Phân tích khổ thứ 3 của Việt Bắc bởi Tố Hữu bao gồm 15 mẫu văn siêu hay kèm theo 3 gợi ý cụ thể. Qua việc phân tích đoạn 3 Việt Bắc, học sinh có thể chọn cho mình cách tiếp cận và phong cách văn phong phù hợp, để từ đó nắm vững kiến thức.
TOP 15 mẫu phân tích đoạn 3 Việt Bắc xuất sắc dưới đây được viết một cách rõ ràng, dễ hiểu, giúp mở mang kiến thức và nâng cao kỹ năng về Ngữ văn, chuẩn bị tốt hơn cho việc học. Ngoài ra, còn có thể tham khảo phân tích khổ 4 Việt Bắc và bài thơ Việt Bắc khác.
Dàn ý phân tích đoạn 3 bài thơ Việt Bắc
I. Bắt đầu:
- Giới thiệu về 12 dòng thơ trong bài thơ Việt Bắc
II. Nội dung chính:
* Phân tích 4 dòng đầu tiên
- Tiếng 'mình' vang lên gần gũi, quen thuộc → tình cảm sâu sắc, thiết tha
- Câu hỏi mang sự trách móc và lo âu: mưa từ nguồn, mây và sương mù, miếng cơm chấm muối, mối thù chung
- Nhịp thơ 2/4; 2/2/4 đều đặn làm nổi bật sự tận tụy trong lòng những người ở lại
* Phân tích 6 câu tiếp theo
- Sử dụng lối xưng hô 'mình', 'ta' độc đáo, chỉ hai nhưng lại là biểu tượng của những người cách mạng đã trở về.
- 'Rừng núi' là cách diễn đạt ẩn dụ chỉ những người dân trong vùng chiến địa Việt Bắc.
- Người cách mạng ra đi không chỉ để lại nỗi nhớ trong lòng người ở lại mà cảnh vật cũng ngập tràn nỗi buồn và nỗi nhớ: lá trám rụng; măng mai già.
- Tình cảm sâu đậm của nhân dân Việt Bắc luôn tỏa sáng
=> Nhân dân Việt Bắc vẫn luôn dành cho cách mạng và các cán bộ miền xa một tình cảm bền chặt, vững vàng như lòng son
* Phân tích 2 câu cuối của đoạn văn
- 3 lần sử dụng từ 'mình' trong hai câu thơ chỉ rõ sự chia ly giữa người ở lại và người ra đi
- Sự hòa hợp, sự hiểu biết lẫn nhau giữa nhân dân và cách mạng
- Gợi nhắc về tính trung thành với quá khứ khi nhắc đến những điểm dấu mốc của cách mạng: Tân Trào, Hồng Thái
III. Tóm lại:
- Xác nhận lại giá trị của đoạn văn và tài năng của tác giả.
Phân tích đoạn 3 của bài thơ Việt Bắc - Mẫu 1
Khi đánh giá về Tố Hữu, nhà thơ Nguyễn Đình Thi đã viết rằng 'Suốt cuộc đời, Tố Hữu là một chiến sĩ cách mạng làm thơ và là thơ của cách mạng [...], và trong những tác phẩm thơ của anh, đầy yêu thương dành cho đất nước, quê hương và những con người của nó. Từ cuộc sống hiện đại, thơ của anh ngày càng quay về với hồn thơ cổ điển của dân tộc'. Đúng vậy! Nhận định này được thể hiện rõ qua bài thơ 'Việt Bắc' của Tố Hữu. Qua mười hai câu thơ đầu tiên, tác giả đã làm cho người đọc cảm nhận được tình cảm đậm sâu trong cuộc chiến.
Bài thơ được sáng tác vào tháng 10 năm 1954, khi cơ quan Trung ương Đảng và Chính phủ chuyển từ Việt Bắc về thủ đô Hà Nội. Sự chia tay đầy xúc động ấy đã truyền cảm hứng cho Tố Hữu viết nên bài thơ. Bài thơ không chỉ tôn vinh cuộc kháng chiến kiên cường của dân tộc mà còn ca ngợi tinh thần trung thành của nhân dân với cách mạng.
Khổ thơ thứ ba là lời nhắn nhủ sâu lắng, tình cảm của những người ở lại gửi đến những người ra đi:
'Khi ra đi, có nhớ những ngày
Mưa từ nguồn, mây và sương mù
Khi trở về, có nhớ chiến khu
Miếng cơm chỉ có một chút muối, và gánh nặng của mối thù'
Từ 'nhớ' được lặp lại để nhấn mạnh sự khao khát, sự nhớ nhung tràn đầy, lấp đầy không gian và thời gian. Người ở lại nhắc nhở người ra đi liệu họ có nhớ 'mưa từ nguồn, mây và sương mù' hay không? Đó là hình ảnh của thiên nhiên hoang sơ, ẩn chứa nhiều nguy hiểm. Nhưng bước chân của người lính vẫn tiến lên, vượt qua mọi khó khăn. Họ còn nhớ không khi chỉ có 'miếng cơm và một ít muối'. Họ thiếu thốn nhưng không phải là đói, thiếu vải nhưng không là rét. Bởi lòng nhân ái sẽ chia sẻ mọi khó khăn. 'Chúng ta' và 'mình' gánh vác trách nhiệm chung - nhiệm vụ giải phóng dân tộc mà nhân dân ủy thác, đó chính là 'mối thù trên vai' - mối thù của kẻ thù Pháp đang nặng nề.
'Khi trở về, rừng núi có nhớ ai?
Lá trám bùi rụng, măng mai đã già
Khi ra đi, có nhớ những ngôi nhà
Chiếc quạt lau xám, lòng son đậm đà'
Thiên nhiên cũng hòa mình vào nỗi nhớ của người ra đi. Cụm từ 'Lá trám bùi rụng', 'măng mai đã già', 'chiếc quạt lau xám' như mô tả sự hoang vu, hiu quạnh của cảnh vật tự nhiên. Sự trở về của người khiến cho mọi vật cũng như lấp đầy nỗi nhớ. Nhưng, cụm từ 'đậm đà lòng son' như một sự khẳng định về tình yêu cách mạng son sắt, trung thành không thể thay đổi.
Cuối cùng, người ở lại nhắc nhở người ra đi về hành trình chiến đấu của cả dân tộc:
'Khi trở về, còn nhớ núi non
Nhớ thời chiến Nhật, ngày còn là Việt Minh
Khi ra đi, liệu có nhớ chính bản thân mình?
Tân Trào, Hồng Thái, nhà tranh, cây đa'?
Người ở lại gợi nhớ về những thời điểm 'kháng Nhật', 'Việt Minh'. Những cuộc chiến đó chứa đựng nhiều kỷ niệm, cả gian khó và niềm vui của người lính. Câu thơ 'Khi ra đi, liệu có nhớ chính bản thân mình?' có ba từ 'mình'. Hai từ đầu dành cho người ra đi. Từ thứ ba có thể ám chỉ người ra đi. Người ở lại muốn nhắc nhở người ra đi liệu họ có nhớ bản thân của mình không? Tình người, tình cách mạng.
Bằng cách sử dụng điệp từ, nhân hóa kết hợp với lối thơ tâm tình, Tố Hữu đã gợi lại kỷ niệm về thời kỳ kháng chiến, tình cảm cách mạng không thể quên. Đó chính là những con người dũng cảm đã làm nên những chiến công 'lừng lẫy năm châu' của dân tộc.
Qua khúc thơ này, Tố Hữu đã thành công trong việc thể hiện tài năng và tâm hồn phong phú, giàu cảm xúc của mình. Ông cũng tôn vinh tình cảm nhớ thương, lòng trung thành với thiên nhiên và con người Việt Bắc. Điều này khiến độc giả càng khâm phục, yêu mến tác phẩm thơ của Tố Hữu hơn. Đồng thời, họ cũng trân trọng những hy sinh của những thế hệ đi trước, những người đã dũng cảm vượt qua khó khăn để bảo vệ độc lập và tự do cho quê hương.
Phân tích đoạn 3 của bài thơ Việt Bắc - Mẫu 2
Tố Hữu là một trong những nhà thơ vĩ đại của dân tộc, cuộc đời ông liên quan chặt chẽ đến cách mạng, và tác phẩm thơ của ông thường gắn liền với những sự kiện lịch sử hào hùng của cuộc kháng chiến. Do đó, khi nhắc đến Tố Hữu, người ta thường nghĩ đến một nhà thơ đầy yêu nước, đầy nhiệt huyết và lý tưởng. Điều đặc biệt trong thơ của Tố Hữu là sự kết hợp giữa trữ tình và chính trị.
Bài thơ Việt Bắc là một trong những thành tựu lớn trong sự nghiệp sáng tác của Tố Hữu. Tác phẩm được sáng tác vào năm 1954, sau khi miền Bắc được giải phóng, và là một biểu tượng cho sự hòa bình trở lại, khi nhà thơ cùng với Trung ương Đảng và Chính phủ trở về từ miền núi rừng. Với dòng thơ dân tộc và lối viết nhẹ nhàng nhưng đầy cảm xúc, Việt Bắc như một khúc tâm ca của người cách mạng với vẻ đẹp tự nhiên và con người Việt Bắc. Tình thương của nhân dân dành cho cán bộ và của cán bộ dành cho nhân dân được thể hiện rõ qua từng câu thơ. 12 câu thơ đầu tiên của khúc thơ thứ ba đã truyền đạt sâu sắc tình yêu thương đó.
'Khi ra đi, có nhớ những ngày
Mưa từ nguồn suối, mây cùng mưa
Khi trở về, có nhớ chiến khu
Miếng cơm có chút muối, gánh nặng của mối thù'
Lối gọi 'mình- ta' thường được sử dụng trong ca dao, dân ca Việt để thể hiện sự gần gũi trong tình cảm của con người. Tác giả đã áp dụng lối gọi này vào bài thơ để tạo sự gần gũi, ân tình giữa người đi và người ở. Tiếng 'mình' như là biểu hiện của sự yêu thương, gần gũi, thân thuộc, đầy quen thuộc. Những câu hỏi giống như trách móc nhưng vẫn mang đầy ngọt ngào, sự phân vân, lo lắng của đôi lứa: Liệu khi mình ra đi, liệu có còn nhớ những ngày xưa? Mình có nhớ những ngày cùng nhân dân vượt qua gian khổ, khắc nghiệt của thời tiết, tự nhiên để chiến đấu không? Mình có nhớ nơi chiến khu yêu dấu vẫn còn đó bóng dáng con người nơi đây đợi chờ, quyến luyến hay những bữa cơm chung muối trong gian khó? Nhịp thơ 2/4; 2/2/4 nhịp nhàng, đều đặn thể hiện sự thiết tha trong lòng người ở lại. Nỗi nhớ người cách mạng càng đong đầy, những kí ức của quá khứ càng trỗi dậy xúc động. Bằng cách liệt kê quen thuộc trong nghệ thuật, tác giả đã tái hiện lại những câu chuyện hành quân cùng nhân dân Việt Bắc. Đó là nơi tiền tuyến mây mù, suối lũ, đầy rẫy những thách thức, hiểm nguy mà dân và lính chiến đấu, không sợ hãi, chùn bước. Đó là những bữa cơm nghèo chia sẻ với nhau, miếng cơm chung muối ấm áp. Đó là mối thù chung của dân và cán bộ, của dân tộc khi kẻ thù xâm lược tàn bạo. Gánh nặng chung trên vai là gánh nặng của quân thù, cách mạng và dân hòa trong tinh thần đoàn kết, dũng cảm bước vào cuộc chiến đấu để đánh bại quân thù, giải phóng đất nước. Trong từng tiếng thơ, không có sự than vãn hoặc mệt mỏi trước khó khăn mà thay vào đó là cảm giác tự hào của người ở lại. Họ tự hào về những tháng ngày anh dũng, về những hành trình vượt khó, mình và ta đồng hành bên nhau, chiến đấu để đánh bại quân thù, giành lại hoà bình, tự do cho dân tộc.
Sau khi hồi tưởng lại những kỉ niệm xưa, nhân dân tiếp tục diễn đạt tình cảm chân thành, nỗi lưu luyến với người ra đi:
'Mình về, rừng núi nhớ ai
Trám bùi để rụng, măng mai để già'
Lối gọi 'mình', 'ai' thật độc đáo, chỉ hai mà một, hình ảnh những người cách mạng đã về xuôi. 'Rừng núi' là cách diễn đạt ẩn dụ để chỉ những người dân nơi chiến khu Việt Bắc. Các cán bộ đã trở về thủ đô của sự phồn hoa, còn nhớ không nơi núi rừng đại ngàn với nắng gió? Nhưng với người ở lại, nỗi 'nhớ' vẫn sâu đậm, nó thấm vào từng khung cảnh nơi đây: rừng núi, trám bùi, măng mai...Cảm xúc buồn bã vì phải chia xa mà nhân dân dành cho chiến sĩ thật chân thành, thắm thiết, đầy xúc động.
Nỗi nhớ trào dâng khi nghĩ về người ra đi, nhân dân không thể không lo sợ rằng ai đó sẽ quên đi 'người ở lại', nhưng họ vẫn hỏi:
'Khi ra đi, liệu có còn nhớ những ngôi nhà
Hắt hiu lau xám, lòng son đậm đà'
Khi về, liệu có còn nhớ núi non
Nhớ những thời kháng Nhật, thời Việt Minh.'
Tác giả sử dụng hình ảnh lau xám hắt hiu như biểu tượng của thiên nhiên Việt Bắc để thể hiện tình cảm của người cách mạng. Người ra đi liệu còn nhớ những ngôi nhà nhỏ bé ẩn sau rặng lau, giữa những ngọn núi hùng vĩ? Người ra đi liệu còn nhớ những tình cảm ấm áp, sâu đậm của người ở lại? Đối với nhân dân Việt Bắc, tình yêu với cách mạng, với các cán bộ vẫn mãi thắm thiết.
Đoạn thơ kết thúc bằng việc nhắc lại những sự kiện lịch sử đáng tự hào của cán bộ và nhân dân:
'Khi ra đi, liệu có còn nhớ mình
Tân Trào, Hồng Thái, mái đình, cây đa.'
Hai câu thơ chỉ với 14 tiếng, nhưng 'mình' chiếm 3 tiếng, thể hiện sự hòa quyện giữa nhân dân và cán bộ. Không còn phân biệt rõ ràng 'mình', 'ta' mà thay vào đó là sự hiểu biết, hài hoà. Người ra đi và người ở lại, liệu có còn nhớ những nơi họ đã cùng nhau chiến đấu, nhớ những địa danh như 'Tân Trào', 'Hồng Thái' không? Đây là câu hỏi, nhưng cũng là một lời nhắc nhở về tình yêu quê hương, về trách nhiệm với quá khứ và hôm nay, không được lãng quên những hy sinh đã có để xây dựng tương lai.
12 câu thơ lục bát không phải là nhiều nhưng ghi vào lòng người biết bao tình cảm đẹp, tình cảm giữa chiến sĩ cách mạng và nhân dân Việt Bắc thật đáng quý, đó không chỉ là tình quân dân mà còn là tình cảm gắn bó thân thương, đáng trân trọng.
Phân tích khổ 3 Việt Bắc siêu hay - Mẫu 3
Kháng chiến đã qua, hòa bình đã lập lại. Tuy nhiên những kí ức về kháng chiến vẫn còn đọng lại. Đối với thế hệ học sinh chúng ta, hình ảnh cuộc kháng chiến chống Pháp, Mĩ trường kì của dân tộc chỉ được thể hiện qua trang sách, bài văn, bài thơ. Dẫu vậy, chúng ta cũng cảm thấy vô cùng xúc động, biết ơn những dòng văn, dòng thơ ấy, nhờ đó mà chúng ta mới biết đến cội nguồn của dân tộc, biết đến những năm tháng trường kì kháng chiến. Và ấn tượng hơn cả chính là tác phẩm Việt Bắc của nhà thơ Tố Hữu, một tác phẩm xuất sắc đã tái hiện lại những hình ảnh gian khó của cuộc kháng chiến chống Pháp, ẩn trong đó là tình đồng đội, đồng bào sâu sắc. Đặc biệt trong khổ 3 của tác phẩm, đây là khổ thơ vô cùng ấn tượng, mang nhiều giá trị nội dung, tư tưởng, nghệ thuật đặc sắc, lưu nhiều dấu ấn xúc động trong trái tim người đọc.
Tố Hữu là nhà thơ Cách mạng, trưởng thành theo cách mạng. Ông cũng là nhà thơ tiêu biểu của nền thơ ca Việt Nam với rất nhiều tác phẩm viết về cách mạng, kháng chiến đồ sộ. Trong lời giới thiệu tập thơ của Tố Hữu xuất bản năm 1946 đã viết: “Lịch trình tiến triển về thơ của Tố Hữu đi song song với lịch trình tiến triển về tư tưởng và trình độ giác ngộ, về sức hoạt động của Tố Hữu. Thơ Tố Hữu không phải là một trò tiêu khiển mà là một khí cụ đấu tranh, một công tác vận động của người Cách mạng. Người Tố Hữu là một thi sĩ, một chiến sĩ nhưng chúng ta đừng quên cốt cách của nó là thi sĩ”. Thơ cách mạng chính là tiếng nói không chỉ của nhà thơ mà còn của đồng bào, của dân tộc, của các chiến sĩ. Nó chính là vũ khí để cổ vũ tinh thần đấu tranh mạnh mẽ dân tộc.
Trong tuyển tập thơ ca năm 1938 – 1963 còn có đoạn ghi: “Thơ Tố Hữu là thơ của một con người biết trân trọng lấy đời mình, muốn làm cho đời mình trở nên hữu ích… Thơ anh là lối thơ lấy cái đường đi toàn đời, lấy cái hơi toàn tập, lấy cái tứ toàn bài là chính… Anh là một con chim vụ bay hơn là bộ lông, bộ cánh, tuy vẫn là lông cánh đẹp”. Qua đây cho thấy, những tác phẩm thơ ca mà Tố Hữu đã viết để lại ấn tượng rất lớn trong diễn đàn văn học nói riêng và trong trái tim người đọc nói chung. Ấn tượng hơn cả chính là bài thơ Việt Bắc được viết trong bối cảnh vô cùng đặc biệt. Đó là khi các cán bộ đầu não trung ương phải rời Việt Bắc để trở về xuôi tiếp tục nhiệm vụ. Bài thơ viết trong hoàn cảnh chia ly nên thấm đẫm tình cảm sự thương nhớ và không nỡ rời xa. Điều đó được thể hiện rất mạnh trong khổ thơ thứ 3 của tác phẩm.
Nếu khổ đầu và khổ 2 bài thơ nói về tâm trạng lưu luyến khi chia tay, thì sang khổ thứ 3, tâm trạng ấy được thể hiện rõ ràng hơn, ẩn sau đó là một câu hỏi tu từ:
Mình đi, có nhớ những ngày
Mưa nguồn suối lũ, những mây cùng mù?
Thiên nhiên và con người được tác giả khéo léo sử dụng trong từng câu thơ. Chỉ khi con người gắn liền với thiên nhiên thì hình tượng mới trở nên đẹp và ấn tượng hơn. Thiên nhiên xung quanh ta mỗi ngày lại là những kỉ niệm không thể quên, luôn tồn tại trong tâm trí ta. Nỗi nhớ mà ta nhắc đến luôn có những cảnh sắc thiên nhiên mà chúng ta đã trải qua. Trong hai câu thơ trên, tác giả hỏi: “Mình đi có nhớ những ngày/ Mưa nguồn suối lũ, những mây cùng mù?”
Đây là câu hỏi tu từ, hỏi nhưng đã trả lời. Mình ở đây chính là các chiến sĩ, bộ đội đang được đồng bào Việt Bắc hỏi. Đồng bào hỏi các đồng chí khi rời xa có nhớ những ngày gian khó, vượt núi băng rừng, dầm mưa lội suối, sớm hôm bên nhau? Đây là những kỉ niệm gắn bó bên nhau không thể nào quên. Đồng bào vẫn luôn nhớ những tháng ngày đó, cảm thấy lưu luyến khi phải rời xa cán bộ, vậy hỏi cán bộ có nhớ hay không?
Câu thơ cảm nhận được tình cảm của người đi và người ở lại thắm thiết như thế nào, họ đã trải qua bao gian khó. Chỉ khi cùng nhau vượt qua gian khó mới trân trọng, thương yêu nhau thật lòng. Ngoài ra, câu thơ cũng tái hiện hình ảnh thiên nhiên khắc nghiệt sông núi hiểm trở, mây mù. Cho thấy cuộc sống của cán bộ và đồng bào nơi đây rất vất vả.
Mình về, có nhớ chiến khu
Miếng cơm chấm muối, mối thù nặng vai?
Cuộc sống của đồng bào và cán bộ ở đây rất gian khó, nhưng họ vẫn quyết tâm chiến đấu, gắn bó với đảng và cách mạng. Tố Hữu mô tả một cách chân thực, gần gũi những khổ cực hàng ngày. Mặc dù chỉ có cơm và muối nhưng họ không bao giờ chùn bước trước mối thù nặng trĩu, luôn sát cánh bên nhau sẵn sàng chống giặc.
Từ ngữ trừu tượng như 'mối thù nặng vai' của Tố Hữu mang đầy sức nặng của căm thù, của tội ác mà kẻ thù gây ra.
Mình về, rừng núi nhớ ai
Trám bùi để rụng, măng mai để già.
Trám và măng là món ăn phổ biến của người dân và cán bộ ở đây. Nhưng bây giờ khi họ về, trám đành rụng, măng đành già. Hình ảnh này gợi lên nỗi buồn lưu luyến khi phải rời xa. Đồng bào nhớ đến cán bộ, nhớ những ngày gian khó cùng nhau. Hình ảnh núi rừng gắn bó với họ sẽ mãi trong lòng.
Mình đi, có nhớ những nhà
Hắt hiu lau xám, đậm đà lòng son
Cuộc sống của người dân Việt Bắc đơn sơ và vất vả, nhưng tấm lòng của họ lại rất chân thành và chân chính. Họ yêu thương và quý trọng cán bộ như một phần của gia đình, với tình cảm sâu sắc như yêu thương con cái của mình. Khi phải xa nhau, họ lưu luyến, nhớ thương nhau. Có lẽ, những người mẹ của Việt Bắc cũng đang nhớ nhung, yêu thương những đứa con đã dõi dẫm, âu yếm suốt thời gian qua.
Mình về, còn nhớ núi non
Nhớ khi kháng Nhật, thuở còn Việt Minh
Mình đi, mình có nhớ mình
Tân Trào, Hồng Thái, mái đình cây đa?
Bốn câu thơ này tôn vinh vai trò quan trọng của Việt Bắc trong cuộc kháng chiến chống Pháp và cuộc tổng khởi nghĩa cách mạng tháng 8. Đây là nơi đã chứng kiến những chiến công vĩ đại, những trận đánh lịch sử như Tân Trào, Hồng Thái. Tinh thần quyết tử của nhân dân và chiến sĩ ở đây đã tạo ra những thắng lợi vĩ đại, góp phần quan trọng vào cuộc kháng chiến cả nước. Các địa danh như Tân Trào, Hồng Thái là biểu tượng của sự kiên cường, dũng cảm và tự hào của dân tộc.
Trong khi cuộc sống còn khó khăn, nhưng tinh thần chiến đấu của nhân dân không bao giờ suy yếu. Kẻ thù đã thất bại, không chỉ trên mặt trận quân sự mà còn trên mọi phương diện. Cuộc kháng chiến của chúng ta là chính nghĩa, còn của chúng là phi nghĩa. Chúng ta chiến thắng về tinh thần, đoàn kết và lòng yêu nước. Dù cuộc sống có khó khăn thế nào, ý chí chiến đấu của nhân dân vẫn sáng mãi không phai.
Khổ thơ thứ ba của bài Việt Bắc với chỉ 12 câu thơ lục bát đã thành công trong việc tái hiện những khó khăn mà cán bộ, chiến sĩ cũng như nhân dân Việt Bắc đã trải qua. Đồng thời, nó cũng thể hiện tinh thần đoàn kết, gắn bó và yêu thương giữa mọi người, ý chí quyết tâm chống giặc cao cả. Và kết quả đáng tự hào là những chiến thắng trên tất cả các mặt trận. Rời xa Việt Bắc đồng nghĩa với việc rời xa quê hương thứ hai mà họ đã gắn bó suốt 10 năm. Dù vậy, chắc chắn họ sẽ luôn tự hào vì đã sống và hi sinh cho sự nghiệp vĩ đại của dân tộc. Thật là vinh dự và biết ơn về những gì nhà thơ Tố Hữu đã ghi lại, để thế hệ sau có thể hiểu và học hỏi, đóng góp vào sự phát triển của đất nước.
Phân tích khổ thứ ba của bài thơ Việt Bắc - Mẫu số 4
Bài thơ Việt Bắc là một trong những tác phẩm tiêu biểu nhất của Tố Hữu, khẳng định vị trí của ông trong thơ ca cách mạng Việt Nam. Nó không chỉ là một tác phẩm khen ngợi cuộc kháng chiến anh dũng, gian khổ của dân tộc mà còn là một bản tình ca ca ngợi tình đoàn kết sâu sắc giữa cán bộ và nhân dân, giữa các miền, giữa người Việt Bắc và người miền xuôi. Tình cảm sâu lắng này được thể hiện rất rõ ràng và sinh động trong khổ thứ ba của bài thơ.
Khổ thứ ba của bài thơ là lời của người ở lại, chứa đựng những tình cảm và kỷ niệm về quá khứ, về những ngày đã qua. Trong bốn dòng đầu của bài thơ, người ở lại tái hiện những kỷ niệm của mình:
Mình đi, có nhớ những ngày
Mưa nguồn suối lũ, những mây cùng mù?
Mình về, có nhớ chiến khu
Miếng cơm chấm muối, mối thù nặng vai?
Những người ở lại kể về những ngày khó khăn đối mặt với thời tiết khắc nghiệt của núi rừng Việt Bắc. “Mưa nguồn, lũ về” là hiện tượng đặc trưng của miền núi, gây ra lũ quét và lũ ống. Điều này làm nguy hiểm cho cuộc sống con người. Ngoài ra, với độ cao, mây và sương mù dày đặc làm trở ngại cho hoạt động của người dân. Để vượt qua, cán bộ và dân trong chiến khu đã cùng nhau vượt qua. Những người ở lại nhớ về thời gian chiến tranh, nhớ về “miếng cơm manh áo” và “mối thù sâu nặng”. Dù gian khó, nhưng tình quân dân vẫn đoàn kết. Đối thủ là giặc ngoại xâm, là nhiệm vụ cách mạng cao cả. Sau khi nhắc lại những kỷ niệm, người ở lại bày tỏ nỗi nhớ và tình cảm sâu sắc đối với những người ra đi.
Mình về, rừng núi nhớ ai
Trám bùi để rụng, măng mai để già
Mình đi, có nhớ những nhà
Hắt hiu lau xám, đậm đà lòng son
Trong hai câu đầu, nỗi nhớ của người ở lại được miêu tả qua phép hoán dụ “rừng nhớ người”, kỷ niệm về trám bùi và măng mai. Những hình ảnh tương phản giữa vật chất và tình cảm, giữa mái tranh đơn sơ và lòng người sâu sắc. Tình cảm của người Việt Bắc dành cho cán bộ rất sâu sắc và chân thành.
Mình về, còn nhớ núi non
Nhớ khi kháng Nhật, thuở còn Việt Minh
Mình đi, mình có nhớ mình
Tân Trào, Hồng Thái, mái đình cây đa?
Người ở lại nhắc nhở người cách mạng luôn nhớ về nguồn cội, kỷ niệm về thời kháng chiến. Cần nhớ về những nơi như Tân Trào, Hồng Thái. Đọc xong khổ thơ thứ ba, em cảm nhận được sức mạnh của dân tộc. Thể thơ lục bát với nhịp điệu đều đặn thể hiện nỗi nhớ tha thiết, sự liên kết giữa những người ở lại và những người ra đi.
Chính nội dung cách mạng và hình thức thơ dân tộc đã khiến cho khổ thơ thứ ba và bài thơ Việt Bắc của Tố Hữu gây ấn tượng sâu sắc đến suy tư và cảm xúc của người đọc. Nhắc nhở về tình đoàn kết kéo dài mười lăm năm của dân tộc, mong muốn hướng tới tương lai rạng ngời, gợi lên khát vọng chung thủy.
Phân tích đoạn 3 Việt Bắc - Mẫu 5
Bài thơ Việt Bắc là một tác phẩm tiêu biểu của Tố Hữu, khẳng định vị trí của ông trong thơ ca cách mạng Việt Nam. Nó không chỉ là một tác phẩm về cuộc kháng chiến vĩ đại của toàn dân tộc mà còn là một bản tình ca ca ngợi tình yêu sâu đậm giữa cán bộ và nhân dân, giữa miền núi và miền biển. Tình thương sâu đậm được thể hiện rất cụ thể và sinh động trong khổ thơ thứ ba.
Toàn bộ khổ thơ là lời của người ở lại, chứa đựng tình cảm, nỗi nhớ của họ về những người ra đi hoặc của người dân Việt Bắc về những người cán bộ cách mạng. Trong bốn câu đầu, người ở lại hồi tưởng về những kỷ niệm của quá khứ:
'Mình đi, có nhớ những ngày
Mưa nguồn suối lũ, những mây cùng mù
Mình về, có nhớ chiến khu
Miếng cơm chấm muối, mối thù nặng vai?'
Người ở lại đang gợi nhớ về những ngày tháng khó khăn khi đối mặt với thiên nhiên gay gắt của vùng núi Việt Bắc. 'Mưa nguồn, suối lũ' là hiện tượng đặc trưng của miền núi, mưa nguồn là những cơn mưa xối xả từ thượng nguồn, thường gây ra lũ quét, lũ ống, lũ suối. Hiện tượng khắc nghiệt này chỉ có ở vùng núi cao, như một tai họa luôn rình rập, đe dọa cuộc sống của con người. Bên cạnh đó, còn có 'mây mù', người dân miền núi sống ở độ cao nên mây và sương mù dày đặc tạo nên một không gian giá buốt, che khuất tầm nhìn. Cả hai hiện tượng đều là khó khăn lớn đối với người dân miền núi và xuôi, để vượt qua và thích nghi, người cán bộ đã nhận được sự giúp đỡ, chia sẻ từ người dân trong chiến khu, những ngày đó trở thành ký ức đẹp của họ. Người ở lại còn nhớ về thời gian chiến khu, sự gắn bó cùng chịu khổ, sự đối lập giữa hoàn cảnh và ý chí: 'miếng cơm chấm muối' và 'mối thù nặng vai'. Giữa hoàn cảnh khó khăn, thiếu thốn, nhưng quân và dân vẫn kiên định, đoàn kết. Mối thù đó là mối thù của giặc ngoại xâm, là nhiệm vụ cách mạng lớn mà Đảng giao phó, không chỉ là của cán bộ cách mạng mà còn của nhân dân vùng cao, luôn đồng lòng hợp sức. Sau khi nhắc lại những kỷ niệm, người ở lại bày tỏ nỗi nhớ và tình cảm sâu đậm đối với những người ra đi:
'Mình về, rừng núi nhớ ai
Trám bùi để rụng, măng mai để già
Mình đi, có nhớ những nhà
Hắt hiu lau xám, đậm đà lòng son'
Trong hai dòng đầu, nỗi nhớ của người ở lại được diễn đạt bằng phép hoán dụ, nói 'rừng núi nhớ ai' là muốn nói không chỉ con người mà cả cây cỏ, núi non đều chia sẻ nỗi nhớ với con người. 'Trám bùi' và 'măng mai' là thức ăn quen thuộc của người dân miền núi, nhưng theo nỗi nhớ đó, trám tự rụng, măng tự già. Câu thơ 'Trám bùi để rụng, măng mai để già' thể hiện nỗi nhớ, sự trống vắng, hẫng hụt, lan tỏa khắp núi rừng, chi phối hoạt động sống của con người, nhớ đến mức ngẩn ngơ, thẫn thờ. Bên cạnh đó nỗi nhớ còn được thể hiện qua phép tương phản 'hắt hiu lau xám' và 'đậm đà lòng son', là sự tương phản giữa điều kiện vật chất và tình cảm, trái tim con người. Những mái nhà rách nát, vật chất sơ sài, hiu hắt nhưng tấm lòng của con người thì không sơ sài, 'đậm đà' là từ láy khẳng định độ sâu sắc, mặn nồng của tình cảm. Hình ảnh tương phản đã nhấn mạnh rằng, người dân Việt Bắc có vật chất nghèo nàn, đơn sơ nhưng không nghèo tình cảm, họ luôn dành cho người cán bộ một ân tình sâu nặng, một tấm lòng thủy chung. Qua lời bày tỏ của người ở lại, ta thấy được nỗi nhớ và tình cảm sâu sắc của người dân chiến khu dành cho cán bộ cách mạng về xuôi, đó là tình cảm lớn thể hiện nội dung yêu nước trong thơ của Tố Hữu. Cuối cùng, trong bốn dòng thơ cuối, đó là lời dặn dò, nhắc nhở dành cho người ra đi:
'Mình về, còn nhớ núi non
Nhớ khi kháng Nhật, thuở còn Việt Minh
Mình đi, mình có nhớ mình
Tân Trào, Hồng Thái, mái đình, cây đa?'
Người ở lại nhắc nhở người cách mạng phải luôn ghi nhớ về nguồn gốc, 'nhớ núi non' chính là nhớ đến vùng đất gắn liền với những thời khắc gian khổ nhưng hào hùng, 'Nhớ khi kháng Nhật, thuở còn Việt Minh' là nhớ về những ngày đầu của cuộc cách mạng đầy gian khổ và hy sinh. Phải trải qua những ngày tháng ấy mới có thể có nền hòa bình, phải trải qua những giai đoạn gian khổ mới có thể đạt được sự độc lập và hòa bình. Người cán bộ phải luôn nhớ về điều đó, nhớ về nguồn gốc của thành tựu cách mạng. Đại từ 'mình' được sử dụng ba lần trong câu thơ để chỉ người ra đi, ý muốn nhấn mạnh việc người cán bộ phải biết nhìn vào bản thân mình, phải biết giữ gìn bản chất cách mạng trong tâm hồn mình. Các địa danh như Tân Trào, Hồng Thái đều liên quan đến những sự kiện quan trọng, là nơi sinh ra và nuôi dưỡng các tổ chức cách mạng và tinh thần của người cán bộ. Dù cuộc sống có thay đổi, cương vị có thay đổi nhưng bản chất cách mạng sẽ mãi mãi không thay đổi, qua lời dặn dò và nhắc nhở, người ở lại muốn người ra đi luôn giữ vững tình cảm với nguồn gốc cách mạng. Đọc đoạn thơ này, ta cảm nhận được tính dân tộc sâu sắc. Thể thơ lục bát với nhịp điệu đều đặn góp phần diễn đạt nỗi nhớ chân thành, cách sắp xếp vần chân - vần lưng, vần liên tiếp góp phần thể hiện nỗi nhớ miên man không dứt, thể hiện tình cảm tha thiết không dễ phai nhạt. Tác giả sử dụng đại từ 'mình' để chỉ cả hai bên, có khi 'mình' là lời xưng với người ở lại, có khi lại là lời gọi người ra đi, cách sử dụng này nhấn mạnh sự gắn kết chặt chẽ giữa kẻ ở và người đi. Bên cạnh đó, tác giả còn kết hợp nhiều biện pháp tu từ, điệp từ như 'mình đi', 'mình về' nhấn mạnh sự thật về cuộc chia ly, 'có nhớ' và 'còn nhớ' nhấn mạnh độ sâu của nỗi nhớ. Các từ láy giúp khắc sâu cảm xúc, các phép hoán dụ, tương phản giúp nhấn mạnh những kỷ niệm, kí ức mà người ở lại gìn giữ, trân trọng, và cuối cùng là các địa danh giúp người đọc khắc sâu nguồn gốc cách mạng.
Nội dung cách mạng và hình thức thơ mang tính dân tộc, ngôn ngữ đậm sắc thái dân gian đã làm cho khổ thơ thứ ba và bài thơ Việt Bắc của Tố Hữu có tác động mạnh mẽ, sâu sắc đến tư tưởng, tình cảm của người đọc. Nhắc lại về ân tình của quãng đường mười lăm năm đã qua của dân tộc, hướng về tương lai tươi sáng, nhắc nhở về tâm huyết đoàn kết.
Phân tích khổ 3 Việt Bắc - Mẫu 6
Khi nhắc đến Tố Hữu, mọi người đều biết ông là một trong những nhà thơ trữ tình cách mạng hàng đầu của văn học Việt Nam. Thơ của Tố Hữu là tiếng thơ của sự sống lớn, tình yêu lớn, niềm vui lớn của con người cách mạng và cuộc sống cách mạng. Bài thơ Việt Bắc là điểm cao trong sự nghiệp sáng tác thơ của ông, trong thơ chiến đấu chống Pháp nói chung. Có thể nói, Việt Bắc là một bản tình ca và cũng là một hình ca, thể hiện tình yêu sâu sắc, thâm trầm của nhà thơ đối với căn cứ cách mạng của toàn dân tộc. Điều này được miêu tả rõ trong khổ thơ:
Mình đi, có nhớ những ngày
...
Tân Trào, Hồng Thái, mái đình, cây đa?
Việt Bắc là một tác phẩm thiên về trường, dài 150 dòng, được Tố Hữu sáng tác vào tháng 10/1954, thời điểm Trung ương Đảng và Chính phủ, Bác Hồ cùng các cán bộ rời bỏ Thủ đô lịch sử để quay về Thủ đô ánh vàng nắng Ba Đình. Đoạn thơ mở đầu là một chuỗi kỷ niệm về những năm tháng ở chiến khu Việt Bắc, là sự nhớ nhung đầy cảm xúc về những kỷ niệm đầy cảm động của những người ở lại, những người chiến đấu và những người phục vụ.
Khởi đầu trong đoạn thơ thứ hai là một loạt câu hỏi ngọt ngào:
Mình đi, có nhớ những ngày
Mưa nguồn suối lũ, những mây cùng mù
Mình về, có nhớ chiến khu
Miếng cơm chấm muối, mối thù nặng vai
Trong khổ thơ, có một loạt cụm từ như 'có nhớ', điều này giúp ta cảm nhận được tâm trạng lo lắng, quan tâm của những người ở lại, họ muốn biết liệu những cán bộ về từ đất Việt Bắc có còn nhớ về chiến khu đó không? Việt Bắc muốn thức tỉnh những kỷ niệm khó khăn của cuộc kháng chiến. Ký ức về thiên nhiên của Việt Bắc với mưa nguồn suối lũ, những đám mây và sương mù, câu thơ đã mô tả chân thực vẻ đẹp hoang sơ của thiên nhiên núi rừng Việt Bắc, dù khung cảnh có chút ảm đạm nhưng vẫn mang đậm dấu ấn của tình yêu tự nhiên, tâm trạng mơ mộng và vĩ đại. Ngoài việc đối mặt với thời tiết khắc nghiệt, khó khăn của tự nhiên, chúng ta còn phải đối mặt với cuộc sống thiếu thốn, gian khổ, nhưng vẫn giữ lấy nụ cười với mảnh đời cấp thiết. Hình ảnh biểu tượng về mối thù nặng vai, gợi lên những suy tư về mối thù sâu đậm của nhân dân đối với kẻ thù ác độc, những kẻ đã phản bội dân tộc, bán nước cho quân giặc. Đồng thời, đây cũng là một lời nhắc nhở ý nghĩa về một thời kỳ tự hào, chúng ta đã cùng chống lại kẻ thù, giành lại độc lập tự do và mang lại hạnh phúc cho nhân dân. Kỹ thuật so sánh kết hợp với việc chia nhịp 2/2/2 - 4/4 đều đặn khiến cho câu thơ trở nên nhẹ nhàng, cân đối, và lời thơ trở nên ý nghĩa hơn.
Tiếp nối là những câu hỏi của Việt Bắc nhưng trong vần thơ ẩn chứa là những tâm sự chân thành của người ở lại, thể hiện tình cảm sâu lắng với các cán bộ về thăm:
Mình về, núi rừng nhớ ai
Trám bùi để rụng, măng mai để già
Tố Hữu đã áp dụng phép hoán dụ 'núi rừng nhớ ai', trong đó núi rừng biểu tượng cho những người ở lại, còn từ 'ai' chỉ đại diện cho những người cán bộ về thăm. Điều này nhấn mạnh sự gắn bó chặt chẽ và nỗi nhớ sâu đậm của nhân dân Việt Bắc đối với những người tham gia kháng chiến, với Đảng và chính phủ. Thiên nhiên và con người ở Việt Bắc đều nhớ những cán bộ về thăm đến mức trám bùi rụng và măng mai già. Việc cán bộ về khiến cho núi rừng Việt Bắc trở nên trống vắng, buồn bã đến lạ thường, ngay cả khi trám bùi, măng mai cũng không ai hái. Người ở lại đã thể hiện tình cảm chân thành và sâu sắc của họ một cách tha thiết.
Nhân dân Việt Bắc tiếp tục đặt câu hỏi, nhưng ở đoạn thơ này câu hỏi được nhấn mạnh và cụ thể hơn, thể hiện sự lo lắng và mong đợi rõ ràng hơn: Cán bộ về có nhớ cảnh vật và con người ở Việt Bắc, nhớ những thời khắc kháng chiến hay không?
Mình đi, có nhớ những nhà
Hắt hiu lau xám, đậm đà lòng son
Mình về, có nhớ núi non
Nhớ khi kháng Nhật, thuở còn Việt Minh.
Cụm từ 'nhớ những nhà' sử dụng phép hoán dụ, giúp người đọc hiểu được tâm trạng lo lắng và mong đợi không biết liệu Cán bộ có nhớ đến nhân dân Việt Bắc hay không? Còn nhân dân Việt Bắc thì nhớ cán bộ nhiều đến mức hắt hiu lau xám. Từ 'lau xám' kết hợp với hình ảnh của thiên nhiên Việt Bắc làm nổi bật hơn sự hoang vắng, đơn sơ và yên bình của núi rừng. Tuy nhiên, bên cạnh đó là tấm lòng son, tấm lòng ấm áp và chân thành của người dân Việt Bắc. Ngoài ra, người dân Việt Bắc cũng muốn biết liệu Cán bộ về có nhớ núi non, nhớ thiên nhiên hùng vĩ của Việt Bắc không? Có nhớ thời gian chung sống và kháng chiến với Việt Minh không? Tình thương và tương cảm của người dân Việt Bắc đối với bộ đội, đối với cách mạng; sự đồng cảm và chia sẻ mọi khó khăn, niềm vui, gánh nặng của cuộc sống cách mạng làm cho Việt Bắc trở thành một quê hương cách mạng, một nguồn cội nuôi dưỡng cho Cách Mạng, làm cho tâm hồn của nhà thơ và độc giả cảm thấy sáng sủa và rộn ràng.
Tóm lại, khúc thơ đầy nghĩa nhớ về những địa danh lịch sử:
Mình đi, mình nhớ mình
Tân Trào, Hồng Thái, mái đình, cây đa.
Chỉ trong hai câu thơ, tác giả đã truyền đạt nhiều cảm xúc, chứa đựng nhiều ý nghĩa; đặc biệt là ở câu thứ sáu với ba từ 'mình' kết hợp với nhau, âm nhạc thơ mềm mại và chân thành. 'Mình' ở đây có thể chỉ người cán bộ về, cũng có thể là tự nguyện Việt Bắc. Tại đây, câu thơ chứa đựng nhiều ý nghĩa: Cán bộ về có còn nhớ đến người ở lại không? Hay cán bộ về có nhớ chính bản thân mình, quá khứ chiến đấu cho lý tưởng, cho tự do của dân tộc không? Đây là một câu thơ trừu tượng, sâu sắc về tâm lý con người sau chiến tranh mạnh mẽ đã được Tố Hữu phản ánh trước.
Trong câu thơ cuối của khúc ba, người ở lại nhắc đến hai địa danh lịch sử: Tân Trào và Hồng Thái. Tân Trào là nơi xuất phát của quân đội Việt Nam, đã định hình chiến thắng; Hồng Thái là nơi Bác Hồ chủ trì cuộc họp quyết định Cách mạng Tháng Tám. Tố Hữu sử dụng hai địa danh này để nhấn mạnh ý nghĩa của Việt Bắc, là nguồn gốc của cách mạng và là nguồn cảm hứng cho cả nước. Câu thơ này cũng đặt ra câu hỏi: Liệu cán bộ về còn nhớ Việt Bắc là quê hương của họ, là nguồn cảm hứng của cách mạng hay không?
Với chỉ mười hai câu thơ, Tố Hữu đã mang chúng ta vào không khí của kí ức và hoài niệm, vào một thế giới của tình nghĩa cách mạng. Điều đặc biệt ở khúc thơ này là cách tác giả sử dụng hai cụm từ 'mình đi' và 'mình về'. Thông thường, 'đi' và 'về' đều là hai hướng trái ngược, nhưng trong khúc thơ này, cả hai đều chỉ một hướng là về Hà Nội. Với cấu trúc nhịp thơ 2/2/2 - 4/4 đều đặn, âm điệu trở nên nhịp nhàng, phù hợp với phong cách trữ tình chính trị của Tố Hữu.
Văn chương trữ tình và đậm bản sắc dân tộc của Tố Hữu đã góp phần tạo nên thành công của bài thơ Việt Bắc. Các chi tiết về ánh sáng và tình cảm con người, từ miếng cơm chấm muối, trám bùi, măng mai, mái nhà hắt hiu lau xám cho đến mối thù hai vai gánh chung, những trái tim son sẽ mãi không phai nhạt, vẫn sống đọng trong lòng nhà thơ và trong tâm trí của người dân Việt Bắc, của những cán bộ về xuôi.
Phân tích khúc 3 của bài thơ Việt Bắc - Mẫu 7
Xuân Diệu từng chia sẻ khi đọc thơ của Tố Hữu: “Thơ của Tố Hữu, từ trái tim vị thành niên ấy vừa lãng mạn như chúng tôi, nhưng cũng phải mạnh mẽ hơn; thơ của chúng tôi chỉ mở cửa trời, nhưng thơ của Tố Hữu mở ra cánh cửa: Cách mạng, giải phóng dân tộc, giải phóng cho người lao động”. Cuộc đời của Tố Hữu là cuộc sống của cả dân tộc, lẽ sống của Tố Hữu chính là lẽ sống của cả cộng đồng. Câu thơ của Tố Hữu cũng như thế, là câu thơ của cuộc chiến đấu:
“Mình đi, có nhớ những ngày
Mưa nguồn suối lũ, những mây cùng mù?
Mình về, có nhớ chiến khu
Miếng cơm chấm muối, mối thù nặng vai?
Mình về, rừng núi nhớ ai
Trám bùi để rụng, măng mai để già
Mình đi, có nhớ những nhà
Hắt hiu lau xám, đậm đà lòng son
Mình về, còn nhớ núi non
Nhớ khi kháng Nhật, thuở còn Việt Minh
Mình đi, mình có nhớ mình
Tân Trào, Hồng Thái, mái đình cây đa?”
Tháng 7 năm 1954, cuộc chiến đấu chống Pháp kết thúc thành công tốt đẹp. Hòa bình được thiết lập, một phần lãnh thổ được giải phóng. Tháng 10 năm 1954, Hà Nội được giải phóng, Trung ương Đảng và chính phủ rời khỏi chiến khu Việt Bắc trở về thủ đô. Lịch sử dân tộc bước vào trang mới. Trong bối cảnh này, xã hội có nhu cầu nhìn lại quá khứ và hướng tới tương lai. Bài thơ 'Việt Bắc' ra đời để đáp ứng nhu cầu đó, là tiếng nói của nhân dân. 'Việt Bắc' là một bản ca trữ tình với tình yêu quê hương, tình yêu đất nước, tình thân thiết giữa con người. Do đó, bài thơ là một bản tóm tắt lịch sử bằng trái tim. Với một hành trình dài như vậy, từ những câu thơ này cho đến những dòng thơ sau đều có sự phát triển và di chuyển, mang ý nghĩa riêng của chúng.
Những dòng thơ đầu tiên là đoạn khúc mở đầu của bản trường ca, tái hiện lại những ngày tháng gian khổ khó khăn mà chứa đựng ân tình, ân nghĩa:
“Mình đi, có nhớ những ngày
Mưa nguồn suối lũ, những mây cùng mù
Mình về, có nhớ chiến khu
Miếng cơm chấm muối, mối thù nặng vai”
Đoạn thơ này là một chuỗi những câu hỏi được lặp lại: “Mình đi, có nhớ…”, “mình về, có nhớ…” như lời nhắc nhở nhẹ nhàng, ân tình. Cách sử dụng cách xưng hô “mình – ta” kết hợp với cấu trúc đối đáp quen thuộc gợi nhớ về lối đối đáp trong những bài hát giao duyên, những điệu hát huế tình của nam nữ, giữa mận và đào. Mượn tình yêu của đôi lứa cá nhân để thể hiện một tình cảm lớn hơn: tình yêu của cộng đồng làm cho những câu thơ từ chính trị khô khan trở nên vô cùng trữ tình. Trong những câu thơ sau, tác giả đã sáng tạo sử dụng ngôn ngữ dân gian, cách diễn đạt: “mưa nguồn suối lũ”, “mây cùng mù” để tái hiện hình ảnh của thiên nhiên nơi rừng núi. Trong khi thiên nhiên ở miền Tây Bắc thường được mô tả như một vẻ đẹp mơ mộng, lãng mạn, như trong những câu thơ của Quang Dũng: “Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa”, thì với những người ở đầu nguồn, thiên nhiên thực sự không dễ dàng: “mưa nguồn suối lũ” có vẻ như có thể khiến con người biến mất bất cứ lúc nào. Hơn nữa, lại còn “những mây cùng mù” - trên mây, dưới mù đều gợi lên cái hoang vu, u tối của một vùng núi sâu và hẻo lánh nào đó. Sự đối lập giữa “Miếng cơm chấm muối” – “mối thù nặng vai” không chỉ nói lên những gian khổ mà con người ở đây phải gánh chịu mà còn khẳng định lòng quyết tâm chiến đấu, chiến thắng của con người. Điều kiện càng khó khăn, gian khổ càng nhắc nhở con người về mối thù không chỉ là điều vô hình mà còn là điều có thể cảm nhận được.
Tiếp nối dòng cảm xúc ấy nhưng những câu thơ lại mang một chút lưu luyến, xao xuyến và cả những điều băn khoăn:
“Mình về, rừng núi nhớ ai
Trám bùi để rụng, măng mai để già
Mình đi, có nhớ những nhà
Hắt hiu lau xám, đậm đà lòng son”
Một chuỗi các cụm từ như “Trám bùi để rụng”, “măng mai để già”, “hắt hiu lau xám” như là những nỗi lo lắng về sự biến đổi, phai mờ của lòng người theo thời gian cho đến khi mọi thứ dần phai nhạt, tàn lụi. Nhưng cuối cùng lại là hình ảnh tươi sáng, ấm áp: “đậm đà lòng son” nổi lên giữa sự phai nhạt của mọi thứ xung quanh. Câu thơ kết thúc mạnh mẽ về tình bạn, tình thân không thể thay đổi.
Cuối cùng, là lời gửi gắm từ người ở lại để nhớ về hành trình kháng chiến của cả dân tộc với những chặng đường đáng nhớ:
“Mình về, còn nhớ núi non
Nhớ khi kháng Nhật, thuở còn Việt Minh
Mình đi, mình có nhớ mình
Tân Trào, Hồng Thái, mái đình cây đa?”
Trong câu hỏi cuối cùng: có tới ba lần xuất hiện từ “mình”. “Mình” thứ nhất và thứ hai để chỉ người ra đi. Vậy còn từ “Mình” thứ ba? Vẫn là người ra đi? Hay là người ở lại? Không thể phân biệt được! Có lẽ là cả hai. “Mình” và “ta” giờ đã không còn phân biệt được nữa. “Mình” là “ta”, “ta” và “mình” hòa quyện vào nhau, cùng sống, cùng lí tưởng, cùng chiến đấu để cùng đón nhận niềm vui chiến thắng. Những tình cảm đó, sẽ là “ta” đi theo “mình” đến mọi chặng đường, dù khi ấy “mình” có đi đâu chăng nữa.
Đoạn thơ gợi nhớ về những năm tháng kháng chiến, những tình cảm cách mạng không hề khô khan, giáo điều mà rất nhẹ nhàng, tự nhiên đi vào lòng người đọc bởi thể thơ lục bát quen thuộc, cấu trúc của những câu hát yêu thương tình nghĩa với giọng điệu chân thành, da diết. Hình ảnh thơ đơn giản, quen thuộc mà có sức gợi đến sự bất ngờ. Chính những năm tháng ấy, những con người ấy là nguồn động viên, là động lực để tạo nên những chiến thắng “vẻ vang trên mọi châu lục, gây sóng gió trên khắp thế giới”. Nếu nói về văn học là “tấm gương lớn di chuyển trên đường sách”, là “dòng sông biểu của thời đại” thì “Việt Bắc” của Tố Hữu chính là tác phẩm như thế. Nó đã hoàn thành nhiệm vụ của mình, của văn học: phục vụ cách mạng, động viên chiến đấu.
Hãy mượn lời của nhà thơ Chế Lan Viên thay cho kết: “Thơ Tố Hữu là thơ của một con người biết trân trọng cuộc sống của mình, muốn làm cho cuộc sống của mình trở nên ý nghĩa. Vậy thì những người khác còn phung phí cuộc đời, sống tùy tiện, làm gì cũng được, sống sao cũng xong, nhưng khi đọc thơ này hãy thử dừng lại và nhìn lại cuộc sống của mình, và xây dựng nó.”
Phân tích khổ 3 của bài thơ Việt Bắc - Mẫu 8
Trong cuốn “Nhà văn nói về tác phẩm”, khi nói về tác phẩm “Việt Bắc”, Tố Hữu đã chia sẻ: “Cảnh vật và tinh thần của Việt Bắc đã nhập vào hồn tôi, máu thịt tôi, Việt Bắc đang sống trong tôi”. Có thể vì điều đó mà “Việt Bắc” được xem như là “đỉnh cao của thơ mà Tố Hữu đã đạt được”. Đoạn thơ thứ ba trong tác phẩm mang nhiều giá trị nội dung, nghệ thuật đặc sắc, lưu lại nhiều dấu ấn trong trái tim, cảm xúc của người đọc.
Tố Hữu là một nhà thơ đặc biệt của văn học hiện đại Việt Nam. Trong lời giới thiệu tập thơ của mình xuất bản năm 1946, có viết: “Tiến trình tiến triển về thơ của Tố Hữu đi kèm với tiến trình tiến triển về tư tưởng và hiểu biết, cùng với hoạt động của Tố Hữu. Thơ Tố Hữu không chỉ là một phần của trò chơi mà còn là một công cụ của sự đổi mới, một công cụ vận động của những người Cách mạng. Tố Hữu không chỉ là một nhà thơ, một chiến sĩ mà còn là một nhà thơ”. Trong lời giới thiệu cho bộ tuyển tập thơ 1938 – 1963, có đoạn: “Thơ Tố Hữu là thơ của một con người biết trân trọng cuộc sống của mình, mong muốn làm cho cuộc sống của mình trở nên ý nghĩa hơn... Thơ anh là một cuộc hành trình qua cuộc sống, một cuộc hành trình qua toàn bộ, một cuộc hành trình qua mọi điều. Anh là một con chim cao vút hơn là một con chim cánh cụt, mặc dù vẫn có bộ lông và cánh đẹp”. “Việt Bắc”, viết năm 1954, là một trong những bài thơ tiêu biểu nhất của Tố Hữu. Đoạn thơ thứ ba trong bài với nhiều tâm trạng, tình cảm của nhà thơ Tố Hữu đã thực sự làm xúc động lòng người, khiến họ yêu thương và trân trọng tác phẩm thơ của Tố Hữu hơn.
Sau tám câu thơ đầu tiên nói về tâm trạng lưu luyến, bịn rịn trong buổi chia tay giữa người đi và người ở lại là những dòng thơ tiếp theo trong khổ thơ thứ ba, mang ý nghĩa của những lời nhắn nhủ dưới hình thức là một loạt các câu hỏi tu từ:
“Khi ra đi liệu có nhớ
Những ngày mưa, suối lũ mây đan mù?
Khi trở về liệu có nhớ
Những khu chiến trường nặng gánh thù oán?
Khi về rừng núi liệu có nhớ
Trám bùi rụng, măng mai già mùa
Khi đi liệu có nhớ ngôi nhà
Hắt hiu lau xám, đậm đà lòng son?
Khi về liệu còn nhớ núi non
Nhớ thời kháng Nhật, thời Việt Minh?
Khi đi, liệu có nhớ mình
Tân Trào, Hồng Thái, mái đình, cây đa?”
Tâm trạng trong bài thơ của Tố Hữu gợi lên hình ảnh của lời thơ Quang Dũng trong “Tràng Giang”: “Dòng nước trôi lững lờ đong đưa”. Tố Hữu miêu tả thực tế để vẽ lên bức tranh thiên nhiên hoang sơ, sự cố gắng đầy khó khăn của con người, trong khi đó Quang Dũng chọn cách miêu tả một cách lãng mạn để tôn vinh vẻ đẹp. Dù có những cách diễn đạt khác nhau, nhưng cả hai nhà thơ đều thành công trong việc miêu tả và làm xúc động tâm hồn, cảm xúc của người Cách mạng trong cuộc chiến khó khăn.
Nhân vật tâm hồn nhớ về thiên nhiên, nhớ về vùng núi rừng Việt Bắc trong những ngày gian khó của cuộc chiến, với “mưa nguồn”, “suối lũ”, “mây mù”, “trám bùi”, “măng mai”. Đồng thời, trong tâm trí của nhân vật còn hiện lên những ký ức về tình thương mến sâu đậm trong những thời khắc gian khó, nhớ đến những khoảnh khắc của sự hy sinh.
Tình cảm nhớ thương đậm đà, sự trân trọng sâu sắc của nhà thơ Tố Hữu dành cho đồng bào Việt Bắc thân yêu đã từng gắn bó, chia sẻ khó khăn đã được nhà thơ diễn đạt một cách tinh tế và khéo léo trong từng câu thơ, hình ảnh của khổ thơ thứ ba trong tác phẩm “Việt Bắc”.
Phân tích khổ thứ ba của bài thơ Việt Bắc - Mẫu 9
Tố Hữu được coi là nhà thơ tiêu biểu nhất của văn học cách mạng Việt Nam trong thế kỷ 20. Không chỉ về số lượng tác phẩm mà Tố Hữu còn có những bài thơ xuất sắc, sát với thời kỳ và kịp thời phản ánh những sự kiện lịch sử quan trọng của đất nước. Bài thơ Việt Bắc là một trong những tác phẩm xuất sắc nhất thể hiện nhiệm vụ đó. Tình cảm lưu luyến, sâu sắc giữa người đi và người ở qua lời nhắn nhủ chân thành trong khổ thơ thứ ba của bài thơ.
Nếu ở khổ một và hai là lời của người ra đi thì khổ ba là lời dặn dò của người ở lại. Nhân dân Việt Bắc vẫn một lòng sắt son với cách mạng, thiết tha gửi lời đinh ninh:
“Khi đi vẫn nhớ những ngày
Mưa nguồn suối, lũ, mây mù
Khi về nhớ chiến khu
Miếng cơm chấm muối, mối thù nặng vai?
Khi về, rừng núi nhớ ai
Trám bùi để rụng, măng mai để già
Khi đi vẫn nhớ những nhà
Mắt hiu lau xám, đậm đà lòng son”
Ở khổ thơ này, người ở lại nhắc lại những kỉ niệm về thiên nhiên, con người và cuộc kháng chiến tại rừng núi Việt Bắc. Cụm từ “khi đi, khi về” và điệp từ “nhớ” được lặp lại nhiều lần tạo nên âm hưởng thơ trùng điệp, khắc sâu thêm những ký ức không thể nào quên. Hàng loạt câu hỏi tu từ trong đoạn thơ đã diễn tả tình cảm tha thiết của người Việt Bắc dành cho cán bộ về xuôi:
“Khi đi vẫn nhớ những ngày
Mưa nguồn suối, lũ, mây mù”
Người ở lại gợi nhớ những ngày kháng chiến đấu ở Việt Bắc, những thời khắc gian khó vất vả. Hình ảnh “mưa nguồn suối, lũ, mây mù” không chỉ tái hiện vẻ đẹp hoang sơ của thiên nhiên Việt Bắc mà còn thể hiện cuộc kháng chiến đầy gian khó. Đó là những gì người ở lại và những người ra đi đã trải qua, đã chịu đựng trên mảnh đất Việt Bắc suốt cuộc trường kì kháng chiến.
Câu thơ “phần ăn chấm muối, mối thù nặng vai” đánh dấu nhịp điệu 4/4 với hai vần tiểu đối tạo thành một cấu trúc hài hoà. Ý thơ diễn đạt cuộc sống kháng chiến vô cùng gian khổ và thiếu thốn. Thế nhưng, giữa cái nghèo khổ và cơ cực ấy, nhân dân Việt Bắc vẫn kiên trì, luôn kề vai sát cánh với cán bộ cách mạng, sẵn sàng chiến đấu với lòng căm hận sâu sắc.
Hình ảnh thơ như một biểu tượng về sự đoàn kết, đồng lòng và tinh thần đoàn kết giữa quần chúng kháng chiến và cán bộ cách mạng. Cụm từ “mối thù nặng vai” thể hiện cách sử dụng ngôn từ độc đáo của Tố Hữu. Tác giả đã biến cảm xúc trừu tượng thành điều cụ thể có thể đo bằng sức nặng để diễn đạt lòng căm hận lớn lao với kẻ thù xâm lược.
Trong tâm trạng lưu luyến khi chia xa, người ở lại tiếp tục gợi nhớ những ký ức đã từng gắn bó, chia sẻ một thời đồng lòng, chia sẻ gian khổ:
“Khi đi vẫn nhớ những nhà
Hắt hiu lau xám, đậm đà lòng son”
Câu thơ mô tả tình cảm chân thành, giản dị của nhân dân Việt Bắc với cách mạng qua hai vần tiểu đối hắt hiu lau xám và “đậm đà lòng son”. Cuộc sống càng khó khăn bấy nhiêu, nhân dân Việt Bắc lại càng trung thành bấy nhiêu. Với tình cảm sâu đậm, khi người cán bộ kháng chiến về, núi rừng Việt Bắc dường như trở nên hoang vắng, trống vắng. Núi rừng cũng hòa mình vào biển khát khao, nhớ thương vô bờ bến:
“Trở về rừng núi, nhớ ai
Trám bùi rơi, măng già trước”
Trám và măng là món ăn hàng ngày của lính trong chiến khu, cũng là sản vật đặc trưng của núi rừng Việt Bắc. Phép ẩn dụ trong câu thơ “trở về, rừng núi nhớ ai” gợi lên biết bao cảm xúc. Khi người về, trám vẫn đợi rụng khắp rừng, măng vẫn già trước khắp núi. Từ “ai” trong “nhớ ai” làm cho nỗi nhớ của người Việt Bắc trở nên càng thêm sâu lắng.
Người ở lại tiếp tục gợi nhớ về kỷ niệm của cuộc kháng chiến, nhắc đến chiến khu Việt Bắc liên quan đến những sự kiện lịch sử quan trọng trong cách mạng Việt Nam.
“Về còn nhớ núi non
Nhớ lúc chống Nhật, thời còn Việt Minh
Đi rồi cũng nhớ bản thân
Tân Trào, Hồng Thái, mái đình, cây đa”
Việt Bắc không chỉ đóng vai trò quan trọng trong kháng chiến chống Pháp mà còn trong cuộc tổng khởi nghĩa cách mạng tháng Tám trước đó. Đây là nơi diễn ra những sự kiện chính trị quyết định trong lịch sử cách mạng Việt Nam, là nguồn cảm hứng cho sự vất vả và hào hùng của cách mạng. Các địa danh như “Tân Trào”, “Hồng Thái”, “mái đình”, “cây đa” đã trở thành minh chứng cho cuộc chiến tranh gay go nhưng hiên ngang của dân tộc.
Trong câu thơ “ta đi, ta nhớ ta” có ba từ “ta” xen kẽ nhau trong câu thơ 6 chữ. “Ta” thứ nhất và thứ hai chỉ cán bộ về Hà Nội, “ta” thứ ba là từ đa nghĩa.
Nếu hiểu “ta” là người Việt Bắc – đại từ nhân xưng ngôi thứ hai – thì câu thơ ý rằng: cán bộ về Hà Nội, liệu có nhớ đến dân Việt Bắc và những người ở lại không?
Nếu hiểu “ta” là cán bộ kháng chiến – đại từ nhân xưng ngôi thứ nhất – thì câu thơ lại ý rằng: cán bộ về Hà Nội, liệu có nhớ về chính mình không? Còn nhớ về quá khứ, nhớ những năm tháng gian khổ chiến đấu cho lý tưởng cao cả và tự do của dân tộc không?
Chữ “ta” ở đây cũng có thể hiểu là cả người Việt Bắc và cán bộ kháng chiến. Ý thơ nhắc nhở người ra đi đừng quên những ký ức quý báu đã từng gắn bó trong quá khứ. Mỗi kỷ niệm đều chứa đựng ý nghĩa lịch sử sâu sắc, tôn vinh Việt Bắc là mẹ hiền của cách mạng, nơi sinh ra những lực lượng cách mạng và gốc rễ của mọi thành tựu.
Trong đoạn thơ ngắn chỉ với 12 câu lục bát, nhà thơ đã sử dụng tới tám từ “ta”, bảy từ “nhớ” và hai cặp từ “ta đi, ta về” lặp đi lặp lại như một điệu nhạc. Sử dụng ngôn từ giản dị mộc mạc, ý thơ hài hòa, cân xứng. Cùng với giai điệu thơ dịu dàng, tình cảm chân thành như lời ca dao, thể hiện lòng trung thành và tình yêu thương sâu sắc của người ở lại và ra đi. Đoạn thơ đã phác họa “Việt Bắc” như một bản hòa nhạc về cách mạng, cuộc sống và con người trong cuộc chiến đấu.
Phân tích khổ 3 Việt Bắc - Mẫu 10
Xuân Diệu đã nhận định rằng, 'Việt Bắc là đỉnh thơ cao nhất mà Tố Hữu đã đạt được”. Khi nhắc đến Tố Hữu, những người yêu thơ sẽ ngay lập tức nghĩ đến một nhà thơ tiêu biểu với những chủ đề thơ trữ tình Cách Mạng trong văn học Việt Nam. Thơ của ông là lẽ sống, là tình cảm của con người với đời lính, với sự nghiệp giải phóng đất nước. Nổi bật nhất là bài thơ 'Việt Bắc” được sáng tác vào tháng 10/1954.
Sau khi cơ quan trung ương của Đảng và Nhà nước rời khỏi căn cứ địa Việt Bắc để quay về Hà Nội, từ tâm tư tình cảm của tác giả, ông đã viết ra một tác phẩm xuất sắc. Mở đầu khổ ba bài thơ, thi sĩ đã thể hiện ngay những ngày tháng kỷ niệm giữa 'chúng ta” và 'ta”.
'Ta đi có nhớ những ngày
Mưa nguồn suối lũ, mây cùng mù
Ta về, còn nhớ chiến khu
Miếng cơm chấm muối, mối thù nặng vai”
Trải qua cùng nhau với biết bao khó khăn, gian khổ, càng khiến tình cảm giữa chúng ta trở nên chặt chẽ hơn. Chính vì vậy, người ở lại biểu hiện sự quan tâm lo lắng rằng người ra đi có thể nhanh chóng quên đi những kỷ niệm đó. Trở về với thành phố phồn hoa, 'ta” - những người lính cán bộ liệu còn nhớ đến 'mưa nguồn suối lũ”, 'mây cùng mù” hay không? Ở đó, không còn những cảnh thiên nhiên hùng vĩ nữa, không còn chiến khu nữa, nơi mà chúng ta đã cùng nhau đối mặt với mối thù nặng vai. 'Miếng cơm chấm muối” - dù cuộc sống có khó khăn, gian truân nhưng chúng ta vẫn cùng chia sẻ, để đánh bại 'mối thù nặng vai” - những kẻ thù gian ác đang cố gắng xâm lược đất nước của chúng ta.
Tiếp nối dòng cảm xúc, Tố Hữu thổ lộ những suy tư đó qua những bài thơ sau đây:
“Ta trở về, lòng nhớ ai
Trám rụng phủ đất, măng già bám cành”
Nhà thơ tiếp tục sử dụng phép hoán dụ 'rừng núi nhớ ai” – thể hiện tình cảm của những người ở lại. Nỗi nhớ luôn sâu sắc trong lòng nhân dân Việt Bắc với những chiến sĩ cụ hồ. Thiên nhiên cũng mang dấu ấn của tình thương, lan tỏa khắp nơi từ 'trám rụng- măng già”. Sự trở về làm mọi thứ trở nên trống trải, không còn gì thiết tha hơn nữa. Những món ăn hàng ngày của quân đội qua mười năm kháng chiến như trám rụng, măng già giờ đây không còn được thưởng thức nữa.
Ôi, bao câu hỏi trong lòng tuôn trào không ngớt:
“Ta ra đi, có nhớ quê hương
Hắt hiu lau xám, lòng son đậm đà
Ta về, vẫn nhớ núi non
Nhớ những ngày chiến đấu với Nhật, từ thời Việt Minh
Ta đi, ta có nhớ mình
Tân Trào, Hồng Thái, mái đình cây đa?'
Cụm từ 'nhớ những nhà” là biểu tượng gợi lên sự băn khoăn trong lòng: liệu cán bộ có nhớ những nơi họ đã ở, đã nghỉ ngơi, hay ngược lại là nhân dân nơi đây nhớ cán bộ nhiều hơn. 'Nhớ những nhà” đến mức 'hắt hiu lau xám”, từ 'hắt hiu” kết hợp với cây cỏ chốn rừng núi làm nổi bật hình ảnh của cảnh đời hoang dại, cô đơn giữa vẻ đẹp hùng vĩ của thiên nhiên. Mặc dù vậy, trong khung cảnh u ám đó, vẫn tồn tại tình thương ấm áp của con người. Núi non ở đây vẫn đợi chờ sự trở về, từ thời chiến đấu chống Nhật, từ thời Việt Minh cho đến hiện tại, mỗi người vẫn luôn ở bên cạnh nhau. Các địa danh lịch sử như 'Tân Trào, Hồng Thái” vẫn mãi sống đọng trong tâm trí chúng ta. Dù ở đâu, chúng ta luôn nhớ về tổ quốc, về nơi đã sinh ra, đã chia sẻ bao niềm vui và nỗi buồn, và người dân Việt Bắc mong muốn rằng các cán bộ sẽ mãi ghi nhớ điều đó.
Kết thúc phần thứ ba, Tố Hữu nhắc đến ba từ 'mình' với sự chân thành và tha thiết. Hai từ đầu tiên là để chỉ người lính cán bộ, và từ còn lại là để nói về toàn bộ nhân dân. Điều này cho thấy rằng, dù dân và cán bộ, nhưng tình cảm của chúng ta đều hướng về nhau. Các chiến công mà chúng ta đã đạt được cùng nhau phải được lưu truyền, và đó cũng là lời nhắc nhở rằng các cán bộ không được phép quên đi những gì đã hứa, những gì đã để lại ở đây. Việt Bắc là nơi sinh ra cách mạng, là nguồn động viên to lớn cho các cán bộ trong cuộc cách mạng. Do đó, những lời nhắc nhở từ người dân ở lại đối với người cán bộ lại càng trở nên quan trọng hơn bao giờ hết.
12 câu thơ trong khổ ba đã kết thúc bằng những lời nhắc nhở, những kỷ niệm chân thành. Tố Hữu đã khéo léo kết hợp những tâm tư tình cảm của cả hai bên vào nhịp thơ 2/2/2-4/4, khiến cho nhịp thơ và những lời thổn thức tâm sự của nhân dân Việt Bắc trở nên hài hòa. Ông cũng muốn nhấn mạnh rằng chúng ta phải luôn nhớ về cội nguồn dân tộc, dù là khi đói đủ, dù là khi no nê, chúng ta vẫn phải đứng vững bên nhau xây dựng cho một tương lai hòa bình và hạnh phúc cho đất nước.
Phân tích khổ 3 Việt Bắc - Mẫu 11
Tố Hữu là một nhà thơ vĩ đại của dân tộc, cuộc đời ông gắn bó với cách mạng, và thơ văn của ông cũng chứng kiến những sự kiện lịch sử hùng vĩ trong cuộc kháng chiến. Khi nhắc đến Tố Hữu, người ta thường nghĩ đến một nhà thơ yêu nước, đầy nhiệt huyết và lý tưởng. Điểm đặc biệt trong thơ của Tố Hữu chính là sự kết hợp giữa trữ tình và chính trị.
Bài thơ Việt Bắc là một trong những thành tựu lớn trong sự nghiệp sáng tác văn học yêu nước của Tố Hữu. Tác phẩm ra đời vào năm 1954, sau khi miền Bắc giải phóng, hòa bình lập lại, nhà thơ cùng Trung ương Đảng và Chính phủ trở về miền Nam, tạm biệt nơi rừng núi. Với thể thơ dân tộc và lối viết nhẹ nhàng, da diết ân tình, Việt Bắc như một khúc tâm tình đầy thương nhớ của người cách mạng với con người và núi rừng Việt Bắc. Những tình cảm thiết tha mà nhân dân dành cho cán bộ, của cán bộ dành cho nhân dân như hòa quyện vào từng câu thơ. 12 câu thơ đầu của khổ 3 tác phẩm đã thể hiện sâu sắc tình yêu thương ấy.
'Mình đi, có nhớ những ngày
Mưa nguồn suối lũ, mây cùng mưa
Mình về, có nhớ chiến khu
Miếng cơm chấm muối, mối thù nặng vai'
Lối xưng hô 'mình- ta' thường được sử dụng trong ca dao, dân ca Việt để thể hiện sự thân thiết trong tình cảm con người. Ở đây, tác giả cũng đã áp dụng lối xưng hô ấy vào bài thơ để tạo nên sức gần gũi, ân tình giữa người đi và người ở. Tiếng 'mình' mang trong mình sự yêu thương, quen thuộc, gần gũi. Những câu hỏi với chút trách móc nhưng cũng ngọt ngào, pha chút lo lắng của cặp đôi: Liệu khi ra đi, ta còn nhớ những ngày xưa không? Ta có nhớ những ngày cùng nhân dân vượt qua khó khăn không? Ta có nhớ chiến khu yêu dấu với bóng dáng con người đang chờ đợi, nhớ những bữa cơm chung trong gian khó không? Nhịp thơ nhẹ nhàng, đều đặn 2/4; 2/2/4 thể hiện sự thiết tha trong lòng người ở lại. Nỗi nhớ thương người cách mạng càng tràn ngập, kỷ niệm về ngày xưa càng trào dâng, qua biện pháp kể chuyện quen thuộc trong nghệ thuật, tác giả tái hiện những ký ức về cuộc hành quân cùng nhân dân Việt Bắc. Đó là nơi tiền tuyến đầy thách thức, hiểm nguy, nhưng mỗi người cùng nhau đấu tranh, không sợ hãi. Đó là những bữa cơm đơn giản, ấm áp, chia sẻ trong gian khó. Đó là mối thù chung của nhân dân và cán bộ, là mối thù chung của dân tộc trước kẻ thù tàn bạo. Gánh nặng của cuộc chiến, cách mạng trên vai mỗi người, nhưng trong tinh thần đoàn kết, dũng cảm, họ bước vào cuộc chiến để giành lại hòa bình, tự do cho dân tộc. Trong từng câu thơ, không có sự than vãn hay mệt mỏi trước khó khăn, mà thay vào đó là niềm tự hào của người ở lại. Họ tự hào về những ngày dũng cảm, những hành trình vượt qua khó khăn, và việc cùng nhau đánh bại kẻ thù, mang lại hòa bình và tự do cho dân tộc.
Sau khi gợi lại những kỷ niệm xưa, nhân dân tiếp tục bày tỏ những tình cảm chân thành, nỗi lưu luyến với những người đã ra đi:
'Mình về, rừng núi nhớ ai
Trám bùi để rụng, măng mai để già'
Cách gọi 'bản thân', 'ai' thực sự độc đáo, chỉ là hai nhưng một, đó là hình ảnh của những người cách mạng đã trở về. 'Núi rừng' là cách diễn đạt hình ảnh để chỉ người dân tại Việt Bắc. Các nhà lãnh đạo đã quay trở lại thủ đô của sự giàu có và dịu dàng, nhưng liệu họ có nhớ những nơi núi rừng hoang sơ không? Với những người ở lại, sự 'nhớ' là một cảm xúc sâu sắc, chôn sâu trong lòng, hiện diện trong từng khung cảnh ở đây: rừng núi, cây trám, măng non... Cảm xúc buồn bã vì phải chia xa mà nhân dân dành cho chiến sĩ là thật lòng, thấm nhuần, đầy xúc động.
Nỗi nhớ tràn ngập khi nghĩ về những người đã ra đi, nhân dân không thể nào không lo lắng rằng ai đó sẽ quên đi 'người ở lại' và hỏi:
'Ta đi, có nhớ những mái nhà
Phủ phục nơi đó, chất chứa tình thân
Ta về, có nhớ núi non
Nhớ thời kháng chiến, thuở của Việt Minh.'
Tác giả lựa chọn hình ảnh của lá lau và sự lạnh lẽo như một biểu tượng của thiên nhiên Việt Bắc để đặt câu hỏi về tình cảm mà người cách mạng dành cho họ. Người ra đi có nhớ những ngôi nhà thoáng qua rặng lá lau, thoáng qua giữa núi rừng tráng lệ không? Người ra đi có nhớ những tình cảm ấm áp, sâu đậm của những người ở lại không? Với những người dân Việt Bắc, tình yêu đối với cách mạng và với cán bộ của họ vẫn mãi mãi thắm thiết, đậm đà.
Đoạn thơ kết thúc bằng việc nhắc lại những sự kiện lịch sử đáng tự hào của các nhà lãnh đạo và nhân dân:
'Ta đi, ta có nhớ ta
Tân Trào, Hồng Thái, mái đình, cây đa.'
Hai dòng thơ chỉ 14 chữ nhưng 'ta' chiếm 3 chữ, cho thấy sự đoàn kết giữa nhân dân và cán bộ. Không còn sự phân biệt giữa 'ta', 'mình' nữa, mà là sự hiểu biết, hòa hợp với nhau. Ta - người ra đi, ta - người ở lại, có còn nhớ những nơi đã cùng nhau chiến đấu, nhớ những địa danh của cuộc kháng chiến như 'Tân Trào'; 'Hồng Thái' không? Đó là câu hỏi nhưng cũng là một lời nhắc nhở về quá khứ, những tình cảm trung thành đã từng kết nối. Đừng bao giờ quên những hy sinh, những mất mát đã trải qua, sống với trách nhiệm với hiện tại, không ngủ quên trên chiến thắng, phải cảnh giác, bảo vệ đất nước và xây dựng tương lai. Đừng bao giờ phản bội quá khứ hào hùng của lịch sử chúng ta.
12 câu thơ không nhiều nhưng ghi lại những tình cảm tốt đẹp, tình cảm giữa người chiến sĩ cách mạng và người dân Việt Bắc, đáng quý, không chỉ là tình quân dân mà còn là tình đồng đội thân thiết, đáng trân trọng.
Phân tích khổ thơ 3 của bài thơ Việt Bắc - Mẫu 12
Bài thơ Việt Bắc là điểm cao trong sự nghiệp sáng tác thơ của Tố Hữu và thơ kháng chiến chống Pháp. Nó là biểu tượng của tình yêu và lòng hào hứng, thể hiện lòng biết ơn sâu sắc, trung thành của nhà thơ đối với căn cứ Cách Mạng của cả nước. Điều này được thể hiện rõ trong khổ thơ:
Ta đi, có nhớ những ngày.
Tân Trào, Hồng Thái, mái đình, cây đa ?
Việt Bắc là một tác phẩm dài 150 dòng của Tố Hữu, viết vào tháng 10/1954 khi các lãnh đạo Đảng và chính phủ, Bác Hồ và các cán bộ rời khỏi Thủ đô gió mát để trở về Thủ đô hoa vàng nắng Ba Đình. Đoạn thơ này đầy kỷ niệm và nỗi nhớ về những năm tháng ở chiến khu Việt Bắc, là sự nhớ nhung sâu sắc, tình cảm mơ mộng của người ở và người đi, trong cuộc kháng chiến.
Bắt đầu với những câu hỏi ngọt ngào:
Ta đi, có nhớ những ngày
Mưa nguồn suối lũ, những mây cùng mưa
Ta về, có nhớ chiến khu
Miếng cơm chấm muối, mối thù nặng vai
Trong khổ thơ, xuất hiện nhiều cụm từ nhớ, thể hiện tâm trạng của người ở lại - một tâm trạng quan tâm, lo lắng: Cán Bộ về Thủ đô, Cán Bộ có nhớ chiến khu Việt Bắc không? Điều này là để khơi gợi lại những ngày kháng chiến gian khổ. Thơ miêu tả thiên nhiên Việt Bắc, như mưa nguồn suối lũ, mây và mưa, cảnh thiên nhiên hoang sơ, thời tiết khắc nghiệt, nhưng vẫn mang nét trữ tình, mộng mơ và hùng vĩ. Ngoài ra, còn thể hiện cuộc sống thiếu thốn, gian khổ với miếng cơm chấm muối. Mối thù nặng vai gợi nhớ về mối thù sâu sắc của nhân dân với kẻ thù bán nước. Đồng thời, là lời nhắc nhở về quá khứ tự hào, khi mình và ta đồng lòng đánh đuổi kẻ thù, mang lại độc lập, tự do và hạnh phúc cho nhân dân. Sử dụng nghệ thuật tiểu đối và ngắt nhịp 2/2/2 - 4/4 tạo ra sự nhịp nhàng, cân đối cho câu thơ.
Tiếp tục dòng cảm xúc, vẫn là những câu hỏi của Việt Bắc nhưng trong vần thơ lại là sự thổ lộ của người ở lại, biểu hiện tình cảm thân thiết với cán bộ trở về:
Ta về, rừng núi nhớ ai
Trám bùi rụng, măng mai già
Tố Hữu đã dùng phép hoán dụ 'rừng núi nhớ ai', rừng núi là biểu tượng của người ở lại, còn 'ai' chỉ người cán bộ trở về, nhấn mạnh tình cảm sâu sắc và nỗi nhớ của nhân dân Việt Bắc đối với những người kháng chiến, với Đảng và chính phủ. Thiên nhiên và con người Việt Bắc nhớ cán bộ trở về đến mức trám bùi rụng, măng mai già, hai loại thực phẩm thường ngày của bộ đội, của cán bộ kháng chiến; đồng thời cũng là đặc sản của thiên nhiên Việt Bắc. Việc cán bộ trở về khiến cho núi rừng Việt Bắc trở nên trống vắng, buồn bã đến lạ thường, ngay cả khi trám bùi, măng mai cũng không ai thu hái. Người ở lại đã thể hiện tình cảm chân thành và tha thiết.
Nhân dân Việt Bắc vẫn tiếp tục hỏi, nhưng trong đoạn thơ này, câu hỏi được nhấn mạnh hơn, thể hiện rõ ràng hơn: 'Cán Bộ về xuôi có nhớ cảnh vật Việt Bắc, con người Việt Bắc, nhớ những năm tháng cùng nhau kháng chiến không?'
Ta đi, có nhớ những nhà
Hắt hiu lau xám, lòng son đậm đà
Ta về, có nhớ núi non
Nhớ thời kháng Nhật, thuở còn Việt Minh.
Dòng từ 'nhớ những nhà' - biện pháp hoán dụ - khiến ta hiểu được tâm trạng lo lắng của người ở lại, không biết liệu cán bộ có nhớ đến nhân dân Việt Bắc hay không? Trong khi đó, nhân dân Việt Bắc nhớ cán bộ đến mức hắt hiu lau xám. Hình ảnh lau xám kết hợp với thiên nhiên Việt Bắc càng làm nổi bật khung cảnh hoang vắng, đơn sơ, im lặng của núi rừng. Tuy nhiên, tâm trạng đó đối lập với tấm lòng son, ấm áp và chân thành của con người Việt Bắc. Nhân dân Việt Bắc cũng muốn biết liệu cán bộ có nhớ núi non, thiên nhiên Việt Bắc hùng vĩ không? Có nhớ thời gian cùng nhau kháng Nhật, thuở còn Việt Minh không? Tình thương của đồng bào Việt Bắc đối với bộ đội, với Cách Mạng, làm cho Việt Bắc - quê hương của Cách Mạng - càng thêm rực rỡ trong lòng người.
Kết thúc đoạn thơ là sự nhớ về những địa danh lịch sử:
Ta đi, ta có nhớ ta
Tân Trào, Hồng Thái, mái đình, cây đa.
Chỉ với hai câu thơ, tác giả đã truyền đạt rất nhiều tình cảm và suy tư; đặc biệt là ở câu thơ cuối cùng, ba từ 'ta' kết hợp vào nhau nghe rất chân thành và sâu lắng. Từ 'ta' lần thứ nhất và thứ hai được dùng để chỉ người cán bộ trở về, trong khi từ 'ta' lần thứ ba có thể hiểu theo nhiều cách. Nếu hiểu rộng, 'ta' là Việt Bắc - đại từ nhân xưng ngôi thứ hai - thì câu thơ mang ý nghĩa: Cán bộ trở về có nhớ đến nhân dân Việt Bắc, nhớ đến người ở lại không? Nếu hiểu hẹp hơn, 'ta' chính là cán bộ trở về - đại từ nhân xưng ngôi thứ nhất - khiến cho câu thơ được hiểu theo một cách khác: Cán bộ trở về, cán bộ có nhớ chính mình không? Có nhớ quá khứ của bản thân, nhớ những năm tháng chiến đấu gian khổ vì lý tưởng cao đẹp và độc lập tự do của dân tộc không? Với cách hiểu này, người ở lại đặt ra một vấn đề có tính thời sự, sợ rằng mọi người sẽ ngủ quên trên chiến thắng, quên đi quá khứ hào hùng của mình, thậm chí phản bội lại lí tưởng cao đẹp của bản thân. Nhà thơ Tố Hữu đã phác họa trước được diễn biến tâm lý của con người sau chiến thắng, điều này là câu thơ trừu tượng và triết lý sâu sắc.
Tân Trào, Hồng Thái, mái đình, cây đa.
Trong câu thơ cuối của khổ ba, người ở lại nhắc đến hai địa danh nổi tiếng liên quan đến hai sự kiện quan trọng từng diễn ra ở Việt Bắc. Địa điểm đầu tiên: cây đa Tân Trào (12/1944), nơi lễ xuất phát của quân đội giải phóng Việt Nam đã diễn ra, từng chỉ với mấy chục thành viên nhưng sau đó trở thành lực lượng chủ chốt đem lại chiến thắng. Địa điểm thứ hai là đình Hồng Thái, nơi Bác đã chủ trì cuộc họp quyết định cuộc Cách mạng Tháng 8 (8/1945); quyết định này giúp cuộc kháng chiến chống Pháp thành công, đem lại độc lập tự do cho đất nước. Tố Hữu sử dụng hai địa danh lịch sử để nhấn mạnh câu hỏi của người ở lại và nhắc nhở nhẹ nhàng: liệu cán bộ về xuôi có nhớ rằng Việt Bắc là nơi của Cách mạng, là nguồn nuôi dưỡng của Cách Mạng hay không? Và liệu họ còn trung thành, gắn bó với Việt Bắc như trước không?
Trong bài thơ Việt Bắc với chỉ 12 câu thơ trong khổ ba, Tố Hữu đã đưa ta vào không gian của hoài niệm và kỷ niệm, vào một thế giới của tình nghĩa Cách Mạng. Điểm nổi bật nhất trong khổ thơ là việc sử dụng hai cụm từ đối lập 'mình đi - mình về' một cách khéo léo. Thông thường, đi và về là hai hướng trái ngược, nhưng ở trong bài thơ này, 'mình đi - mình về' đều chỉ một hướng là về xuôi, về Hà Nội. Với cách sắp xếp cấu trúc và nhịp thơ đều đặn 2/2/2 - 4/4, âm điệu thơ trở nên nhịp nhàng, cân xứng như nhịp chao của võng đong đưa, phù hợp với phong cách thơ trữ tình - chính trị của Tố Hữu.
Giọng thơ tâm tình ngọt ngào và nghệ thuật biểu hiện giàu tính dân tộc của Tố Hữu đã làm nên thành công của bài thơ Việt Bắc. Những chi tiết về ánh sáng và tình người, từ miếng cơm chấm muối, trám bùi, măng mai, mái nhà hắt hiu lau xám đến mối thù hai vai chung gánh, những tấm lòng son sẽ không bao giờ phai nhạt, sẽ sống mãi trong lòng nhà thơ và trong tâm trí của người dân Việt Bắc, của những cán bộ về xuôi.
......
Tải file tài liệu để xem thêm bài văn mẫu Phân tích khổ 3 Việt Bắc