
Viết tóm tắt về cuộc đời và sự nghiệp của một nhà văn/nhà thơ và cung cấp 3 câu trả lời hay nhất. Bài viết giúp học sinh có thêm tư liệu tham khảo và gợi ý để trả lời các câu hỏi trong phần Luyện tập bài viết tiểu sử tóm tắt.
Tiểu sử tóm tắt của nhà văn Huy Cận
Huy Cận, tên đầy đủ là Cù Huy Cận, sinh năm 1919 tại xã Ân Phú, huyện Hương Sơn, tỉnh Hà Tĩnh, trong một gia đình nho gia trưởng lên từ hoàn cảnh khó khăn.
Khi còn nhỏ, Huy Cận học ở quê, sau đó vào Huế học trung học và đậu vào trường Pháp; sau đó ông chuyển đến Hà Nội để học tại Cao đẳng Canh nông. Trong thời gian học ở Cao đẳng, ông ở cùng phòng với Xuân Diệu tại phố Hàng Than. Từ năm 1942, ông tham gia vào phong trào sinh viên yêu nước và Mặt trận Việt Minh, cùng tham dự Đại hội Quốc dân tại Tân Trào (tháng 8 năm 1945) và được bầu vào Ủy ban Giải phóng. Huy Cận cũng tham gia cùng nhóm Tự Lực Văn Đoàn.
Sau cách mạng tháng 8, Huy Cận giữ nhiều vị trí quan trọng trong chính quyền cách mạng, bao gồm thứ trưởng Bộ Văn Hóa, sau đó là Bộ trưởng đặc trách văn hóa Thông tin trong Hội đồng bộ trưởng của chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, phụ trách công tác văn hóa và văn nghệ.
Từ năm 1984, ông là chủ tịch Ủy ban Trung ương Liên hiệp các Hội Văn học nghệ thuật Việt Nam. Ngoài ra, ông còn là Đại biểu Quốc hội Việt Nam trong các kỳ họp I, II và VII. Vào tháng 6 năm 2001, ông được bầu làm viện trưởng của Viện hàn lâm Thơ Thế giới.
Huy Cận qua đời vào ngày 16 tháng 2 năm 2006 tại Hà Nội.
Các tác phẩm nổi tiếng của Huy Cận bao gồm: Bài thơ cuộc đời, Những năm sáu mươi, Lửa hồng muối mặn, Đất nở hoa, Một cuộc cách mạng trong thi ca, Suy nghĩ về nghệ thuật, Hạt lại gieo, Suy nghĩ về nghệ thuật, Ngôi nhà giữa nắng, Cô gái mèo,...
Tóm tắt cuộc đời của Tố Hữu
Tố Hữu, nhà thơ, nhà cách mạng có tên thật là Nguyễn Kim Thành, xuất thân từ làng Phù Lai, hiện thuộc xã Quảng Thọ, huyện Quảng Điền, tỉnh Thừa Thiên Huế.
Sớm tham gia vào phong trào cách mạng, Tố Hữu từng trải qua nhiều ngày giam giữ nhưng vẫn kiên trì theo đuổi con đường cách mạng suốt cuộc đời. Ông tham gia tích cực vào hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ, đảm nhận nhiều vị trí quan trọng như Chủ tịch ủy ban khởi nghĩa Huế trong cuộc cách mạng tháng Tám năm 1945, phụ trách văn hóa nghệ thuật tại cơ quan Trung ương Đảng ở Việt Bắc, Ủy viên bộ chính trị Đảng cộng sản Việt Nam, Bí thư trung ương đảng, Phó chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng.
Cuộc đời và cuộc cách mạng của Tố Hữu luôn liên kết với thơ ca. Ông để lại dấu ấn lớn trong văn học cách mạng Việt Nam với bảy tập thơ: Từ ấy (1937-1946), Việt Bắc (1946-1954), Gió lộng (1955-1961), Ra trận (1962-1971), Máu và hoa (1972-1977), Một tiếng đờn (1992) và Ta với ta (1999). Thơ của Tố Hữu không chỉ là công cụ truyền bá cách mạng mà còn đạt đến tầm cao nghệ thuật. Với ông, thơ cách mạng thể hiện sự kết hợp giữa chính trị và tình yêu dân tộc, mang đậm tinh thần sử thi, kết hợp lãng mạn và cảm động.
Tố Hữu là biểu tượng hàng đầu của văn học cách mạng Việt Nam. Thông qua thơ của ông, ta thấy được giá trị và sức sống của văn học cách mạng, là một phần không thể thiếu của văn hóa dân tộc, coi trọng nhất là số phận của cả dân tộc.
Tóm tắt cuộc đời của nhà văn Nam Cao
Nhà văn Nam Cao, hay còn gọi là Trần Hữu Tri, sinh năm 1915 tại làng Đại Hoàng, huyện Nam Sang, tỉnh Hà Nam (nay là xã Hòa Hậu, huyện Lí Nhân, tỉnh Hà Nam), trong một gia đình nông dân.
Là con một trong gia đình đông con nhưng vẫn được cha mẹ nuôi dưỡng tốt, Nam Cao sau khi học xong trình độ cơ bản đã vào Sài Gòn làm công việc giúp việc cho một hiệu may và bắt đầu sự nghiệp văn chương.
Sau một thời gian bị ốm, ông trở về quê, dạy học tại Hà Nội và sau đó chuyển sang viết văn. Tham gia Hội văn hóa cứu quốc và tham gia tích cực vào kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ, Nam Cao đã hy sinh vào tháng 11 năm 1951 khi công tác tại vùng địch hậu.
Tác phẩm của Nam Cao thường xoay quanh cuộc sống của những tầng lớp nghèo khổ, dù là người trí thức hay nông dân, và thường phản ánh những vấn đề xã hội đang diễn ra. Ông làm rõ những góc khuất của xã hội, đồng thời phê phán tình trạng con người bị hủy hoại. Sau Cách mạng tháng 8, ông tiếp tục sáng tác một số tác phẩm như 'Đôi mắt', 'Ở rừng', 'Chuyện biên giới'... góp phần làm giàu văn học cách mạng của nước ta.