộc trò chuyện trên thiên đình nơi cõi trần.
'Hầu Trời' là một bài thơ độc đáo và nổi bật, mặc dù dài nhưng cấu trúc chặt chẽ, ngôn từ liền mạch, đầy tính thơ, cảnh vật và tình cảm tự nhiên, diễn biến theo câu chuyện, thu hút độc giả từ đầu đến cuối. Bài thơ này giúp ta hiểu thêm về sự tài năng, chất làm thơ và cái ngông của Tản Đà.
Cảm nghĩ về bài thơ Hầu Trời - Phần 4
Được coi là một liên kết quan trọng giữa văn học truyền thống và văn học hiện đại, Tản Đà là một nhà thơ đặc biệt trong lịch sử văn học Việt Nam. Ông không chỉ là nhà thơ mà còn là một hiện tượng đặc biệt. Trong thơ của ông, không chỉ có sự lãng mạn mà còn có sự tự tin, ngạo mạn. Đọc bất kỳ bài thơ nào của Tản Đà, ta đều có thể cảm nhận được cái tôi mạnh mẽ của ông. 'Hầu trời' là một trong những tác phẩm thể hiện rõ cái chất thơ đặc sắc ấy!
Bài thơ 'Hầu trời' được sáng tác vào năm 1921, thể hiện cái tôi sâu sắc nhất của Tản Đà. Cả bài thơ mang phong cách tự tin, lãng mạn và sáng tạo mà không nhiều nhà thơ nào có thể thể hiện được. Đọc 'Hầu trời', người đọc có thể thấy được cái tôi tự tin, sảng khoái của tác giả. Bên cạnh đó, bài thơ cũng thể hiện ý thức trách nhiệm của người thi nhân đối với văn học dân tộc và khát vọng cống hiến của ông cho thơ văn. Cả bài thơ là một câu chuyện sáng tạo được kể bằng lối thơ hóm hỉnh, kể về cuộc phiêu lưu của Tản Đà trên thiên đình, nơi ông được đón tiếp và khen ngợi bởi nhà trời.
Bước vào bài thơ, nhà thơ đã giới thiệu ngay câu chuyện của mình:
'Đêm qua không biết có hay không
....
Thiên môn đế khuyết như thế nào!'
Bắt đầu bài thơ bằng một câu hỏi nghi vấn, đầy sự tò mò:
'Đêm qua không biết có thú vị gì không
....
Thật là vui vẻ được lên thiên đàng'
Tác giả đã khéo léo mang người đọc vào một câu chuyện tự bịa của mình nhưng lại tạo ra sự hứng thú như thể đó là một câu chuyện thực sự. Tản Đà kể một câu chuyện nhưng cũng tự nghi ngờ 'không biết có thú vị gì không'. Tuy nhiên, ngay sau câu hỏi đầu tiên, nhà thơ đã khẳng định tính chân thật của câu chuyện mình đang kể:
'Không phải mơ màng, không phải hoảng loạn
Thật! Thật! Thật! Thật sự!
Thật là vui vẻ được lên thiên đàng, thật là kỳ lạ'
Lời mở đầu khiến người đọc phải bối rối. Mở đầu bằng một câu hỏi, nhưng ba dòng thơ tiếp theo, nhà thơ lại khẳng định một cách rõ ràng rằng câu chuyện của ông là thật, chính ông đã trải qua, không phải là 'mơ màng'. Từ 'thật' được lặp lại ba lần để khẳng định cho người đọc và cũng là để khẳng định cho tác giả rằng ông đã được 'lên thiên đàng, rất vui vẻ'.
Câu chuyện tiếp tục được Tản Đà kể bằng những dòng thơ đậm chất văn học dân gian. Lối thơ nhẹ nhàng, dân dã của ông hướng dẫn người đọc đi qua câu chuyện của mình một cách tự nhiên. Ông kể rằng trong một đêm, ông nằm thao thức một mình 'dưới ánh đèn xanh', sau đó 'ngồi dậy để đun ấm nước' và đọc sách cùng với trăng. Trong không khí cô đơn và buồn chán, hai cô tiên bất ngờ từ trên trời xuống, tươi cười nói với ông rằng:
'Trời nghe ở dưới đất ai ngâm ngợi
....
Có hay lên đọc, trời nghe qua'
Chỉ bằng việc ngồi một mình đọc thơ, nhà thơ đã được mời lên trời để đọc văn cho nhà trời và chư tiên thưởng thức. Một câu chuyện lên tiên đầy bất ngờ và hư cấu. Bằng những câu thơ vừa tự sự vừa lãng mạn, nhà thơ đã khơi mào câu chuyện của mình chỉ trong hai mươi bốn dòng thơ ngắn. Những dòng thơ này đã kết hợp sự trữ tĩnh và tự sự với lối kể chuyện hóm hỉnh của Tản Đà, khiến người đọc như đắm chìm trong một câu chuyện cổ tích thực sự. Thông qua những dòng thơ này, chúng ta cảm nhận được cái tôi lãng mạn, bay bổng của Tản Đà và niềm tự hào của ông về bản thân mình.
Tiếp theo trong câu chuyện về việc lên trời, nhà thơ đã mô tả cuộc họp mặt với Trời và chư tiên:
'Chư tiên ngồi quanh đây đều yên tĩnh
....
Tôi đem lên đây bán cho Trời'
Đây là phần thơ mà nhà thơ dùng để miêu tả cảnh ông đọc thơ cho Trời và chư tiên ngồi lắng nghe. Cuộc hội ngộ ở chốn thiên đình được Tản Đà kể lại một cách sống động. Khi nhà thơ lên trời, chư tiên đã tụ tập để sẵn sàng nghe ông đọc thơ, bình thơ. Không chỉ thế, nhà Trời còn 'pha nước để nhấp giọng' cùng với chư tiên yên tĩnh ngồi quanh để sẵn sàng nghe. Khi buổi đọc văn bắt đầu, nhà thơ đã dùng hết tài năng của mình để:
'Đọc toàn bộ văn thơ rồi lại đọc văn xuôi
Tất cả lý thuyết lại văn chơi'
Tản Đà đem tất cả những gì ông sáng tác để đọc cho Trời nghe, mỗi khi đọc, ông càng cảm thấy hài lòng và tự hào hơn, văn chương của mình cũng tỏ ra phong phú và tinh tế như mây trời. Nhà Trời và chư tiên xung quanh đều đặt tâm trí vào việc lắng nghe, hưởng thụ và đánh giá cao văn chương của tác giả. Tại đây, ta có thể nhìn thấy một cái tôi đang tràn đầy hứng khởi của Tản Đà khi ông mô tả:
'Tươi mới như hoa nở, lưng cật lực
...
Đọc xong mỗi bài cũng không quên vỗ tay'
Nếu ở dưới trần gian, nhà thơ còn gặp khó khăn trong việc lan truyền văn chương thì ở đây, tác phẩm của ông được chào đón và đánh giá cao. Điều này cho thấy sự kiêu hãnh và tự tin của ông đối với văn thơ và tài năng của mình, đúng không? Mặc dù văn thơ của ông không được trân trọng ở dưới thế giới, nhưng lại được các chư tiên trên trời 'chăm chú lắng nghe', thưởng thức và ca ngợi. Mỗi chư tiên có cách biểu đạt riêng, có người 'tươi mới như hoa nở', có người 'lưng cật lực', có người 'chau đôi mày',... nhưng tất cả đều đánh giá cao mỗi bài thơ mà Tản Đà đọc. Tản Đà kể một loạt biểu cảm của các tiên trên trời như một minh chứng cho sức hấp dẫn của văn chương của mình đối với nhà trời.
Hơn nữa, sau khi đọc xong các bài 'văn vần lại văn xuôi', nhà thơ liệt kê một loạt các tác phẩm nổi tiếng của mình như một cách chứng minh tài năng của mình:
'Những tác phẩm văn hóa đã in sâu vào lòng rồi
...
Chưa biết đã in ra bao nhiêu lần?'
Kể ra, nhà văn như đang khẳng định thành tựu văn chương phong phú của mình, khiến cho cả nhà trời phải tán dương rằng:
'Tài năng văn hóa của anh đa dạng, phong phú
...
Anh gánh lên đây bán cho trời'
Đọc đến đây, người đọc một lần nữa cảm nhận được cái tôi đặc biệt trong thơ của Tản Đà. Đó là một cái tôi tràn đầy niềm tự hào và kiêu hãnh, tự tin về tài năng của bản thân. Với những tác phẩm của mình, nhà thơ tự hào khi được nhà trời ca ngợi, được các chư tiên 'ao ước tranh nhau dặn'. Đối với một nhà thơ, được người đọc ca ngợi và ủng hộ tác phẩm của mình không phải là một điều đáng tự hào chăng?
Và với cách kể chuyện duyên dáng, hóm hỉnh, nhà thơ tiếp tục câu chuyện kể của mình:
'Trời thốt ra: 'Văn hữu thật tuyệt vời!'
...
Làm sao mỗi đêm được lên hầu trời.'
Sau khi đọc văn cho trời nghe và nhận được lời khen từ Trời về tài năng văn chương của mình, rõ ràng với tài năng đó, ông không bao giờ phải 'lo lắng về việc viết văn trống không', nhưng thực tế, nhà thơ lại phản ánh ngay thực trạng buồn của các nhà văn thời đó khi văn chương không được công nhận, đánh giá đúng giá trị của nó:
'Bán văn viết lời kiếm tiền phí
Sống năm tháng với lo âu văn chương trống trải
Thân phận thua kém so với người hát chèo'
Vì vậy, khi nhận được lời khen từ Trời bằng những lời ca ngợi vô giá, tác giả cảm thấy vô cùng hạnh phúc. Trời khen rằng văn thơ: 'thật tuyệt vời', 'văn chương như thế chắc chắn không phải ai cũng có', và sau đó:
'Văn từng chữ viết đẹp như ánh sao sáng
...
Mát như cơn mưa sa, lạnh như tuyết!'
Đây là những lời khen ngợi ca ngợi Tản Đà khi văn thơ của ông được so sánh với những vật phẩm đẹp nhất trên thiên đàng như sao băng, mây trôi, gió ru,... Trong đoạn thơ này, tác giả đã khéo léo thể hiện tài năng trong việc sáng tạo thơ ca của mình cũng như ý thức về bản thân mạnh mẽ. Nếu chúng ta thường ngưỡng mộ cái tôi độc đáo của Nguyễn Tuân, thì cũng phải nhớ đến cái tôi kiêu căng của Tản Đà khi ông tự nhận rằng: 'Vì tội ngông nên bị đày xuống hạ giới'. Sự kiêu căng ấy chỉ là ý thức về giá trị của bản thân, ý thức về thành công lớn và giá trị của tác phẩm trong sự nghiệp văn học của mình. Đó là những điều mà trong xã hội thời đó chưa được đánh giá đúng với Tản Đà.
Mặc dù kể một câu chuyện hư cấu, nhưng nhà thơ vẫn thể hiện trong đó cái hiện thực của bản thân.
'Xin Trời, thực trạng con nghèo đó thật đấy
...
Có dám làm không?'
Đọc đoạn thơ này, người đọc thấy đoạn đối thoại giữa Trời và Tản Đà, là sự giao phó trách nhiệm của nhà thơ:
'Trời quyết định thực hiện việc này
Là việc thiên hạ của nhân loại'
Đây là ý thức về trách nhiệm và lời an ủi của nhà thơ về vai trò cao quý của thi nhân đối với con người và cuộc sống. Tuy nhiên, thực tế là sự nghèo đói luôn đi cùng với những thi nhân chân chính thời ấy, như Tản Đà đã nói. Nỗi khổ kèm theo tài năng nhưng bị coi thường, văn chương bị coi là vô giá như bèo, và cả nỗi đói khổ lo lắng về cơm áo gạo tiền. Tản Đà miêu tả rất sinh động và rõ ràng về thực tế của bản thân. Lo lắng về cơm áo gạo tiền khiến thi nhân khó có thể thực hiện những ý nghĩa thiên lương mà Trời đã ban.
Cuối cùng, nhà thơ được Trời giao trở về. Cuộc tiễn biệt cho thi nhân rất trang trọng và lưu luyến. Khi trăng đã tàn, tiếng gà rộn ràng,... nhưng khi đứng giữa sân nhà, nhà thơ không khỏi lưu luyến, tiếc nuối về cuộc gặp gỡ ngắn ngủi với Trời và nghẹn ngào nói:
'Ba trăm sáu mươi đêm sao chỉ được mỗi đêm lên hầu trời.'
Bài thơ kết thúc nhưng lại gợi lại trong lòng người đọc những dư âm khó quên. Một câu chuyện tưởng tượng nhưng mang lại cảm giác gần gũi, sống động đến lạ kỳ. Sự hóm hỉnh, dân dã, và giản dị của Tản Đà cùng với lối thơ tự sự và lãng mạn linh hoạt tạo nên một phong cách đặc sắc và ấn tượng. Ở đây, chúng ta thấy rõ phong cách thơ độc đáo và ấn tượng của Tản Đà, với ý thức mạnh mẽ về cái tôi. Một cái tôi hiếm thấy ở một nhà thơ có tài năng và trách nhiệm như ông.
Bài thơ 'Hầu trời' không chỉ là một câu chuyện vui tươi mà còn chứa đựng nhiều triết lý về cái tôi của người nghệ sĩ. Tản Đà đã mang đến một làn gió mới cho văn học Việt và thể hiện sự độc đáo và tài năng của mình. Với lối thơ này, ông thể hiện một cái tôi sâu sắc và hiếm thấy trong văn học Việt.
Cảm nhận về bài Hầu trời - Mẫu 5
Khi còn ở những năm đầu của thế kỷ XX, trong một thời kỳ nước non này vẫn yên bình, một nhà thơ đã làm rung động giới văn học. Ông được biết đến như là người 'nằm vắt mình qua hai thế kỷ', 'gạch nối giữa hai thế kỷ', người đầu tiên đặt nền móng cho thơ mới. Đó chính là Tản Đà. Ông mang đến một tinh thần thơ lãng mạn, bay bổng nhưng đầy lòng từ bi, với phong cách tài năng, độc đáo nhưng vẫn giữ được bản sắc văn hóa dân tộc. Một trong những bài thơ tiêu biểu nhất cho cái tôi trong thơ ấy là Hầu Trời. Xuất hiện trong tập Còn chơi năm 1921, bài thơ đã tạo ra ấn tượng mạnh mẽ và khẳng định tài năng của nhà thơ.
Sử dụng thể thơ thất ngôn trường thiên một cách tự do và mở rộng, cùng với sự tự sự đậm nét, với các yếu tố như cốt truyện, tình huống, nhân vật, lời kể..., tác phẩm đã tạo ra một cấu trúc đặc biệt. Đó là câu chuyện 'hầu Trời' của chính tác giả - một thi sĩ, hoàn toàn hư cấu, nhưng lại được kể bằng một giọng điệu sâu sắc, tự nhiên và rất gần gũi. Kết hợp giữa cảm hứng lãng mạn và hiện thực, câu chuyện này được tổ chức qua ba sự kiện theo thứ tự thời gian: lý do được lên Trời đọc thơ, cảnh đọc thơ đầy hứng khởi của tác giả và sự tán thưởng, ngợi khen của Trời và các chư tiên, và cuộc chia tay đầy lưu luyến, xúc động.
Chắc chắn nhiều người vẫn nhớ rõ cách bắt đầu câu chuyện này của thi sĩ Tản Đà:
Tối qua không biết có thực hay không,
Không cảm thấy sợ hãi, không mơ màng.
Thực đáng kinh ngạc! Thực phi thường! Thực thân thể!
Thực đặc biệt lên tiên – thật sảng khoái lạ lùng,
Đây chỉ là một thông báo về việc “được lên tiên – sướng lạ lùng” đêm qua, một sự kiện mà nhiều người cho là chỉ là chuyện bịa đặt. Nhưng cách thi sĩ diễn đạt khiến cho người ta tin rằng đó là thật, một cách tự nhiên, không hề giả dối. Ông cũng nảy ra nghi vấn liệu có thật hay không theo cách tiếp cận khoa học nhưng vẫn khẳng định rằng: không hoảng sợ, không mơ màng, và có đến bốn lý do làm cho người ta tin tưởng. Cách bắt đầu câu chuyện vì thế rất khéo léo và duyên dáng, đến mức ngay cả thi sĩ Xuân Diệu cũng phải kính phục, ngưỡng mộ. Tình huống độc đáo, hấp dẫn của câu chuyện được mở ra.
Ngay sau đó, thi sĩ trình bày lý do được lên tiên cũng rất kỳ lạ. Trong đêm tối sáng, lúc bầy cừu đang canh ba, nằm cô đơn, tác giả ngồi dậy đun nước uống rồi thả mình vào việc viết thơ. Đột nhiên hai tiên xuống, vì tiếng lời ngân vang cả sông Ngân Hà khiến Trời không thể ngủ được nên Trời mời lên đọc thơ để nghe. Dường như khó tin, nhưng cách giải thích đầy hóm hỉnh và tự nhiên khiến cho người đọc cảm thấy thú vị, thực tế và đáng tin cậy. Câu chuyện trở nên càng lôi cuốn và hấp dẫn hơn. Vậy trước mặt Trời, thi sĩ sẽ thể hiện bản thân như thế nào?
Được đón tiếp với sự nồng nhiệt và trang trọng, ngồi trên những ghế bành như tuyết, nghe tiếng tràn ngập, thi nhân bắt đầu một buổi biểu diễn tài năng, mà khán giả không ai khác ngoài Trời và các chư tiên. Chỉ cần nghĩ đến đó đã là một câu chuyện hư cấu đầy thú vị, độc đáo chưa từng có. Việc lên tiên, lên trời không phải là một đề tài xa lạ, ngay cả với bản thân thi sĩ Tản Đà, nhưng việc lên đó để ngâm thơ, đọc thơ thì chắc chắn là chỉ có ông mới làm được. Vì thế với phong cách lãng mạn, thi nhân đã tái hiện lại cảnh đọc thơ cho Trời và các chư tiên nghe đầy hứng khởi, tự hào:
- Đọc hết văn vần chuyển sang văn xuôi
Hết văn thuyết lí lại văn chơi
- “Con dám đến trước cửa Trời
…Chưa biết con in ra mấy mươi?”
Đáng chú ý nhất ở đoạn này không phải là số lượng “tài năng văn chương” đa dạng mà thi nhân nhắc đến, cũng không phải ý định khoe khoang về tài năng, sự đẹp đẽ mà mình đã tạo ra, mà chính là sự đam mê, tự hào, niềm phấn khích, sự hứng khởi đối với những tác phẩm của mình. Có vẻ như thi sĩ đã tìm ra một đối tượng nghệ thuật đặc biệt đến kỳ lạ. Nghe thơ văn của con người mà Trời, các chư tiên nào là không nở mày, nhếch mép, giữ tay lại, và cùng vỗ tay, lại còn ủng hộ nhiều hơn mức yêu thích:
Chư tiên ao ước tranh nhau mời
- “Anh đem hàng bán chợ Trời!”
Những lời khen của Trời càng làm rõ điều đó:
Nghệ thuật viết đẹp như sao băng!
Tài năng văn học mạnh mẽ như mây chuyển!
Mềm mại như cơn gió, tinh tế như sương!
Dày đặc như mưa sa, lạnh lùng như tuyết!
Có thể nói cảnh này, mặc dù trên trời, nhưng không cảm thấy xa lạ, vì nó rất thực tế và ngay ngắn, và cách chư tiên gọi thi sĩ là “anh” cũng rất đáng yêu. Có lẽ vì vậy mà được hầu Trời đọc văn thơ là một cách để nhà thơ Tản Đà thể hiện hết sự phấn khích của mình, đồng thời cũng là cách để tự khẳng định bản thân trước xã hội một cách tinh tế. Đồng thời cũng là cách để thể hiện nỗi khát khao tri âm, đồng cảm với cuộc sống. Từ đây có thể thấy rõ một cái tôi tự do, táo bạo, và cái tôi tự hào đầy tài hoa.
Vậy việc lên trời của thi nhân không chỉ đơn thuần là “chán nản với cuộc sống thế thống”, mà còn là cách để thể hiện tài năng, cá tính độc đáo của nhà thơ, và là cơ hội để chia sẻ tâm sự về công việc và cuộc sống. Khi Trời nghe xong văn thơ, ngay lập tức hỏi về danh tính. Tản Đà không giấu diếm gì, tên và nghề nghiệp đều được tiết lộ. Trời dễ dàng phát hiện ra tên Nguyễn Khắc Hiếu, và đày xuống địa ngục vì tội ngông, thực ra là vì không thực hiện trách nhiệm thiên lương của mình. Dù bài thơ rõ ràng thể hiện phong cách riêng biệt của Tản Đà, nhưng có lẽ đến đây nhiều người đọc sẽ nghĩ rằng, có lẽ đã quá táo bạo và ngông nghênh. Câu chuyện hầu Trời, đọc thơ đã vượt xa việc chỉ thể hiện tài năng, vì ở đó, Tản Đà chia sẻ cả cái tính ngông nghênh và khát vọng thực hiện thiên lương trong cuộc sống. Có một thời ông mơ ước cải thiện xã hội qua văn chương, nhưng không thành. Và có thể đây là lý do mà nhà thơ đề cập đến nhiệm vụ này trong bài thơ. Có nhiều lý do cho thấy Tản Đà đã quá sức với mệnh trời ban. Bởi: - “Bẩm Trời, con thực sự nghèo khó”. Trong thời đại của mình, Tản Đà là người đầu tiên đưa “văn chương ra bán đường phố”. Nhưng cuộc sống không dễ dàng như người ta nghĩ, dù có tài năng văn chương nhưng không có đất, không có giấy, mực, không có cửa hàng, giá rẻ và lãi ít, học thêm nhưng đã già. Đừng nói việc thiên lương, thậm chí cuộc sống hằn về đời sống của ông rất khó khăn. Hơn thế, đó là tình trạng chung của giới văn nghệ sĩ trong những năm đầu của thế kỷ XX. Lên trời là cơ hội cho ông bày tỏ tâm trạng này. Với phong cách thực tế, nhà thơ đã trình bày lòng mình như mong muốn được sự thông cảm, khát khao tìm kiếm tri âm, và tự khẳng định bản thân giữa cuộc sống.
Bài thơ khép lại với một nỗi buồn sâu sắc, khiến người đọc cảm thấy hối tiếc khi phải rời bỏ thế gian xô bồ. Tiếng gà, tiếng người đã đánh thức tâm hồn của nhà thơ. Không chỉ là trong một khoảnh khắc, mà có lẽ là suốt cả cuộc đời, những nhà thơ luôn mong mỏi được bay lên bầu trời như thế. Tuy nhiên, điều quan trọng không phải là việc đạt đến thiên đường, mà là những khoảnh khắc trọn vẹn trong nghệ thuật của Tản Đà. Nhờ đó, người đọc có cơ hội chứng kiến sự hiện diện của một cái tôi, một bản ngã kiêu hãnh, tự tin vào tài năng và giá trị thực sự của bản thân, với mong muốn được khẳng định giữa cuộc đời phù phiếm. Vì vậy, dù có thể đó chỉ là một câu chuyện hư cấu, nhưng Hầu Trời vẫn mãi trong lòng người với những chi tiết gần gũi, giản dị, tự nhiên và tràn đầy hài hước như vậy.