Phân tích sự lãng mạn và tinh thần bi tráng trong Tây Tiến của Quang Dũng đưa ra 2 gợi ý cách viết kèm 12 mẫu văn cực kỳ hay. Giúp học sinh tự học để mở rộng, nâng cao kiến thức về cách phân tích sự lãng mạn, tinh thần bi tráng và thông điệp mà nhà văn muốn truyền đạt.
Bài thơ Tây Tiến được học trong chương trình Ngữ văn 10 Chân trời sáng tạo và Ngữ văn 12 hiện nay. Vì thế, TOP 12 bài văn phân tích sự lãng mạn và bi tráng trong Tây Tiến dưới đây sẽ là nguồn tư liệu cực kỳ hữu ích, gồm cả mẫu ngắn gọn và đầy đủ để các bạn tham khảo, lựa chọn theo khả năng viết của mình. Ngoài ra, các bạn cũng có thể tham khảo thêm về cách mở bài Tây Tiến, phân tích Tây Tiến, cảm nhận về bài thơ Tây Tiến.
Dàn ý phân tích sự lãng mạn và tinh thần bi tráng
I. Giới thiệu
- Giới thiệu về nhà thơ Quang Dũng và bài thơ Tây Tiến.
- Đặt vấn đề cần phân tích: Sự lãng mạn và tinh thần bi tráng trong bài thơ Tây Tiến.
II. Phần chính
1. Định nghĩa
- Sự lãng mạn: Cảm hứng sáng tạo dựa trên cái tôi chủ quan của tác giả, vượt ra ngoài hiện thực, thoát khỏi thực tại và cao hơn mức độ cá nhân.
- Sự lãng mạn trong văn học từ năm 1945 đến 1975:
- Khen ngợi lòng anh hùng của cuộc cách mạng.
- Tin tưởng vào một tương lai rực rỡ, niềm tự hào trong chiến thắng của dân tộc.
- Tinh thần bi tráng: Không tránh né khỏi thực tại, dù buồn bã, đau khổ nhưng không uẩn khúc, ngược lại, lại càng tràn đầy hào hùng, mạnh mẽ.
2. Sự lãng mạn và tinh thần bi tráng trong bài thơ Tây Tiến
* Sự lãng mạn trong bài thơ Tây Tiến
- Kỷ niệm đau lòng của nhà thơ Quang Dũng về quân đội Tây Tiến.
- Bức tranh về vẻ đẹp mạnh mẽ, tươi đẹp của thiên nhiên Tây Bắc, sự hùng vĩ và cuộc sống sinh hoạt của những người dân miền núi nhìn qua góc nhìn lãng mạn của những nghệ sĩ, lính Tây Tiến.
- Khung cảnh núi non hùng vĩ, lãng mạn nhưng cũng đầy nguy hiểm, khắc nghiệt: “Sông Mã xa lắc... cô đơn”, “Dốc lên... ngàn thước xuống”; “Đêm đêm Mường Hịch cọp đùa vui”...
- Cảnh sinh hoạt của nhân dân miền núi: “nhà ai Pha Luông mưa bay khắp nơi”, “Mường Lát hoa nở đầy đêm dịu dàng”, “Nhớ ôi... hương vị nồng nàn của nếp xôi”, “Doanh trại sáng rực... tràn đầy tinh thần thơ”, “Người đi Châu Mộc... hoa đua nhau nở”...
=> Trong khó khăn, gian khổ, khắc nghiệt, những lính Tây Tiến vẫn hướng tới những giá trị cao quý.
* Tinh thần hào hùng trong Tây Tiến
- Trong việc viết về chiến tranh, Quang Dũng không đề cập đến súng đạn, không miêu tả khung cảnh của chiến trường nhưng chúng ta vẫn cảm nhận được sự khốc liệt của cuộc chiến: “Tây Tiến đoàn quân không bóng dáng…”, “Một vài nơi biên cương trồi sụt... xa xôi”... Tuy nhiên, họ vẫn “Binh lính mặc áo màu lá cây quyến rũ”, “Đi trên chiến trường không hề sợ mất mạng”.
=> Tượng trưng cho người lính mạnh mẽ, kiên cường, và vĩ đại.
- Nhà thơ mô tả về sự hy sinh của đồng đội mà không hề miêu tả nỗi đau, mà thay vào đó lại là tinh thần kiên cường: “Áo bào thay chiếu... múa bên dòng sông”.
3. Ý nghĩa của cảm hứng lãng mạn và tinh thần bi tráng
- Hai cảm hứng này kết hợp, gắn kết với nhau tạo nên bản sắc của nhà thơ, tạo nên vẻ đẹp độc đáo của người lính Tây Tiến.
- Đóng góp quan trọng vào việc truyền đạt ý nghĩa, tư tưởng của nhà thơ Quang Dũng...
III. Kết luận
Xác nhận giá trị của cảm hứng lãng mạn và tinh thần bi tráng trong bài thơ Tây Tiến.
Cảm hứng lãng mạn và tinh thần bi tráng trong Tây Tiến - Mẫu 1
Quang Dũng tham gia vào binh đoàn Tây Tiến từ những ngày đầu thành lập. Những trải nghiệm đó đã làm cho nhà thơ bị ấn tượng và viết nên bài thơ 'Tây Tiến'. Bài thơ này được coi là một tác phẩm vĩ đại của thơ cách mạng, là biểu tượng cho tâm hồn của Quang Dũng. Nó giúp độc giả hiểu được cảm hứng lãng mạn và tinh thần kiên cường.
Cảm hứng lãng mạn là một điểm đặc biệt quan trọng trong văn học cách mạng trong thời kỳ 1945 - 1975. Điều này được thể hiện rõ trong bài thơ 'Tây Tiến' thông qua sự miêu tả của thiên nhiên trữ tình và hình ảnh người lính lãng mạn, hào hoa. Còn cảm hứng bi tráng đưa ra cái nhìn thực tế về những khó khăn và thử thách trên con đường chiến đấu của người lính. Mặc dù sống và chiến đấu trong hoàn cảnh khắc nghiệt nhưng họ vẫn tiếp tục bước đi mạnh mẽ, dũng cảm. Cảm hứng lãng mạn và bi tráng hòa quyện với nhau trong toàn bộ bài thơ tạo nên vẻ đẹp độc đáo của tác phẩm 'Tây Tiến'.
Cảm hứng lãng mạn được nhà thơ thể hiện một cách rõ ràng thông qua sự miêu tả của thiên nhiên miền Tây trữ tình. Câu thơ 'Mường Lát hoa về trong đêm hơi' tạo ra một không gian lãng mạn và huyền bí. Ý thơ khiến người đọc không thể hiểu rõ một cách chắc chắn mà chỉ có thể cảm nhận bằng cảm xúc. Và sự trữ tình của thiên nhiên miền Tây đã hé lộ tâm hồn nhạy cảm, lãng mạn của người lính. Cảm hứng lãng mạn còn được thể hiện qua câu thơ 'Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi'. Hai từ 'nhà ai' mang lại cảm giác xúc động, gợi nên nỗi nhớ thương. Câu thơ nhẹ nhàng và du dương giúp ta cảm nhận được sự thanh thản, nhẹ nhàng trong tâm hồn của người lính. Sau những ngày dài hành quân vất vả, đây có lẽ là lúc họ được nghỉ ngơi và chiêm ngưỡng vẻ đẹp của thiên nhiên. Không chỉ nhớ về thiên nhiên miền Tây, họ còn nhớ về con người nơi đây, được thể hiện qua ý thơ 'Nhớ ôi Tây Tiến cơm lên khói/Mai Châu mùa em thơm nếp xôi'.
Đọc bài thơ, người đọc không chỉ cảm nhận được chất lãng mạn mà còn cảm nhận được tinh thần bi tráng. Nhà thơ nói về cái bi nhưng không biến nó thành sự bi lụy, đau khổ. Trên con đường hành quân, người lính gặp phải vô vàn khó khăn và thử thách. Câu thơ 'Anh bạn dãi dầu không bước nữa' nhấn mạnh sự vất vả khiến cho bước chân người lính trở nên mệt mỏi. Trước những gian truân đó, người lính đã phải 'Gục lên súng mũ bỏ quên đời'. Tinh thần kiên cường và dũng cảm của họ đã được thể hiện qua những cung bậc cảm xúc của tác giả.
Bước vào cuộc chiến, người lính đối mặt với nhiều hiểm nguy và bệnh tật. Câu thơ 'Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc' nhấn mạnh sự đặc biệt của tình trạng này. Mặc dù họ không có tóc do bị sốt rét rừng nhưng họ vẫn toát lên sự can trường và mạnh mẽ. Hai từ 'đoàn binh' mang lại cảm giác trầm hùng. Và cách nói 'không mọc tóc' ẩn chứa chất ngang tàng và đầy thách thức của người lính. Quang Dũng đã tạo ra sự đối lập giữa bề ngoài và thần thái bên trong của họ. Điều này giống như một lời thách thức mạnh mẽ từ phía người lính.
Chất bi thương trong bài thơ rõ ràng qua câu thơ 'Rải rác biên cương mồ viễn xứ'. Ý thơ đề cập đến sự hy sinh của người lính trên con đường chiến đấu. Câu thơ này khiến ta tưởng tượng đến những nấm mồ nhỏ bé, cô đơn nằm rải rác khắp nơi, chìm dần vào lãng quên. Qua đây, người đọc không khỏi xót xa với những hy sinh trong cuộc đời người lính. Bước vào cuộc chiến và hiểu rõ mất mát, họ vẫn hiên ngang đương đầu với khó khăn, thử thách. Chi tiết 'Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh' tuyệt đẹp đã khắc họa tư thế đi lên của người lính.
Quang Dũng mang đến cho độc giả một bài thơ hay với cảm hứng lãng mạn và tinh thần bi tráng. Những người lính ra đi vẫn là nguồn sống mới như một người cựu chiến binh đã từng viết 'Người hi sinh đất hồi sinh/Tim người hóa ngọc lung linh giữa đời'.
Cảm hứng lãng mạn và tinh thần bi tráng trong bài thơ Tây Tiến - Mẫu 2
Quang Dũng là nhà thơ đa tài, có khả năng diễn tả vẻ đẹp của thiên nhiên và con người một cách tài hoa tinh tế. Bài thơ Tây Tiến tiêu biểu cho hồn thơ ấy. Mặc dù đề cập đến cái bi, nhưng nhà thơ đã tạo ra cảm hứng lãng mạn, âm hưởng tráng lệ, hào hùng. Tinh thần bi tráng và cảm hứng lãng mạn đã được triển khai trên nền tình cảm kí ức về Tây Tiến.
Cuối năm 1947, Quang Dũng gia nhập đoàn quân Tây Tiến và tham gia phối hợp với bộ đội Lào bảo vệ biên giới. Địa bàn hoạt động của đoàn quân khá rộng và phần lớn là thanh niên trí thức Hà Nội. Mặc dù sinh hoạt của họ vô cùng thiếu thốn, họ vẫn chiến đấu dũng cảm và lạc quan. Cuối năm 1948, Quang Dũng chuyển sang đơn vị khác và viết bài thơ 'Nhớ Tây Tiến'.
Nếu như các nhà thơ khác viết về người lính bằng cảm hứng hiện thực, thì Quang Dũng lại đưa ra hình ảnh người lính độc đáo qua cảm hứng lãng mạn và tinh thần bi tráng.
Khái niệm về 'lãng mạn' thường được hiểu sai lầm, nhưng thực tế nó không thể thiếu trong cuộc sống tinh thần và có nhiều diễn giải khác nhau. Lãng mạn không chỉ làm con người nhỏ bé, yếu đuối mà còn mang lại sức mạnh để thực hiện những điều phi thường.
Cuộc sống tinh thần của mỗi con người cần những ước mơ, trí tưởng tượng và lãng mạn để tạo ra sự phong phú và tinh thần hoàn thiện. Cảm hứng lãng mạn thường được diễn đạt bằng ngôn từ giàu tính biểu cảm và tạo ra ấn tượng mạnh mẽ.
Cảm hứng lãng mạn của bài thơ thể hiện sự nhớ nhung của tác giả về Tây Tiến. Những kỷ niệm ấy trở về trong nỗi nhớ thương, khiến tác giả không thể kìm nén nổi.
Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi
Nhớ về rừng núi nhớ chơi vơi
Dòng sông cuồn cuộn chảy qua những ngày gian truân của người lính Tây Tiến. Dù đã 'xa rồi', đã trở thành quá khứ, nhưng nỗi nhớ vẫn còn sâu sắc, không thể nào phai nhạt: 'Nhớ chơi vơi'.
Tiếng gọi 'Tây Tiến ơi' vang lên thân thiết như tiếng gọi người thân. Sự kết hợp giữa 'ơi' và 'chơi vơi' tạo nên âm điệu tha thiết, bồi hồi trong lòng người, đưa ta về qua lại trong không gian và thời gian. Hai tiếng 'Xa rồi' như một lời thở dài đầy thương nhớ, phản ánh tâm tình của người lính Tây Tiến đối với dòng sông Mã và núi rừng miền Tây.
Sau tiếng gọi ấy, biết bao hồi ức về thời kỳ gian khổ trên chiến trường Tây Bắc hiện về trong tâm trí của người lính Quang Dũng. Nỗi nhớ dài ra theo dòng sông, vượt qua những tên bản, tên mường và những chặng đường hành quân khó khăn:
Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi
Mường Lát hoa về trong đêm hơi.
Những kỷ niệm đẹp về mối quan hệ giữa quân dân nảy mầm từ những gian khó hy sinh của người lính.
Nhớ ôi Tây Tiến, cơm bốc khói lên
Mai Châu mùa nắng, hương cơm nếp xôi
Bên cạnh núi rừng hiểm trở với độ cao kinh người, là những mái nhà thấp thoáng hiện ra trong làn mưa mỏng, nơi núi gặp trời. Nơi bên cạnh vùng đất hoang dã ẩn chứa bí mật của rừng thiêng với những tiếng thác gầm thét, những con hổ cười chênh vênh, là một bản làng có cảm giác cơm bốc khói, có mùi thơm của cơm nếp xôi và những cô gái xinh đẹp như những bông hoa rừng. Đó là khung cảnh thực tế của chiến trường Tây Tiến đã được thấu hiểu qua tâm hồn lãng mạn, hào hoa của những anh lính người Hà Nội. “Nhớ ôi”, “cơm bốc khói”, đó là tiếng lòng dạt dào của các anh khi nhớ về cảnh ấm áp của tình quân dân.
Không chỉ có nỗi nhớ, tinh thần lãng mạn trong bài thơ Tây Tiến còn là cảm hứng bay bổng của nhà thơ hướng tới vẻ đẹp hùng vĩ và hào hoa của thiên nhiên và con người Tây Bắc. Trong kí ức của nhà thơ, thiên nhiên Tây Bắc trở thành một biểu tượng lớn, nhằm tăng cường sự quyết tâm của người lính Tây Tiến
Đi lên dốc khuỷu, bước vào thung lũng sâu
Mây trắng mờ ẩn, súng vươn cao ngút trời
Ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống
Nhà ai ở Pha Luông mưa rơi ngoài khơi
Đó chính là những gian khổ mà người lính phải trải qua. Trên đỉnh núi: mây sương cao vút, núi cao tưởng chừng như chạm tới trời: Mây sương – Súng vươn cao ngút trời. Mây và sương mù tụ lại tạo nên một cảnh tượng u ám, người lính đi trên những ngọn núi cao như đi trên những đám mây, súng như vươn cao đến chạm tới bầu trời. Súng của người chiến sĩ đã trở thành một biểu tượng đầy chất quân nhưng cũng vô cùng ngộ nghĩnh yêu đời “súng vươn cao ngút trời”
Hình tượng đó đưa ta tới hình ảnh 'Súng Trăng Treo' của Chính Hữu. Ở đây, cái đẹp của thiên nhiên và con người hòa quyện. Thiên nhiên và con người đã trở nên thân thiết đến mức khó tin: Súng (người chiến sĩ) hòa mình vào bầu trời (thiên nhiên).
Các anh ta vượt qua sương mù, đêm u ám, băng qua dốc cao, vực thẳm lên tận đỉnh núi phủ mờ trong sương mù, gió lạnh núi rừng mưa xối xa. Bao quanh họ là mọi nguy hiểm đe doạ, tiềm ẩn mỗi bước đi của họ, như chẳng ngừng nhấn chìm đoàn quân mệt mỏi. Cảnh vật xung quanh có khiến họ nao lòng không? Không! Sau khoảnh khắc kinh hoàng ban đầu, họ lại tiến về phía trước mạnh mẽ hơn. Đến khi chiếm lĩnh mọi điểm cao, dừng chân trên một ngọn đồi nào đó, nhìn ra phía xa, qua không gian u ám của sương mù rừng mưa núi, họ bất ngờ tràn ngập niềm vui hạnh phúc trước cảnh làng quê bình dị yên ả tuyệt đẹp như được trải ra trước mắt:
“Ai nhà nào cũng có Pha Luông gợi nhớ xa xôi”.
Câu thơ toát lên vẻ êm đềm mềm mại, nhẹ nhàng như hơi gió mát làm khô đi những giọt mồ hôi mệt nhọc của họ, và mở ra trước mắt họ hình ảnh thôn xóm xanh tươi thanh bình xen lẫn trong cơn mưa phủi bụi gợi lên nỗi nhớ quê nhà. Dưới cái nhìn hào hoảng và lãng mạn của người lính Tiến Hà, núi rừng sâu thẳm bỗng trở nên đẹp đẽ lạ kỳ, vẻ đẹp nên thơ và đầy oai vệ
Vẻ đẹp ấy được cảm nhận từ một hiện thực gian khổ và đầy khốc liệt, gặp gỡ những khó khăn. Chính vì điều đó, sự lãng mạn của bài thơ càng trở nên quý giá, trân trọng hơn. Nói đúng hơn, chính sự lãng mạn ấy giúp người lính Tiến Hà vượt qua mọi khó khăn, mọi gian khổ thử thách. Sự lãng mạn trong Tiến Hà dường như tạo ra sự 'thanh bình' giữa cảnh vật và tâm hồn con người. Vì vậy bên cạnh một thiên nhiên nguy hiểm, dữ dằn, những ngọn núi đá đứng đắn, những cảnh rừng nước nguyên sơ... ta lại thấy một thiên nhiên nồng nàn đến đắm chìm, một Tây Bắc đẹp như bức tranh nước mắt:
Người đi Châu Mộc chiều sương kia
Có hay hồn lá bờ bến rêu phong
Có nhớ hình bóng trên thuyền gỗ mộc
Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa.
Một dòng sông trong buổi chiều sương phủ mờ, hai bên bờ im lặng, hoang sơ như thời đồ đá. Và nổi bật trên dòng sông thần thoại đó là Hình bóng nhẹ nhàng đẹp mắt của người lái thuyền trên chiếc thuyền gỗ mộc cùng hồn láu và hoa đong đưa tạo dáng bên dòng nước lũ. Tất cả, người và cảnh đều hòa quyện duyên dáng đẹp mộng.
Ngòi bút của Quang Dũng không phải miêu tả mà chỉ khơi gợi. Ông không diễn tả cây lau mà chỉ kêu gọi hồn láu. Ông không nhớ con người Châu Mộc mà nhớ hình bóng mềm mại của họ hiện lên trên dòng nước. Không nhớ những đóa hoa mà tác giả chỉ nhớ sự nghiêng nghiêng đong đưa dịu dàng của những bông hoa rừng.
Qua vài nét vẽ thoáng qua, cảnh vật trong thơ Quang Dũng như có linh hồn. Nhà thơ không chỉ làm hiện lên trước mắt người đọc vẻ đẹp của thiên nhiên mà còn khơi gợi được phần thiêng liêng của cảnh vật. Cách đặt câu hỏi 'có nhớ', 'có hay' của tác giả đã tạo ra âm nhạc của khổ thơ mang một vẻ bí ẩn như đang đưa hồn ta vào cõi mộng. Chất nhạc, chất hoạ, chất thơ cũng toát ra từ đó. Và cũng qua đây ta hiểu thêm vẻ đẹp trong tâm hồn của những chiến sĩ Tây Tiến: Giữa gian khổ và thách thức, giữa địa ngục và cái chết, họ vẫn lạc quan yêu đời, hồn nhiên và thơ mộng.
Và không chỉ Thiên nhiên Tây Bắc lúc nào cũng 'trêu chọc' trong nỗi nhớ của nhà thơ giữa hai màu sắc vừa mạnh mẽ, dữ dội, vừa tươi mới, thơ mộng. Mà chất lãng mạn bay bổng này cũng hiện rõ khi tác giả mô tả bức chân dung của người lính Tây Tiến.
Đoàn binh Tây Tiến đầu trọc không mọc tóc
Quân lính xanh như màu lá dữ dằn oai vệ
Thơ chiến kháng thường nhắc đến căn bệnh sốt rét gieo rắc. Chính Hữu trong 'Đồng chí' viết về 'Tôi và anh biết từng cơn rùng mình, Rét tràn người với trán ướt mồ hôi'. Còn Tố Hữu trong 'Cá nước' cũng miêu tả 'Giọt giọt mồ hôi rơi, Trên khuôn mặt anh đỏ ửng'. Quang Dũng trong 'Tây Tiến' không giấu giếm gian khó, bệnh tật và hy sinh của lính chiến. Nhưng mọi thứ không được phô trương, mà qua cái nhìn lãng mạn của thơ.
'Đoàn binh không mọc tóc': mô tả lính Tây Tiến đã cạo đầu sạch sẽ. Không phải là hình ảnh tưởng tượng, mà là sự thật khắc nghiệt: một số lính phải cạo đầu để chống sốt rét, một số khác thì tóc rụng đi vì căn bệnh.
Còn 'quân xanh màu lá' nghĩa là gì? Màu xanh của ngụy trang hay là màu áo? Có lẽ cả hai, nhưng điều quan trọng nhất là nhấn mạnh về căn bệnh sốt rét rừng. Những ngày đói khát, thiếu thốn, cùng với sốt rét đã khiến lính trở nên gầy guộc, da xanh nhợt
'Đoàn binh không mọc tóc' và 'quân xanh màu lá' thể hiện sự dữ dội, khắc nghiệt của chiến tranh, của dân tộc chống lại kẻ thù. Dù có vẻ như yếu đuối, nhưng lính Tây Tiến vẫn tràn đầy sức mạnh tinh thần: 'Không mọc tóc', 'quân xanh màu lá' nhưng 'dữ dằn oai vệ', gan dạ dũng cảm. Hình ảnh 'dữ oai vệ' thể hiện chí khí kiên cường, gan dạ quả cảm. Quang Dũng sử dụng ngôn từ mộc mạc để nổi bật tính oai vệ dũng cảm của lính Tây Tiến. Và sự dũng cảm ấy còn thể hiện qua ánh mắt: 'Ánh mắt sáng bừng', là ánh mắt tức giận, đầy sức mạnh, đầy hồi hộp khi đối diện với địch
Với mấy câu thơ, tác giả đã vẽ nên hình ảnh đoàn quân phi thường, độc đáo, không giống ai trong cuộc đời cũng như trong thơ. Không chỉ có sức mạnh phi thường, họ còn có đời sống nội tâm phong phú, những ước mơ hào hoa bay về hai phía chân trời: Mơ về Hà Nội dáng kiều thơm
Nếu người nông dân mặc áo lính của Chính Hữu mang theo nỗi nhớ giếng nước gốc đa, người lính trong thơ Quang Dũng thì nỗi nhớ ấy gắn với mơ: Mơ dáng kiều thơm. Họ sống giữa núi rừng miền Tây ác liệt, lửa đạn mịt mùng nhưng vẫn mơ về Hà Nội thân yêu.
Đó là vầng sáng của người lính, tạo nên sự cân bằng thư thái trong tâm hồn sau mỗi chặng đường hành binh vất vả. Nó không làm thối chí nản lòng mà ngược lại tăng thêm sức mạnh, tăng thêm nhiệt tình cách mạng. Bởi họ hiểu rõ mình chiến đấu vì ai, vì cái gì. Và họ cũng hiểu rõ giá trị của tình yêu, của độc lập tự do của một dân tộc.
Để diễn tả tình cảm một cách đầy đủ, nhà thơ đã vận dụng thủ pháp nghệ thuật đối lập giữa cái hùng vĩ, dữ dội với cái tuyệt mĩ, thơ mộng, giữa gian khổ với anh hùng, bất khuất.
Nhà thơ đã để tạo sự 'cân bằng' giữa hiện thực và lãng mạn. Sự đối chọi này được thể hiện trong từng câu thơ, từng đoạn thơ cũng như toàn bài thơ.
Bài thơ thể hiện tính chất lãng mạn qua chất bi tráng, khơi gợi niềm tin, khát vọng về cuộc sống.
Sự phi thường, nét hào hoa của người lính Tây Tiến không chỉ hiện diện trong tính cách sống chiến đấu mà còn qua cái chết bất tử.
Rải rác biên cương mồ viễn xứ, Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh
Câu thơ với từ “rải rác” không chỉ gợi lên sự thưa thớt mà còn gợi cảm giác xa xôi hoang vắng. “Mồ viễn xứ” như làm sâu thêm nỗi đau nhức xót xa.
Những ngôi mộ xa xứ, những cái chết vô danh vĩnh viễn nằm bên biên cương hoang vắng đến ghê người. Thời gian sẽ làm nhạt nhòa, tất cả sẽ tan biến vào lòng đất. Các anh sẽ mãi là những chiến sĩ vô danh, không ai nhớ đến.
Mỗi khi đối mặt khó khăn, Quang Dũng luôn nhận được sự hỗ trợ từ ý nghĩa cao cả của lý tưởng lãng mạn. Điều này khiến cho hình ảnh những nấm mồ chiến sĩ trên nền rừng biên giới xa xôi trở nên mờ nhạt trước tình yêu quê hương và tinh thần hy sinh cho đất nước.
Bước đi trên chiến trường không hối tiếc đời trai trẻ
Trong tâm trí họ, đời trai trẻ là thời kỳ của sự tươi trẻ, là khoảnh khắc thanh xuân của những người chưa bao giờ nếm trải bi kịch anh hùng. Họ không hối tiếc khi bước vào cuộc chiến vì họ biết mình đang làm điều đúng đắn. Sự hy sinh không phải là một gánh nặng, mà là một lời thề cao cả.
Những dòng thơ không chỉ toát lên sự bi quan, mà còn mang trong mình sức mạnh và ý chí kiên cường. Họ sẵn sàng hy sinh tất cả để bảo vệ tự do và độc lập cho đất nước, theo tinh thần không từ bỏ nhưng không bao giờ chịu làm nô lệ. Đó chính là lý do họ dũng cảm bước vào cuộc chiến, dám chấp nhận mọi khó khăn và hi sinh.
Áo bào che lấp vết thương, đưa anh về với quê hương
Sông Mã rú ga, khúc hành trình đầy cảm xúc
Trong chốn chiến trường, việc bọc da ngựa thành thây là điều mà các anh hùng tự hào. Trái lại, những chiến sĩ Tây Tiến chỉ có chiếc áo rách nhưng vẫn gọi đó là áo bào: Một cách diễn đạt tinh tế nhưng đầy sự thực tế, một nụ cười chói lọi trong lòng nhà thơ trước cảnh tượng khắc nghiệt, làm đau lòng: Họ hi sinh mà không được che phủ. Về đất tức là họ đã ra đi, đã hy sinh. Chiến đấu vì đất nước, họ ngã xuống là họ về đất, là họ trở về lòng đất mẹ yêu dấu. Về đất chính là khi họ hoàn thành trách nhiệm cao cả của mình, họ trở thành một phần của quê hương. Họ về đất, nghĩa là họ trở thành một phần của cây cỏ, sông núi để trở thành một phần của đất nước.
Quang Dũng diễn tả về sự mất mát một cách nhẹ nhàng, thản nhiên. Ông không sử dụng từ ngữ như chết hay hy sinh mà thay vào đó là 'về đất' để tôn vinh, để làm cho vấn đề trở nên bình thường và tạo ra vẻ đẹp lãng mạn với tính bi hùng. Người lính Tây Tiến không cần lời tiễn biệt, không cần nước mắt. Họ chỉ cần trời đất là chứng nhận, nhận họ vào lòng. Sông Mã vang lên khúc độc hành. Từ 'vang' phản ánh sức mạnh, âm thanh uy nghi như tiếng đạn đại bác tiễn đưa linh hồn về cõi bình yên, như tiếng kèn trong lễ tang.
Dòng sông Mã trở thành một lễ nghi trang trọng tiễn biệt các anh hùng. Họ sẽ mãi nằm yên dưới đó. Nhưng dòng sông Mã vẫn tiếp tục cuồn cuộn chảy, mang theo truyền thuyết về những anh hùng con của Việt Nam.
Thủ pháp nghệ thuật tương phản vẫn được sử dụng. Buồn mà không u buồn, đau khổ mà vẫn hùng tráng, hy sinh mà vẫn lạc quan. Và như vậy, sức mạnh và vẻ đẹp của người lính Tây Tiến đã được đẩy lên, nâng cao tinh thần của những người đang mệt mỏi, giúp họ vượt qua những thử thách, và tìm lại cân bằng trong tâm hồn, giúp họ tiếp tục bước đi... Sức mạnh và vẻ đẹp ấy là của người lính Tây Tiến.
Với bút pháp lãng mạn của mình, với sự tài hoa và phong độ của một nhà thơ chiến sĩ, Quang Dũng đã tạo nên một tác phẩm vĩ đại về những người lính không tên. Sự bi và hùng là hai yếu tố chính, kết hợp với nhau để tạo ra một tác phẩm trang trọng, đầy nghệ thuật.
Tinh thần lãng mạn và bi tráng trong Tây Tiến - Mẫu 3
Quang Dũng, một trong những nhà thơ nổi tiếng với nhiều tác phẩm xuất sắc trong cuộc chiến chống Pháp, mang trong mình tinh thần thơ lãng mạn, sáng tạo và lôi cuốn. Ông để lại nhiều tác phẩm tiêu biểu, trong đó có bài thơ về Tây Tiến. Một trong những điểm nổi bật của bài thơ này là sự kết hợp giữa tinh thần lãng mạn và bi tráng. Nhờ hai yếu tố này mà Quang Dũng đã thành công trong việc tạo ra hình ảnh của người lính vừa lãng mạn vừa dũng cảm.
Đội quân Tây Tiến được thành lập vào năm 1947 với nhiệm vụ hỗ trợ quân đội Lào bảo vệ biên giới Việt-Lào, chủ yếu là thanh niên Hà Nội. Quang Dũng từng làm đại đội trưởng tại đây cho đến cuối năm 1948 trước khi chuyển sang đơn vị khác. Bài thơ này được viết khi ông nhớ về đơn vị cũ tại Phù Lưu chanh. Nỗi nhớ về đoàn quân Tây Tiến, những ngày làm việc với bạn bè đã tạo ra cảm xúc mạnh mẽ cho Quang Dũng và trở thành nguồn cảm hứng cho bài thơ.
Cảm hứng là dây chằng đỏ kéo dài trong một tác phẩm, thể hiện suy tư và cảm xúc mãnh liệt của tác giả, từ đó trở thành một vũ khí mạnh mẽ tác động đến độc giả. Cảm hứng lãng mạn trong bài thơ Tây Tiến được thể hiện thông qua việc tôn vinh cái đẹp, cái mới mẻ và cái kỳ lạ trong cuộc sống hàng ngày, hay nhấn mạnh vào điều phi thường và gây ấn tượng sâu sắc về những điều phi thường. Cảm hứng bi tráng giúp tái hiện thực tế với những khó khăn và thách thức nhưng vẫn không làm mất đi vẻ đẹp và sức mạnh. Hai loại cảm hứng luôn đi đôi với nhau trong bài thơ, tạo nên những đặc điểm độc đáo của Tây Tiến.
Cảm hứng lãng mạn thường được thể hiện qua mô tả về thiên nhiên của vùng núi Tây Bắc. Cảnh vật thiên nhiên trong kí ức của Quang Dũng là hiện thực của cuộc sống, là sự khắc nghiệt và dữ dội. Tuy nhiên, thông qua cách viết của tác giả, dù trước mắt là thực tế khắc nghiệt nhưng người lính vẫn cảm nhận được sự thơ mộng của cảnh vật với tinh thần lạc quan và yêu đời. Từ ký ức về dòng sông Mã đến những ngày hành quân, bắt đầu với màn sương dày che phủ mỗi bước đi của đoàn quân khiến cho họ mệt mỏi, 'Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi'. Hay hình ảnh dốc núi hiểm trở:
“Dốc lên đỉnh núi cao thăm thẳm
Heo hút mây, súng ngửi không khí
Leo lên cao, rồi lại đi xuống”
Bên cạnh việc tái hiện sự khắc nghiệt của cuộc sống, Quang Dũng cũng mô tả những hình ảnh nhẹ nhàng và màu sắc của trí tưởng tượng. Một trong những hình ảnh đó là “Mường Lát hoa về trong đêm hơi”. Khi đi qua Mường Lát vào ban đêm, họ cảm nhận được mùi hương hoa trong không khí, trong màn sương dày đặc, tưởng như trong một đêm mơ màng, huyền ảo. Sự tưởng tượng và cảm hứng lãng mạn đã tạo ra một chi tiết đặc biệt và thơ mộng cho người lính Tây Tiến. Không chỉ vậy, cảnh sắc tiếp tục được tái hiện ở câu thơ “Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi” tạo ra một cảm giác bình yên và thoải mái. Chúng ta có thể tưởng tượng một khung cảnh thơ mộng khi người lính dừng chân trên đỉnh núi cao để nhìn ra xa trong màn sương núi. Dưới góc nhìn nhạy cảm, thiên nhiên Tây Bắc được miêu tả qua cảnh sông nước:
“Khèn lên man điệu, nàng e ấp
Nhạc vang Viên Chăn, khơi hồn thơ”
Đây là cảnh thiên nhiên vào buổi chiều ở Châu Mộc, với màn sương lấp lánh, mơ hồ, sông nước êm đềm và bến bờ hoang sơ. Trên nền thiên nhiên đó, hình ảnh con người, dáng đứng trên dốc mộc, nổi bật lên. Đó là hình ảnh mạnh mẽ, hiên ngang của con người Tây Bắc. Các câu thơ này cho thấy sự đối lập giữa sức mạnh của thiên nhiên (dòng nước lũ) và sự mềm mại của hoa đua nhau khoe sắc. Cảnh sắc đó được tái hiện một cách huyền ảo, xa xăm và thơ mộng bởi Quang Dũng chỉ trong vài câu thơ.
Không chỉ về thiên nhiên, cảm hứng lãng mạn còn được thể hiện qua hình ảnh của người lính Tây Tiến – những thanh niên trẻ tuổi, nhiệt huyết. Họ nhìn nhận màn sương với cảm giác bồng bềnh: “Mường Lát hoa về trong đêm hơi”. Họ vui vẻ, đùa giỡn trước độ cao của dốc núi qua hình ảnh “súng ngửi không khí”. Họ nhìn xa ra để cảm nhận hơi ấm từ những ngôi nhà mờ mịt trong sương: “Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi”. Đặc biệt, họ hòa mình vào đêm liên hoan sống động với: “Khèn lên man điệu, nàng e ấp /Nhạc vang Viên Chăn, khơi hồn thơ”. Cảm hứng lãng mạn được thể hiện mạnh mẽ khi Quang Dũng vẽ nét về người lính Tây Tiến bằng những miêu tả đặc biệt, huyền bí. Qua đó, chúng ta cảm nhận được vẻ kiêu hãnh oai phong, lẫm liệt của những chiến sĩ can đảm. Điều đó giúp họ vượt qua khó khăn của thực tế nghiệt ngã và tỏa sáng trong cuộc kháng chiến.
Song song với cảm hứng lãng mạn, cảm hứng bi tráng cũng tạo nên vẻ đẹp của người lính Tây Tiến và thành công của bài thơ. Người lính Tây Tiến phải đối mặt với nhiều khó khăn trong thực tế. Đó có thể là hình ảnh sương dày đặc trên đường hành quân, cũng có thể là những lần vượt dốc lội suối với nguy hiểm, và cái chết luôn ở gần. Cơn sốt rét rừng và nơi rừng thiêng nước độc khiến cho người lính trở nên yếu đuối, màu mè như 'không mọc tóc', 'xanh màu lá'. Vì vậy, những mảnh hài cốt vô danh nằm rải rác khắp nơi lạnh buốt:
“Rải rác biên cương mồ xa xứ
Chiến trường đi chẳng hối tiếc tuổi trẻ
Áo bào thay chiếu tấm về đất
Sông Mã gầm lên khúc hành độc”.
Sự hi sinh của người lính Tây Tiến là nỗi đau, mất mát lớn không chỉ với tác giả mà với toàn dân tộc Việt Nam. Tuy nhiên, thông qua bút pháp của Quang Dũng, sự hy sinh đó trở nên cao cả, trở thành biểu tượng anh hùng. Tinh thần quyết tâm vượt qua khó khăn của đoàn quân Tây Tiến được thể hiện qua câu thơ 'Chiến trường đi chẳng hối tiếc tuổi trẻ'. Miêu tả cái chết của người lính trong áo bào 'Áo bào thay chiếu tấm về đất' là một hình ảnh cảm động! Tấm áo được gọi một cách trang trọng là “áo bào” – tấm chiến bào rực rỡ của các danh tướng ngày xưa. Cách nói trang trọng ấy giảm đi sự thê thảm của cái chết. “Tấm về đất” – Họ không chết mà chỉ về với đất mẹ, với tổ tiên sau khi hoàn thành nhiệm vụ. Âm thanh của dòng sông Mã cũng là một cách để thể hiện cái trắng: “Sông Mã gầm lên khúc hành độc”. Không giọt lệ rơi, không lời tiễn biệt, chỉ một tiếng gầm đã diễn tả đầy đủ nỗi đau dữ dội.
Cảm hứng lãng mạn và bi tráng luôn đi đôi với nhau trong tác phẩm. Nhờ hai nguồn cảm hứng như vậy mà Quang Dũng đã tạo ra một tác phẩm nghệ thuật với nhiều màu sắc đẹp đẽ. Cả nội dung và nghệ thuật của bài thơ một lần nữa lại được nhấn mạnh.
Tóm lại, cảm hứng lãng mạn và bi tráng là hai yếu tố quan trọng trong bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng. Nhờ hai nguồn cảm hứng này mà Quang Dũng đã tạo ra một kiệt tác, một bức tượng đài về người lính trong cuộc kháng chiến chống Pháp, đầy yêu đời nhưng cũng đầy kiên cường trước khó khăn của thực tế.
Cảm hứng lãng mạn và bi tráng trong Tây Tiến - Mẫu 4
“Tây Tiến” là một trong những bài thơ xuất sắc nhất về người lính cầm súng, bảo vệ Tổ quốc, tiêu biểu cho thơ ca Việt Nam thời kháng chiến chống Pháp. Với bút pháp lãng mạn và tài hoa, Quang Dũng đã khắc họa hình ảnh người lính Tây Tiến - người lính cách mạng từ thành thị tham gia vào cuộc chiến gian khổ nhưng hào hùng của dân tộc.
Cảm hứng lãng mạn trong văn học là sức mạnh của trí tưởng tượng, tìm kiếm cái đẹp và vượt lên những điều thường ngày. Nó được thể hiện qua ngôn ngữ giàu biểu cảm và tạo ấn tượng mạnh mẽ. Cảm hứng lãng mạn trong văn học Việt Nam từ 1945 đến 1975 thường ca ngợi chủ nghĩa anh hùng cách mạng và tương lai tươi sáng của dân tộc.
Cảm hứng lãng mạn rõ ràng hiện diện từ đầu bài thơ của Quang Dũng, biểu hiện qua nỗi nhớ sâu sắc về quê hương, về rừng núi, nhớ về Tây Tiến, đầy chơi vơi.
Sông Mã đã xa, Tây Tiến ơi
Nhớ về núi rừng, nhớ cảm xúc chơi vơi
Nỗi nhớ dài theo dòng sông Mã, ấn định hình non núi. Nhớ về cảm xúc hụt hẫng, trống trải trong lòng. Đoàn quân Tây Tiến, nhưng tiếng gọi “ơi” âm thầm như lời gọi người thân. Ba từ “ơi” vang vọng đầy cảm xúc, âm nhạc trên vách núi. Đó là nỗi nhớ của tác giả với Tây Bắc và quân Tây Tiến. Nỗi nhớ sâu lắng, lan tỏa trong từng câu thơ, hình ảnh thơ. Tâm hồn Quang Dũng hiện diện khắp nơi, lưu giữ từng khoảnh khắc, từ địa bàn đầy khó khăn của trận chiến đến cảnh thiên nhiên êm đềm, mộng mơ đến đêm hội đuốc rực rỡ ở xứ lạ, từ hồn quê “Mai Châu em thơm bạt ngàn” đến “Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm” hào hoa, lãng mạn.
Cảm hứng lãng mạn trong bài thơ Tây Tiến rõ ràng thể hiện trong bút pháp lãng mạn. Các thủ pháp cường điệu, đối lập được áp dụng sáng tạo, tô điểm cho cái phi thường, tạo nên ấn tượng mạnh mẽ về hào hùng, vĩ đại và tuyệt mỹ của con người và thiên nhiên. Thiên nhiên miền Tây Bắc qua ngòi bút lãng mạn của Quang Dũng được trải nghiệm với vẻ đẹp đa dạng, độc đáo, hùng vĩ, mộng mơ, hoang sơ nhưng ấm áp, gợi cảm. Trí tưởng tượng bay bổng khiến thi nhân hình dung ra một “đêm hơi’, không chỉ có sương rừng ướt lạnh mà còn có cái lãng đãng, huyền ảo, cảm nhận được vẻ uy nghi của thần núi, thấy rõ hồn nước dòng bến bờ và nghe được âm thanh “Sông Mã gầm lên khúc độc hành”.
Nhà thơ nhớ những cuộc hành quân gian khổ qua những chặng đường núi non khắc nghiệt, thách thức gay go với các chiến sĩ Tây Tiến, đều là những chàng trai thành thị đầu tiên đến vùng Tây Bắc. Các tên bản, tên mường như Sài Khao, Mường Lát, Pha Luông, Mường Hịch... không chỉ gợi lên nỗi nhớ đầy tràn mà còn tạo ra ấn tượng sâu sắc về sự xa xôi, hoang sơ, huyền bí. Nó vừa làm bộc lộ sự gian nan, khó khăn, vừa khơi dậy sự tò mò, hào hứng của những người trẻ thành thị. Tất cả khung cảnh thiên nhiên được mô tả với ấn tượng mạnh mẽ nhất. Đoàn quân hành quân trong sương mù dày đặc đến nỗi che khuất cả dải ngân đường. Nhưng ngay cả trong bóng tối, người chiến sĩ Tây Tiến vẫn phát hiện ra vẻ đẹp của “hoa về trong đêm hơi”. Những bông hoa núi với hương thơm ngan ngát dần hiện ra qua lớp sương mù, qua ánh nhìn trìu mến lãng mạn, làm tan biến cái mệt mỏi của đoàn quân. Vô số đèo cao, dốc dựng trước mắt người lính Tây Tiến:
Dốc trèo lên ngút ngàn, dốc thẳng dốc
Cồn mây sương uốn quanh khẩu súng
Đỉnh núi cao vút, đáy vực sâu thẳm
Dốc lên thì ngút ngàn, leo trèo, dốc xuống thì thẳng dốc, dựng đứng. Câu thơ giàu hình ảnh như vẽ ra một đoạn đường hành quân hiểm trở. Dốc núi leo lèo, dốc vút lên ngàn thước, rồi lại đổ xuống thẳng dựng ngàn thước. Câu thơ cũng leo lèo với nhiều thanh trắc và cách ngắt nhịp 4/3 uốn quanh câu thơ tạo ra bức tranh núi non hoang sơ, rợn người. Độ cao của dốc như được đo bằng nhịp thở dồn dập của người lính vượt dốc, tạo ra ấn tượng càng mạnh mẽ. Những đỉnh núi cao mù sương, cao vút như chạm vào mây, mây vươn thành cồn sương ở bên trên. Đầu súng trên vai người chiến sĩ được biến hình thành “súng ngửi trời” không chỉ mô tả được độ cao cao nhất, hoang sơ, xa xôi mà còn chứa đựng vẻ đẹp tâm hồn người lính. Đó là sự pha trộn của tinh thần lạc quan, hồn nhiên rất lính của người chiến binh Tây Tiến. Thiên nhiên hoành tráng, hùng vĩ nhưng người lính không bao giờ bị chìm trong đó, mà vẫn nổi lên đầy thách thức. Điều này khẳng định ý chí và quyết tâm của người chiến sĩ chiếm lĩnh mọi đỉnh cao để tiến tới. Thiên nhiên núi non xuất hiện như một thách thức với con người, người lính trèo lên đỉnh núi như bước trong mây quả cảm và lãng mạn vô cùng.
Cảnh đoàn quân tiến vào trong cơn mưa: “Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi” thật mạnh mẽ và đầy tình cảm. Mưa dày đặc khiến những căn nhà sàn ở Pha Luông bên dưới chân núi mờ nhạt trong mưa như những cánh buồm trên biển. Câu thơ toàn cảnh biểu hiện không gian rộng lớn, ngập tràn trong mưa nhìn từ trên cao xuống. Trong màn mưa rừng, tầm nhìn của lính Tây Tiến vẫn dành cho những ngôi nhà mường, những mái nhà của dân yêu thương, nơi họ đã và đang hi sinh để bảo vệ. Sự gian khổ của chiến sĩ cũng bao gồm cả âm thanh “thác gầm thét” hòa quyện với tiếng hú man dại, đáng sợ của thú rừng. “Cọp trêu người” như mang theo vẻ oai linh, bí ẩn của rừng nguyên. Vẻ hoang dã đó không chỉ hiện hữu trong không gian cụ thể mà còn là “đêm đêm”, “chiều chiều”. Tác giả mô tả thời gian, nhưng lại tái hiện không gian núi rừng, luôn ẩm ướt, hoang sơ như trong bóng tối. Đó là mối đe dọa luôn rình rập con người. Đặc biệt, họ đều là những người lính trẻ từ thành phố lần đầu tiên chinh phục rừng nguyên. Vì vậy, ấn tượng về Tây Bắc với những địa danh xa lạ, dữ dội, ác liệt, không kém phần gay go với quân thù. Nhưng cảnh vật ấy cũng khiến chiến sĩ càng phấn khích, sẵn sàng chinh phục với tinh thần hào hứng và đam mê.
Ngược lại với khó khăn là vẻ đẹp hoàn mỹ của thiên nhiên Tây Bắc. Vẻ đẹp lãng mạn của Tây Bắc giống như hoa rừng: “Mường Lát hoa đua nở trong đêm mơ”; “Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa”. Đặc biệt, đoạn thơ:
Người đi Châu Mộc chiều sương ấy
Có thấy hồn lau nẻo bến bờ
Có nhớ dáng người trên độc mộc
Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa
Tất cả gợi lên cảnh Châu Mộc trong một buổi chiều sương phủ lên dòng nước mênh mông, hoang dã thật huyền bí. Cảnh vật trở nên mờ nhạt, mềm mại và sống động hơn. Chữ “ấy” trong câu trên và chữ “thấy” trong câu dưới hòa quyện với nhau tạo nên một vần nhẹ nhàng. Hoa lau nở trắng, lá lau rung rinh trong gió ban đầu là những hình ảnh quen thuộc nhưng trong thơ của Quang Dũng, chúng mang theo hồn của cảnh chia ly. Trên dòng nước, có những cô gái Tây Bắc duyên dáng trên thuyền độc mộc. Hình ảnh “hoa đong đưa” không chỉ là sự thật mà còn là hình ảnh tượng trưng về vẻ đẹp của phụ nữ Tây Bắc như những bông hoa rừng đong đưa trên dòng nước. Đó là những vần thơ đầy hữu hình, khiến người đọc như lạc vào vẻ đẹp của cõi mơ. Mơ nhưng rất thực, làm rung động lòng người, đặc biệt là chiến sĩ Tây Tiến lãng mạn, trẻ trung, chứa đựng tình yêu sâu sắc với thiên nhiên và với đất nước của Quang Dũng cũng như của chiến sĩ Tây Tiến. Hình ảnh những cô gái Tây Bắc, những người con Tây Bắc được hồi tưởng trong bài thơ càng làm tôn lên sự huyền bí, lãng mạn của núi rừng.
Sau bao ngày đêm gian khổ, vượt rừng, lội suối, những người lính dừng chân bên bản làng, thưởng thức xôi nồi nấu trên lửa:
Bữa xôi ấm lòng cô gái Mai Châu, những người con miền núi xinh đẹp dũng cảm nuôi dưỡng quân không e ngại khó khăn, nguy hiểm, ghi sâu vào tâm trí lính trẻ một tình yêu không phai. Nỗi nhớ cháy bừng thành lời khát khao “Nhớ ôi Tây Tiến cơm bếp khói”. Hai từ “mùa em” tỏa sáng cả hương vị gạo và cảm xúc ấm áp. Làng Mai Châu, hình ảnh người con gái với hương nếp xôi tạo nên một kỷ niệm ngọt ngào, u buồn, lãng mạn trong lòng người lính.
Những đêm văn nghệ tại trại lính rộn ràng, vui vẻ dưới ánh lửa pháo lung linh, âm thanh của kèn réo vang, trong tâm hồn của lính trẻ thổn thức, sôi động:
Trại lính sáng rực trong đêm hội đuốc hoa
Em mặc áo tím bắt đầu khi nào
Khèn hòa điệu ngọt ngào nàng dịu dàng
Nhạc về Viên Chăn thổi hồn thơ
Lửa đuốc rừng chiếu sáng đêm văn nghệ truyền thống biến thành “đêm hội đuốc hoa” tạo nên không gian rực rỡ, ấm áp, tràn ngập ước mơ, hạnh phúc. Hai từ “em kia” miêu tả cái nhìn ngạc nhiên, sảng khoái của lính trẻ. Hình ảnh các cô gái Tây Bắc đang lộng lẫy trong bộ áo tím dưới ánh sáng lung linh của đuốc nhưng vẫn giữ được vẻ dịu dàng, duyên dáng trong điệu múa lạ như múa sạp, múa xòe... kèm theo tiếng khèn mang hồn của núi rừng càng hút hồn. Tâm hồn của chiến sĩ tràn đầy mơ mộng, lãng mạn. Vẻ đẹp của những đêm văn nghệ trên biên cương xa xôi như đã “thổi hồn thơ” cho thấy tinh thần sáng sủa, phong phú, lãng mạn của đoàn quân Tây Tiến.
Đặc biệt, bức chân dung lính Tây Tiến được vẽ với những nét vẽ đặc biệt, lạ lùng:
Đoàn binh Tây Tiến, tóc phóng không mọc
Quân mang màu lá giữ vẻ oai hùng
Toàn đoàn binh không mọc tóc vì rét rừng gai góc, hoặc theo quy định cạo trọc tóc để thuận tiện trong chiến đấu. Quang Dũng không tránh né hiện thực của cuộc kháng chiến gay go này. Thơ kháng chiến chống Pháp thường miêu tả về căn bệnh sốt rét rừng: “Tôi và anh biết từng phen rét buốt. Sốt lay người vùng trán ướt mồ hôi” trong bài Đồng chí của Chính Hữu.
Tuy nhiên, Quang Dũng cảm nhận thực tế này trong tình cảm lãng mạn, anh hùng, từ đó vẽ nên hình ảnh kiêu hãnh của người lính vượt qua mọi khó khăn. Từ ngữ mạnh mẽ đầy ý nghĩa. “Đoàn binh” phát ra âm thanh mạnh mẽ hơn so với “đoàn quân”; còn “không mọc tóc” tạo ra hình ảnh mạnh mẽ, tự tin, kiêu hãnh của đoàn quân Tây Tiến giữa hoàn cảnh gian khổ. “Quân mang màu lá giữ vẻ oai hùng” mô tả sắc da xanh xao do sốt rét rừng, nhưng qua tác phẩm nghệ thuật và tình cảm anh hùng của Quang Dũng, màu xanh đó trở nên tươi mới, tràn đầy sức sống của rừng núi. Hình ảnh “ánh mắt dũng mãnh hướng sang biên giới” thể hiện ánh mắt quyết đoán, hướng tới kẻ thù, mong muốn đánh địch bảo vệ tổ quốc. Nhưng dưới vẻ ngoài kiêu hãnh là tâm hồn trẻ trung, tươi sáng, ấm áp. “Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm” – cách diễn đạt này có vẻ phức tạp nhưng phản ánh tâm hồn những lính trẻ xa quê hương đi chiến đấu. Nhớ về các cô gái Hà Nội, hình ảnh những thiếu nữ Hà Thành yêu kiều không phai nhạt trong lòng những lính chiến giữa ngọn lửa chiến tranh. Lãng mạn đó là vẻ đẹp lạc quan, yêu đời của những người lính từ thành phố đến góp phần vào cuộc chiến.
Bi tráng hiện lên trong tác phẩm văn học qua cách miêu tả hiện thực, không né tránh sự khốc liệt, khó khăn, đau thương. Sự khốc liệt nhưng không phải là bi thảm mà là bi tráng, hào hùng. Là cái chết nhưng không là cái chết đau đớn mà là cái chết hào hùng, mãnh liệt, cái chết dẫn đến bất tử. Bi thường được thể hiện qua ngôn từ, âm thanh, màu sắc lộng lẫy, hào hùng.
Tinh thần bi tráng trong bài thơ Tây Tiến thể hiện ở việc không tránh né sự khốc liệt, thường nhắc đến sự chết, nhưng đó không phải là cái chết thảm khốc mà là cái chết hào hùng, mạnh mẽ, cái chết của người lính dẫn đến bất tử.
Trong bối cảnh hoang dã và u ám của thiên nhiên Tây Bắc, nhà thơ tôn vinh hình ảnh của đoàn quân Tây Tiến với sự kiêu hùng và lãng mạn thông qua lời viết, không tránh né sự thực và cảm hứng bi tráng. Bài thơ nói về cuộc chiến, nhưng Quang Dũng không nhắc đến trận chiến, âm thanh súng đạn. Tuy nhiên, đọc giả vẫn cảm nhận được sự dữ tợn của cuộc chiến. Vì bài thơ thường nói về sự hy sinh của người lính. Nhưng thông qua ngòi bút lãng mạn và cảm hứng bi tráng, Quang Dũng đã mô tả điều đó một cách sâu sắc, xúc động và kiêu hãnh. Cái chết, sự hi sinh luôn gợi lên nỗi đau thương. Hình ảnh những nấm mồ “rải rác biên cương mồ viễn xứ” thể hiện nỗi đau đớn đó, nhưng cách Quang Dũng sử dụng từ Hán Việt trang trọng đã làm cho nỗi đau ấy trở nên lịch lãm hơn. Hơn nữa, câu thơ sau:
Chiến trường đó không tiếc tuổi trẻ
Đã mạnh mẽ khẳng định tinh thần của tuổi trẻ không chỉ sẵn lòng chấp nhận mà còn vượt qua cái chết, sẵn sàng hiến dâng cả cuộc đời, cả tuổi trẻ cho ý nghĩa cao cả của dân tộc. Họ đã ra đi với tất cả sự nhiệt huyết của tuổi trẻ yêu nước, yêu lý tưởng, dâng cả sự sống, sự trẻ trung tràn đầy hy vọng của mình cho tổ quốc. Điều này không chỉ là lời nói của thơ mà còn là hành động thực tế của nhiều thế hệ trong những năm chiến đấu. Với lý tưởng đánh giặc mãnh liệt như vậy, cái chết có ý nghĩa gì đối với họ.
Những anh hùng xưa ở chiến trường thường mặc áo giáp làm niềm tự hào, trong khi đó các chiến sĩ Tây Tiến với chiếc chiếu giản dị từ bà con tặng hoặc chỉ là chiếc áo đẫm máu và mồ hôi cũng góp phần tạo nên sự hy sinh vĩ đại. Sự kết hợp của từ Hán Việt và từ Việt thuần: “áo bào” đã làm cho tấm áo của anh hùng trở nên trang trọng hơn. Sự hi sinh của họ là “trở về đất”, trở về lòng đất mẹ yêu quý. Một sự hi sinh yên bình, thanh thản như một chiến sĩ đã hoàn thành nhiệm vụ. Giây phút chia tay đồng đội vang lên không phải là lời khen ngợi hay những giọt nước mắt, mà trong tiếng gầm của dòng Sông Mã như một “khúc độc hành” bi tráng. Dòng sông như có linh hồn, có tâm trạng, phát ra tiếng khóc xót xa, tiếc nuối, uất hận trong âm hưởng mạnh mẽ, hùng vĩ của Sông Mã. Sự hi sinh của người lính Tây Tiến đầy tinh thần bi tráng và một chút sử thi. Và từ đó họ hòa quyện vào cỏ cây, sông núi, trở thành hồn thiêng của đất nước. Bài thơ 3 lần nhắc đến cái chết, mỗi cái chết đều là đẹp, nhưng đẹp nhất là cái chết trang trọng này:
Áo bào thay chiếu anh về đất
Sông Mã gầm lên khúc độc hành
Sự tráng lệ xuất phát từ việc được bảo vệ bởi chiến bào, trở về gặp lại đất mẹ quê hương và đặc biệt là những âm điệu mãnh liệt và oai hùng của thiên nhiên, tiễn đưa linh hồn của các chiến sĩ. Thủ pháp nhân hóa và cường điệu đã tạo ra sự tráng lệ tột bậc, kỳ diệu trong bài thơ.
Sự tráng lệ là yếu tố quan trọng làm nên vẻ đẹp của bài thơ, nhất là trong miêu tả về những người lính Tây Tiến. Sự tương phản giữa vẻ ngoại hình khiêm tốn và phong thái hùng dũng, giữa ánh mắt sắc bén và hình ảnh dịu dàng của Hà Nội đã tạo nên sự hi sinh cao cả và hùng bi tráng của họ. Chiến trường Tây Tiến với sự khắc nghiệt, dữ tợn, bệnh tật và cái chết là bi kịch, là hiện thực đau lòng của cuộc chiến, nhưng Quang Dũng đã không tránh né điều đó, mà tạo ra sự tráng lệ, lãng mạn và hùng bi tráng. Cái tráng đó là của Quang Dũng và của những người lính sống trong bầu không khí đầy máu và nước mắt: “Quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh”. Điều này càng trở nên hào hùng, tuyệt vời hơn trong không khí yêu nước của thời anh hùng.
Cảm hứng lãng mạn và tinh thần bi tráng tạo nên vẻ đẹp riêng của Tây Tiến, nhưng điều đó bắt nguồn từ đâu? Sự giao thoa giữa tâm hồn lãng mạn, hào hùng của thi sĩ và những người lính Tây Tiến, những người hùng lãng mạn, hào hoa, trong thời kỳ đầu của cuộc kháng chiến chống Pháp, cùng với chiến trường Tây Tiến khắc nghiệt, dữ dội nhưng đồng thời cũng rất thơ mộng, lãng mạn. Bốn yếu tố này đã hội tụ mạnh mẽ trong tâm trí của Quang Dũng, tạo ra cảm hứng lãng mạn và tinh thần bi tráng trong bài thơ. Kết quả là, bài thơ Tây Tiến trở nên vĩ đại và đẹp đẽ, với sự hoà quyện của cảm hứng lãng mạn và tinh thần bi tráng, tạo ra một tác phẩm vĩnh cửu về người lính vô danh nhưng kiệt xuất của dân tộc.
Cảm hứng lãng mạn và tinh thần bi tráng đã tạo nên vẻ đẹp và giá trị vĩnh cửu của bài thơ Tây Tiến. Đó là hình ảnh của một thời đại hào hùng mà không thể lặp lại. Những dòng thơ bi tráng và tinh thần lãng mạn hào hoa của Quang Dũng đã ghi lại và làm cho cuộc sống trên chiến trường trở thành một phần của lịch sử - một tượng đài vĩnh cửu về người lính bất khuất của dân tộc, được người đọc yêu quý và tự hào suốt muôn đời.
Cảm hứng lãng mạn và tinh thần bi tráng trong bài thơ Tây Tiến đã tạo ra vẻ đẹp độc đáo và giá trị bền vững. Đó là biểu tượng của một thời đại anh hùng không thể quên. Những dòng thơ bi tráng và tinh thần lãng mạn đã ghi lại và giữ mãi một phần của lịch sử - một biểu tượng vĩnh viễn của lòng dũng cảm và sự hy sinh vì đất nước.
Khi nhắc đến nhà thơ Quang Dũng, không ai có thể không liên tưởng đến 'Tây Tiến'. Bởi vì đó đã là một phần không thể tách rời của ông, một kiệt tác văn học. Quang Dũng là biểu tượng của thơ chiến sĩ. Với những dòng thơ hùng bi tráng, lãng mạn, tác phẩm của ông vẫn để lại dấu ấn sâu đậm trong lòng người đọc đến tận ngày nay. 'Tây Tiến' chính là một trong những tác phẩm như thế.
Cuối mùa xuân năm 1947, Quang Dũng gia nhập đoàn quân Tây Tiến. Đó là một đơn vị mới thành lập, được giao nhiệm vụ hỗ trợ bộ đội Lào bảo vệ biên giới Việt - Lào, chiến đấu ở Thượng Lào để ủng hộ cuộc kháng chiến ở các vùng khác của Lào. Vùng hoạt động của đoàn quân Tây Tiến rất rộng lớn, từ Tây Bắc Việt Nam đến Thượng Lào: từ Châu Mai, Châu Mộc tới Sầm Nứa và về qua miền Tây Thanh Hoá. Những vùng này lúc đó còn hoang vu, hiểm trở với nhiều núi cao, sông sâu và rừng rậm.
Hầu hết những người lính Tây Tiến là thanh niên Hà Nội, đến từ nhiều tầng lớp khác nhau, bao gồm cả học sinh, sinh viên (như Quang Dũng). Cuộc sống của họ trên chiến trường rất khó khăn, bị ốm đau mà không có thuốc chữa, nhiều người chết vì sốt rét hơn là trong trận đánh. Tuy vậy, họ vẫn sống lạc quan và chiến đấu dũng cảm. Vượt qua mọi khó khăn của chiến tranh và hoàn cảnh khó khăn, họ vẫn giữ được tính cách hào hoa, thanh lịch, yêu đời và lãng mạn.
Bài thơ 'Tây Tiến' nổi bật với hai điểm: cảm hứng lãng mạn và tinh thần bi tráng.
Cảm hứng lãng mạn thể hiện qua sự tươi trẻ, đầy cảm xúc của nhà thơ. Thông qua trí tưởng tượng phong phú, việc sử dụng các yếu tố cường điệu và đối lập, những thủ pháp mạnh mẽ, bài thơ tạo ra ấn tượng mạnh mẽ về vẻ đẹp và sự hùng vĩ.
Thiên nhiên Tây Bắc được tả qua bút lãng mạn của Quang Dũng, hiện lên với vẻ đẹp độc đáo, hùng vĩ và thơ mộng, hoang sơ nhưng ấm áp. Hình ảnh của những người và cảnh vật Tây Bắc thêm phần huyền bí, thơ mộng của vùng núi rừng. Tinh thần lãng mạn thường được thể hiện qua sự hy sinh cho lí tưởng chung của cộng đồng, của dân tộc.
“Tây Tiến” không giấu diếm sự khắc nghiệt. Tuy nhiên, nó không đem lại sự đau khổ. Sự khắc nghiệt được miêu tả bằng một cách độc đáo, hùng vĩ và tráng lệ. Tinh thần lãng mạn kết hợp hài hòa với tinh thần bi tráng, tạo nên vẻ đẹp riêng biệt của bài thơ. Nỗi nhớ chủ đạo lan tỏa trong bài thơ, chi phối cả không gian và thời gian:
Sông Mã xa lắc nhắc Tây Tiến ơi!
Nhớ về núi rừng nhớ chơi vơi
Sài Khao sương che đoàn quân mỏi
Mường Lát hoa rơi trong khuya gió
Cảm xúc nhớ nhung không thể kìm nén, nhà thơ đã lên tiếng gọi. Hai từ “chơi vơi” như mô tả một cách rõ ràng trạng thái của nỗi nhớ, hình tượng hóa nó, tạo ra hình ảnh của núi cao, sông sâu, vực thẳm, rừng rậm... xuất hiện liên tục trong những câu thơ sau:
Đường dốc khuỷu dốc uất ức
Heo hút cồn mây ngửi sương
Nghìn thước leo trèo, xuống dốc ngàn
Nhà ở Pha Luông mưa phủ xa
Khổ thơ này là một minh chứng cho việc 'thi trung hữu họa'. Chỉ với bốn câu thơ, Quang Dũng đã tạo ra một bức tranh mô tả sâu sắc sự hiểm nguy và khắc nghiệt, hoang dã và u ám của núi rừng Tây Bắc, nơi mà đoàn quân Tây Tiến hoạt động. Hai câu thơ đầu tiên, với những từ ngữ như 'khúc khuỷu', 'thăm thẳm', 'cồn mây', 'súng ngửi trời' đã phác họa nổi bật sự hiểm trở, khắc nghiệt và độ cao vút của những ngọn núi ở Tây Bắc. Câu thứ ba mở ra khung cảnh đổ dốc đứng thẳng, nhìn lên cao và nhìn xuống sâu thẳm.
Nếu câu thứ ba nhìn lên và nhìn xuống, thì câu thứ tư là nhìn ngang. Có thể tưởng tượng những người lính đang dừng chân bên một dốc núi, nhìn ra xa qua không gian mờ ảo của rừng mưa núi sương, thấy những ngôi nhà như đang trôi giữa biển mây. Bốn câu thơ này kết hợp với nhau, tạo nên một bức tranh đặc biệt. Sau ba câu thơ nặng nề, câu thứ tư nhẹ nhàng, tạo ra sự cân bằng. Điều này giống như việc sử dụng các gam màu trong hội họa: giữa các gam màu nóng, sử dụng một gam màu lạnh để làm dịu đi, tạo ra sự cân bằng cho bức tranh.
Bản chất hoang dã và u ám của núi rừng Tây Bắc được nhà thơ khám phá. Nó không chỉ được mô tả theo không gian mà còn qua thời gian, luôn là mối đe dọa kinh hoàng đối với con người:
Chiều chiều thác oai vang gào
Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu ngươi
Như vậy, cảnh núi rừng Tây Bắc hoang dã và khắc nghiệt, qua bút của Quang Dũng, hiện ra với tất cả mọi chi tiết: núi cao, vực sâu, dốc đứng, mưa rừng, sương núi, thác nước, cọp dữ... những địa danh lạ như Sài Khao, Mường Lát, Pha Luông, Mường Hịch, cùng với hình ảnh sắc nét, những câu thơ nặng nề được làm dịu bằng những câu thơ nhẹ nhàng ở cuối mỗi khổ, tạo ra một thế giới đa dạng, độc đáo của núi rừng Tây Bắc. Bài thơ kết thúc đột ngột với hai câu thơ:
Nhớ Tây Tiến, bát cơm hơi nghi ngút khói
Mai Châu mùa mới, hương nếp xôi thơm ngát
Cảnh tượng ấm áp, sau những khó khăn vượt rừng suối, nhóm lính dừng chân, nghỉ ngơi bên nồi cơm nghi ngút khói. Hương thơm lúa nếp mùa mới tạo nên không khí yên bình, làm tươi tỉnh tinh thần họ. Hai câu thơ này truyền đạt một cảm giác êm đềm, ấm áp, chuẩn bị tâm trạng cho phần tiếp theo.
Phần thơ tiếp theo mở ra một khung cảnh mới của Tây Bắc. Nét hoang vu, khắc nghiệt dần nhường chỗ cho vẻ đẹp thơ mộng của miền đất này. Sự thay đổi từ nét mạnh mẽ, rắn chắc sang nét mềm mại, tinh tế. Tài năng của Quang Dũng hiện rõ nhất ở đây, khi ông mô tả sự hấp dẫn của vẻ đẹp bí ẩn của cảnh vật và con người nơi đất xa xôi.
Trong một khoảnh khắc đặc biệt, vẻ lung linh, huyền bí của cảnh tượng được mô tả rõ nhất: buổi liên hoan văn nghệ của lính Tây Tiến, với sự tham gia của người dân địa phương, được miêu tả với chi tiết thực và mơ hồ:
Doanh trại sáng bừng, lửa đuốc hồng
Em gái xiêm áo, từ khi nào?
Khèn chơi điệu buồn, ê ẩm
Nhạc về Viên Chăn, thơ hồn
Doanh trại sáng loáng, lửa đuốc rực rỡ, khơi dậy không khí hân hoan khi buổi văn nghệ bắt đầu. Dưới ánh sáng sặc sỡ của ngọn lửa, tiếng khèn rộn ràng, cảnh vật và con người lung linh, hồn nhiên, say sưa. Hai từ “kìa em” phản ánh sự kinh ngạc, hạnh phúc khi thấy cô gái dân tộc xuất hiện trong những bộ trang phục lộng lẫy, mê đắm, tình tứ trong vũ điệu đậm đà nét văn hóa dân tộc, quyến rũ lòng người lính Tây Tiến. Nếu buổi văn nghệ mang lại cho người đọc không khí sảng khoái, say đắm, thì cảnh sông nước Tây Bắc lại đưa đến cảm giác mơ màng, mênh mông:
Người đi Châu Mộc chiều sương bao phủ
Thấy hồn lau dạo chốn bên bờ
Người có nhớ hình bóng trên thuyền mộc
Dòng nước lũ hoa đong đưa
Không gian sông nước trong buổi chiều phủ một màu sương mù. Dòng sông, bờ bến yên bình, hoang sơ như thời tiền sử. Trên dòng sông mang nét cổ tích, huyền thoại ấy, hình ảnh mềm mại, duyên dáng của một cô gái Thái trên chiếc thuyền độc mộc nổi bật. Và như kết hợp với con người, những bông hoa rừng “đong đưa” làm duyên trên dòng nước lũ. Ngòi bút tài hoa của Quang Dũng không tả mà chỉ gợi, cảnh vật thiên nhiên xứ sở qua ngòi bút của ông như có hồn phảng phất trong gió, trong cây. Ông không chỉ làm hiện lên trước mắt người đọc vẻ đẹp của thiên nhiên mà còn gợi lên cái phần thiêng liêng của cảnh vật. Đọc đến đoạn thơ này ta như lạc vào thế giới của cái đẹp, thế giới của cõi mơ, của âm nhạc. Bốn câu thơ đầu ngân nga như tiếng hát, như nhạc điệu cất lên tự tâm hồn ngây ngất, say mê của những người lính Tây Tiến. Hơn ở đâu hết, trong đoạn thơ này, chất thơ và chất nhạc hòa quyện với nhau đến mức khó mà tách biệt. Trên cái nền hùng vĩ, hiểm trở của núi rừng và duyên dáng, thơ mộng, mĩ lệ của Tây Bắc, đến đoạn thơ thứ ba, hình ảnh tập thể những người lính Tây Tiến hiện ra với một vẻ đẹp đầy tính bi tráng:
Tây Tiến đoàn binh không có tóc
Quân màu lá dẻo, dữ oai hùng mạnh
Mắt trừng đưa mộng về biên giới
Đêm nơi Hà Nội, dáng kiều thơm ngát
Quang Dũng đã tinh tế lựa chọn những đặc trưng tiêu biểu nhất của những người lính Tây Tiến để tạo nên một bức tượng đài thể hiện được bức tranh chung của toàn đội quân. Bi và hùng là hai yếu tố chủ đạo của bức tượng, chúng hoà quyện, tương hỗ, tạo nên một vẻ đẹp bi tráng - biểu tượng của đội quân. Thơ kháng chiến thường nhắc đến căn bệnh sốt rét khốc liệt. Hữu trong bài “Đồng chí” đã mô tả căn bệnh ấy một cách chân thực:
Anh và tôi hiểu từng cơn lạnh buốt
Sốt rét nhấn chìm trán ướt đẫm mồ hôi
Tố Hữu, khi miêu tả bức chân dung của anh hùng vệ quốc trong tác phẩm “Cá nước”, đã tái hiện một cách cụ thể:
Những giọt mồ hôi rơi lả tả
Trên khuôn mặt anh óng ả
Không quên cả ảnh hưởng của căn bệnh đầy ác ý đó. Quang Dũng trong Tây Tiến không chỉ thể hiện sự đau đớn, khó khăn và hy sinh của binh lính một cách trần trụi, mà còn thông qua một cái nhìn đầy lãng mạn. Các tình tiết như tóc rụng vì sốt rét của binh lính Tây Tiến không phải là trí tưởng tượng, mà là hiện thực khắc nghiệt.
Dù gặp khó khăn vì đói khát và sốt rét, nhưng trong ánh nhìn của Quang Dũng, binh lính vẫn tỏ ra oai vệ như những con hổ trong rừng. Cái vẻ đáng sợ và mạnh mẽ của họ được thể hiện qua ánh mắt đầy giận dữ. Binh lính Tây Tiến không chỉ là những người mạnh mẽ mà còn là những con người với trái tim ấm áp, đầy lòng yêu thương.
Như vậy, trong khúc thơ này, Quang Dũng đã tạo nên tác phẩm điêu khắc tập thể những chiến sĩ Tây Tiến không chỉ qua nét vẽ bề ngoài mà còn thể hiện được cả thế giới tinh thần bên trong, ẩn chứa những ước mơ. Bút pháp của Quang Dũng khi miêu tả tập thể binh lính Tây Tiến không chỉ làm cho người đọc chìm vào nỗi đau thương mà còn được nâng lên bằng lý tưởng và tinh thần lãng mạn. Vì vậy, nỗi đau không chỉ được thể hiện qua hình ảnh những mảnh gương chiến sĩ rải rác trong rừng biên giới lạnh lẽo, mà còn được làm nhẹ đi bởi những từ Hán Việt trang trọng: “Rải rác biên cương mồ viễn xứ”. Cùng với đó, nỗi đau còn bị giảm bớt trước lý tưởng hy sinh cho tổ quốc của những chiến sĩ Tây Tiến.
Những người lính Tây Tiến, dù gặp khó khăn, vẫn tỏ ra lấp lánh vẻ đẹp của lý tưởng, như những anh hùng thuở xưa, không sợ cái chết. Sự thật bi thương là những chiến sĩ Tây Tiến nằm bên đường không có tấm chăn, nhưng trong tác phẩm của Quang Dũng, họ lại được phủ lên bởi tấm áo bào lộng lẫy. Nỗi đau đó được giảm bớt qua cách diễn đạt “anh về đất” và bị mờ đi bởi tiếng gầm thét dữ dội của dòng sông Mã:
Áo bào thay chiếu, anh về đất
Sông Mã gầm lên dữ dội
Trong âm nhạc hùng vĩ của thiên nhiên đó, cái chết, sự hy sinh của những chiến sĩ Tây Tiến không phải là bi kịch mà là biểu tượng của sức mạnh tinh thần. Đoạn thơ thứ ba toát lên sự trang trọng, thể hiện lòng trọng trọng và kính trọng của nhà thơ trước tinh thần hy sinh của đồng đội. Bài thơ kết thúc bằng bốn câu thơ, một lần nữa, nhấn mạnh không khí chung của thời Tây Tiến, tinh thần đoàn kết của những chiến sĩ Tây Tiến. Dù nhịp thơ chậm, giọng thơ buồn, nhưng tinh thần hùng hồn vẫn toả ra:
Tây Tiến không hẹn ước trở về
Con đường khó nhọc, một lần thôi
Những ai lên Tây Tiến mùa xuân ấy
Chẳng trở về Sầm Nứa, mãi mãi
Tinh thần “không chịu đầu hàng quá khứ” trải sâu trong ý niệm và tình cảm của toàn đội quân Tây Tiến. Tâm hồn, tình thương của những người lính Tây Tiến vẫn liên kết chặt chẽ với những ngày tháng ấy, những nơi mà họ đã từng trải qua. “Mùa xuân Tây Tiến kia” đã trở thành một khoảnh khắc không thể quay lại. Lịch sử dân tộc không bao giờ tái diễn những thời kỳ lãng mạn, hào hùng đến như thế trong một tình huống khắc nghiệt, khó khăn, đau thương như vậy.
...........
Tải tệp để khám phá thêm về Cảm xúc lãng mạn và tinh thần hào hùng trong bài thơ Tây Tiến