Dọn về làng là một bài thơ của Nông Quốc Chấn viết về quê hương trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp. Bài thơ này đã đoạt giải nhì tại Đại hội liên hoan thanh niên và sinh viên thế giới tại Béc-lin.
Mẫu văn lớp 12: Phân tích bài thơ Dọn về làng, chúng tôi hy vọng tài liệu này sẽ giúp các bạn chuẩn bị tốt cho kỳ thi THPT Quốc gia sắp tới. Đây là một số văn mẫu phân tích bài thơ Dọn về làng, mời các bạn tham khảo.
Phân tích bài thơ Dọn về làng - Mẫu số 1
Nông Quốc Chấn là một nhà thơ, hoạt động văn hóa và dân tộc Tày tại Bắc Cạn. Từ một giáo viên hiền lành, ông sớm tham gia vào cách mạng và trải qua những thử thách của chiến tranh, ông trở thành một cán bộ kiên trì, một nhà hoạt động văn hóa, và một nhà thơ nổi bật của Đảng và dân tộc.
Bài thơ 'Dọn về làng” được viết trong chiến dịch Biên giới thu - đông năm 1950, là tác phẩm tiêu biểu nhất của Nông Quốc Chấn. Ban đầu viết bằng tiếng Tày, sau đó tác giả dịch sang tiếng Việt theo thể thơ tự do. Năm 1951, tại Đại hội liên hoan học sinh sinh viên thế giới tại Béc-lin, bài thơ đã nhận giải Nhì và được dịch sang tiếng Pháp, xuất hiện trên Tạp chí Châu Âu.
Nhà thơ đã sử dụng sự tương phản giữa khổ đau quá khứ và niềm vui chiến thắng để ca ngợi sự hồi sinh, sự vươn lên của quê hương và của các dân tộc Cao-Bắc-Lạng.
Bài thơ 'Dọn về làng” bắt đầu bằng tiếng gọi của mẹ, báo tin vui, tin chiến thắng:
“Mẹ! Cao - Lạng đã hoàn toàn giải phóng
Tây bị chết bị bắt sống hàng loạt
Quân vệ quốc chiếm lại các đồn cứ
Người đông như kiến, súng đầy như củi”
Đoạn thơ tái hiện lại cảnh chiến trường Biên giới năm 1950. Đường số Bốn của địch bị chặt đứt, phá tung. Quân đội ta tiêu diệt hai binh đoàn Sác-tông và Lơ-pa, hàng ngàn quân địch Tây bị tiêu diệt hoặc bị bắt. Hai so sánh “Người đông như kiến, súng đầy như củi” thể hiện sức mạnh và khí thế chiến đấu, chiến thắng của quân dân ta.
Từ niềm vui chiến thắng, đứa con đau đớn nhớ lại những năm dài gian khổ, đau khổ dưới ách kìm kẹp, chiếm đóng của lũ giặc Pháp tàn bạo.
Trên con đường trở về làng xưa để “sửa nhà xây phát triển”, để “cày ruộng trồng lúa ngô khoai”, đứa con đầy nuối tiếc nhớ lại:
“Mấy tháng năm qua quên tết tháng giêng, quên rằm tháng bảy
Chạy khắp núi rừng. Chịu đựng đủ mọi khó khăn”.
Những lễ hội lâu đời phải “quên” đi! Những nét đẹp văn hóa của dân tộc phải “quên” đi. Bàn thờ tổ tiên lạnh giá, không còn hương khói. Trải qua nhiều khó khăn vì chống giặc triền miên: “Chạy khắp núi rừng, chịu đựng đủ mọi khó khăn”.
Không thể quên những kỷ niệm đau thương trong những năm kháng chiến, với bao thiên tai và kẻ thù. Mưa rừng rú rít, gió bão lay động, sấm sét vang vọng, nhà cửa sập đổ, cửa nát, chân đầy vết vết. Kẻ thù tàn ác đốt phá, cướp bóc, gây ra bao bi kịch:
“Súng lại nổ! Giặc Tây tới lùng loạn
Đốt sạch những căn nhà trần gian
Hắn còn nhét đầy áo quần trong túi…”
Đoạn thơ như một đoạn phim ghi lại cảnh chạy trốn trong rừng sâu của nhân dân vùng biên giới phía Bắc nước ta trong những năm đầu kháng chiến chống Pháp. Lời kể và miêu tả mở ra một không gian nghệ thuật sâu sắc với nhiều chi tiết hiện thực, rất sống động và xúc động. Cảnh người mẹ chạy trốn kẻ thù, ôm con, vẫy em, vừa “Tay dắt bà, vai đeo đầy chân gỗ - Bà mù mắt không biết bước đi”. Cảnh người cha bị kẻ thù bắt, “Cha chửi giặc, đánh lại Tây” rồi bị giết một cách tàn bạo:
“Súng lại nổ dữ dội,
Cha ngã xuống nằm trên đất đầy
Cảnh mai táng người chồng, người cha yêu dấu:
“Lán anh em rải rác không biết tìm đâu
Mẹ tháo khăn phủ mặt cho chồng,
Con cởi áo che thân cho bố,
Mẹ con ẵm cha đi nằm chôn dưới rừng
Máu đầy tay, nước tràn mặt…”
Tất cả những cảnh đau lòng và thương tâm được nhà thơ tái hiện một cách chân thực với nhiều máu và nước mắt. Sau tiếng khóc nức nở là tiếng thét căm hận, uất hận vang vọng:
“Mày sẽ chết! Kẻ giặc Pháp hung ác
Móp xương thịt mày, tao mới hả”
Qua đó, ta nhận thấy rõ: máu không thể làm mờ chân lý; súng đạn của kẻ thù không thể khuất phục được dân tộc ta.
Phần thứ hai của bài thơ tôn vinh niềm vui giải phóng, quê hương hồi sinh, sức mạnh của dân tộc nổi lên vô cùng mạnh mẽ.
Âm thanh rộn ràng khắp vùng Cao-Bắc-Lạng. Có tiếng “cười vang”, tiếng “nói chuyện”, tiếng cười của trẻ nhỏ “ríu rít” khi mang sách đến trường. Có tiếng xe ô tô “vang vọng”; tiếng gà gáy, tiếng chó sủa. Có nhiều hình ảnh đáng yêu náo nức:
Phân tích bài thơ Dọn về làng - Mẫu số 2
Nông Quốc Chấn là một trong những biểu tượng văn hóa, đại diện cho lớp trí thức các dân tộc thiểu số trong cuộc chiến tranh cách mạng và vệ quốc. Đặc biệt, ông được biết đến với sự đóng góp xuất sắc trong lĩnh vực thơ ca. Thơ của Nông Quốc Chấn thể hiện tình cảm chân thành, chất phác và đậm đà nét đặc trưng của miền núi: giản dị, tự nhiên và đầy hình ảnh. Với những đóng góp to lớn cho văn học nước nhà, ông đã được trao Giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật vào năm 2000. Bài thơ 'Dọn về làng' là một trong những tác phẩm nổi bật của Nông Quốc Chấn, về quê hương trong những năm đấu tranh chống thực dân Pháp đầy đau khổ và dũng cảm.
Bài thơ chứa đựng những cảm xúc sâu sắc và tình yêu thương nồng nàn của tác giả dành cho dân bản xứ và đất nước. Ông trân trọng và chia sẻ những khó khăn, nỗi đau mất mát mà nhân dân phải chịu đựng, đồng thời bày tỏ sự căm hận trước tội ác tàn bạo của kẻ thù. Cuối cùng, chiến thắng thuộc về nhân dân, mọi người được trở về làng quê bắt đầu cuộc sống bình yên như xưa.
Mẹ ! Cao – Lạng hoàn toàn giải phóng
Tây bị chết bị bắt sống hàng đàn
Vệ quốc quân chiếm lại các đồn
Người đông như kiến, súng đầy như củi
Sáng mai về làng, sửa nhà phát cỏ
Cày ruộng vườn trồng lúa ngô khoai
Không gì đau đớn bằng chiến tranh, nhưng cũng không gì hạnh phúc bằng chiến thắng trong cuộc chiến. Vượt qua những gian khổ, hy sinh, nhân dân Cao – Bắc – Lạng đã hoàn toàn giải phóng. Đoạn thơ bắt đầu bằng tiếng 'Mẹ !'. Sau dấu chấm than đầy xúc động đó là niềm vui không thể diễn tả khi ngày chiến đấu kết thúc. Kẻ thù bị tiêu diệt, các đồn bị chiếm lại. Nhân dân ở đây đã có một chiến công to lớn, đem lại hạnh phúc cho chính mình, giải phóng khỏi ách nô lệ bấy lâu:
Giặc đến phá tan cuộc sống yên bình của dân làng, thôn xóm. Những dịp lễ tết riêng biệt như tết Nguyên đán, tết Trung thu đã bị giặc đốt sạch, lửa lan tràn khắp nơi, để lại nỗi đau thương mất mát trong lòng dân. Cảnh người mẹ với đứa con trên vai chạy vào rừng đã khiến nhiều người xót xa. Trẻ thơ bị ép buộc phải lẩn trốn trong rừng núi, phải đối mặt với nguy hiểm, nỗi sợ hãi. Nông Quốc Chấn không quên đề cập đến những trường hợp những đứa trẻ chết vì thiếu sữa giữa rừng, hoặc những người mẹ không thể tiếp tục bảo vệ con mình. Đây là những hình ảnh đau lòng mà quân giặc Pháp đã gây ra. Dân làng bị dồn vào tình trạng hoang mang, không biết đi đâu để tránh lũ giặc. Ta phải chống lại. Chính vì thế, bằng mọi cách ta phải đứng lên chống lại kẻ thù, đấu tranh cho công lý và bình yên cho những người dân thân yêu.
Không có ai đưa cha đi chôn cất
Mẹ dùng khăn che mặt cho chồng
Con cởi áo che ấm bố
Mẹ ôm cha đi nằm dưới chân rừng
Máu trên tay, nước mắt trên mặt…
Chiếc khăn mà cha từng tặng mẹ, là biểu tượng của tình yêu, giờ đây lại là vật che mặt cha trong giờ chia ly vĩnh viễn. Bây giờ mẹ phải một mình lo lắng cho đàn con thơ và người mẹ già yếu. Cha đã đi, chúng con mất đi điểm tựa vững chắc, mẹ phải đứng lên thay cha gánh vác mọi thứ. Mẹ ôm cha đến tận chân rừng, trao lại cha cho thần rừng thần núi, hẹn kiếp sau gia đình sẽ sum họp đầy đủ. Có bao nhiêu người cha đã ngã xuống dưới âm thanh súng đạn của kẻ thù tàn bạo. Bao nhiêu người vợ phải đau đớn nhìn chồng nằm đó, không động? Bao nhiêu đứa trẻ vô hồn gào khóc gọi tên cha? Kẻ giết cha, giết chết tình cha con. Để tao phải trả thù, băm xương thịt mày mới đủ !
Và chính nhờ sự quyết tâm đó, nhân dân Cao – Lạng đã đạt được chiến thắng rực rỡ.
Sau chiến tranh, gia đình không còn nguyên vẹn nhưng không mất thêm ai nữa. Niềm vui không thể diễn tả. Ai cũng hào hứng bắt tay vào xây dựng cuộc sống mới, bỏ quên những ngày rằm tháng riêng, rằm tháng bảy. Người lớn nỗ lực làm việc, trẻ em vui đùa làm rộn vang cả một vùng núi rừng thân yêu và hùng vĩ.
Sau chiến tranh, các con càng trưởng thành và quyết tâm hơn, sẵn sàng bước theo lời gọi của Tổ quốc:
Mặt trời sáng rồi ạ !
Con ra đi bộ đội, mẹ ở lại nhà
Giặc Pháp, Mĩ vẫn đang giết người, cướp của trên đất nước ta
Hãy đuổi chúng đi, con sẽ về trông mẹ.
Đứa con nhỏ xưa nay đã nguyện làm người thay cha cầm súng chống giặc, đem lại yên bình cho gia đình, cho dân làng. Hình ảnh mặt trời tỏa sáng rõ ràng trong bài thơ, vượt qua những gì giặc địch đã gieo rắc. Trên ngọn núi, cha sẽ hạnh phúc với con trưởng thành, theo đuổi lý tưởng cách mạng, quyết tâm bảo vệ công lý cho những người đã hi sinh.
Suốt bài thơ, Nông Quốc Chấn thể hiện tình yêu quê hương, đất nước sâu sắc qua những hình ảnh chân thực, đậm chất dân tộc, giọng thơ nồng nàn, hân hoan khi hòa bình trở lại. Ông chỉ ra tội ác của thực dân Pháp đã giết chết nhiều người, gây ra nỗi đau trong gia đình. Bài thơ là biểu tượng của lịch sử dân tộc, là sự ca ngợi tinh thần chiến đấu của nhân dân trong khó khăn, thiếu thốn. Thế hệ trẻ hôm nay hãy quyết tâm học tập tốt, rèn luyện đức tính để trở thành những người có ích, xây dựng đất nước ngày càng giàu đẹp.
Phân tích bài thơ Dọn về làng - Mẫu 3
Bài thơ được viết sau khi chiến thắng giải phóng biên giới, một chiến thắng có ý nghĩa lịch sử trong cuộc kháng chiến chống Pháp, mở ra mối liên kết với các nước xã hội chủ nghĩa. Tuy nhiên, bài thơ không đi sâu vào mặt trận chính trị. Ở đây, bài thơ đề cập đến ý nghĩa của sự giải phóng đối với cuộc sống của bà con nhân dân. Ý nghĩa này được thể hiện qua cách kể chuyện và miêu tả, không sử dụng bút pháp chính luận.
Nét đặc sắc đầu tiên là giọng kể: chân thành, sinh động, và cụ thể. Bài thơ mở đầu bằng một hình ảnh tiêu biểu về chiến thắng, được miêu tả chân thật và độc đáo:
Giặc Pháp bị tiêu diệt, quân vệ quốc tái chiếm các đồn trại
Người dân như kiến, vũ khí tràn ngập như củi
Suốt bài thơ, cách kể và tư duy của bà con nhân dân được giữ nguyên. Các chi tiết đời sống tự nhiên và rất chân thực, phản ánh cách tư duy cụ thể của dân tộc. Ngày chiến thắng như một ngày lễ hội khi 'người dân như kiến' là một so sánh thông thường. Nhưng 'vũ khí tràn ngập như củi' là đặc trưng của cuộc sống miền núi, gần rừng, nơi củi là nguồn nhiên liệu phổ biến. Người không quen sử dụng bếp ga sẽ không hiểu được cách ví von này.
Bố cục bài thơ phản ánh tư duy của người dân thường. Sau tiếng reo là sự phấn khởi khi giặc bị đánh bại, và cuối cùng là quang cảnh sinh hoạt sau chiến thắng. Bố cục này rất dễ tiếp nhận cho người đọc, kể cả những người ít học miền núi. Điểm nổi bật của bài thơ là cách miêu tả chi tiết. Tình huống chạy trốn giặc, quên lễ hội truyền thống, quên ngày lễ tôn giáo, đường đi vắt bám, cơn bão, cây đổ, đau đớn với mùi cay… Sự biểu đạt tình cảm của người con trước cái chết bi thương và lòng dũng cảm của người cha. Tác giả lồng ghép lời kể chuyện của người con cũng như tâm sự (tự sự kết hợp với trữ tình):
Mẹ ngồi khóc con, con cúi đầu cũng rơi lệ
Sợ Tây nghe, mẹ dặn con im lặng
Mẹ tháo khăn che mặt chồng
Con cởi áo lụa để cho bố mặc
Người chết thảm, người sống cũng thảm, cảnh sống khốn khổ đến cực điểm đã đạt cao trào. Giải phóng trở thành yêu cầu cấp bách của từng người dân. Đánh đuổi giặc là điều không thể thiếu trong cuộc sống khó khăn này. Bài thơ đặc sắc ở những chi tiết cuối cùng - về cảnh dọn về làng và cuộc sống tại làng sau ngày giải phóng:
Người nói rằng cỏ lay trong rừng rậm
Cuốc đất để làm sạch cỏ như mẹ khuyên con
Âm thanh của xe ô tô vang lên trên đường
Trong trường ríu rít tiếng cười của trẻ em
Khói bếp mờ mờ bay trên mái nhà lá.
Khung cảnh làm no ấm... Mỗi chi tiết hiện lên từng nét. Tác giả không phê bình hay ca ngợi quá nhiều. Ông chỉ đơn giản miêu tả. Tả thoáng nhưng đầy đủ. Mỗi khía cạnh cuộc sống được thể hiện bằng một nét, rất gợi cảm: Người nói về ruộng nương, khói bếp bay trên mái nhà lá là hình ảnh của sự thanh bình và ấm áp. Tiếng ô tô, tiếng cười của trẻ em cho thấy sự vui tươi của làng quê... Có những chi tiết rất tinh tế gợi lên bản sắc của cuộc sống núi rừng và đời sống của nhân dân, với ý nghĩa rất thiết tha.
Thậm chí con hổ cũng không dám tới làm tổ trong vườn chuối
Trái cây trong vườn không cần lo, chín tự nhiên, rụng tự do
Khái niệm giải phóng mang ý nghĩa quay trở về với quy luật cuộc sống: mọi thứ đều quay về vị trí của nó, quả chín nhờ vào tay con người.
Kể chuyện vẫn thể hiện được cảm xúc cá nhân. Nhiều chi tiết mà không quá phức tạp, ngược lại mỗi chi tiết như một nét khắc sâu sắc: cụ thể nhưng súc tích. Đây không chỉ là kết quả của một quan sát tinh tế mà còn là kết quả của sự trải nghiệm. Tác giả sống cùng những chi tiết đó, thấm nhuần về nội dung. Chất thơ ở đây là chất của cuộc sống. Bài thơ, do đó, mang đậm nét đặc trưng của thơ kháng chiến chống Pháp: miêu tả hiện thực rộng lớn và nỗi riêng tư của tác giả hòa nhập vào hiện thực đó.
..............
Mời các bạn tham khảo nội dung chi tiết trong tập tin dưới đây!