So sánh giữa Mị và một người phụ nữ làm nghề bắt cá để nhận thức được hoàn cảnh và số phận đáng thương, nhưng vẫn thấy được những phẩm chất đáng quý của phụ nữ Việt Nam.
Cảm nhận về người phụ nữ làm nghề bắt cá và Mị, gồm bốn mẫu siêu hay, bài ngắn gọn và đầy đủ. Đây là những bài làm của học sinh giỏi, giúp các bạn học sinh lớp 12 tự học và nâng cao kỹ năng viết văn.
Dàn ý so sánh giữa Mị và người phụ nữ làm nghề bắt cá.
1. Bắt đầu
- Giới thiệu về tác giả Tô Hoài và Nguyễn Minh Châu cùng hai truyện ngắn Vợ chồng A Phủ và Chiếc thuyền ngoài xa.
- Giới thiệu nhân vật Mị và nhân vật người phụ nữ làng chài.
2. Phần chính
a. Nhân vật Mị
- Mị trước khi trở về nhà làm dâu cho gia đình nhà thống lí Pá Tra
b. Nhân vật người phụ nữ làng chài
- Vẻ bề ngoại trạc
- Phụ nữ qua tuổi bốn mươi, vóc dáng cao lớn với những đường nét mạnh mẽ, gồ ghề, gương mặt phủ đầy nếp nhăn. Sau những đêm thức trắng, tâm trạng mệt mỏi, lưng gù cùng với những vết thương rách nát, áo ướt sũng.
- Mang thai nhiều lần, cuộc sống khốn khổ, chồng già trở nên hung ác, đánh đập vợ để giải tỏa cơn giận.
- Tính cách, phẩm chất
- Kiên nhẫn, bền bỉ: Thường xuyên bị chồng đánh đập bằng roi mây một cách tàn nhẫn “ba ngày một trận nhẹ, năm ngày một trận nặng” nhưng không bao giờ thấy chị khóc lóc, van xin hay phản kháng.
- Khi đối diện với tòa án, thẩm phán khuyên bà rời bỏ chồng, nhưng bà van xin “xin thưa quý tòa, bắt tội con cũng được, phạt tù con cũng được nhưng xin đừng bắt con phải rời xa người chồng yêu thương”.
→ Bà hiền lành, kiên nhẫn vì tình yêu dành cho con, mong muốn con có một gia đình hạnh phúc và được nuôi dưỡng khôn lớn.
- Một trái tim đầy tình yêu: Sự kiên nhẫn và cam chịu của bà đều bắt nguồn từ tình yêu thương vô bờ bến dành cho con. Vì yêu thương con, bà không muốn con phải chứng kiến sự bạo hành, vì vậy bà đã yêu cầu chồng đánh trên bờ, gửi thằng Phác lên rừng. Bà cảm thấy có lỗi với nó khi vì tình yêu thương của mình mà nó phải hận bố nó.
- Sự tha thứ, dung hòa: Dù bị chồng đánh đập, bà không bao giờ tỏ ra căm hận, oán trách hay muốn báo thù. Thậm chí, bà còn biết ơn người đã cùng bà chèo chống con thuyền trách nhiệm để nuôi dưỡng con. Bà chấp nhận trách nhiệm cho mọi lỗi lầm, và bà tin rằng sự hung ác của chồng cũng là vì bà mà ra.
- Sự hiểu biết về cuộc sống: Bà nhận thức được sứ mệnh của người phụ nữ và luật lệ của cuộc sống: “Thiên địa sinh ra phụ nữ để sinh con và nuôi dưỡng chúng cho đến khi chúng khôn lớn”.
→ Người phụ nữ là biểu tượng thành công của Nguyễn Minh Châu, để lại ấn tượng sâu sắc trong lòng mọi người. Người phụ nữ là biểu tượng nghệ thuật đầy sức hút mà Nguyễn Minh Châu muốn truyền đạt tư tưởng nhân đạo qua tác phẩm của mình.
3. Tóm tắt kết luận
Tóm tắt lại giá trị nội dung và nghệ thuật cùng ý nghĩa của hai truyện ngắn.
So sánh Mị và người phụ nữ hàng chài - Mẫu 1
Phụ nữ thường là chủ đề quen thuộc trong văn học Việt Nam, đặc biệt là những phụ nữ mang số phận khó khăn, phải trải qua nhiều khổ đau và tủi nhục. Đặc biệt, từ năm 1945 đến cuối thế kỷ XX, chủ đề này được thể hiện rất đặc sắc qua nhiều nhân vật. Trong số đó, nổi bật nhất có thể kể đến nhân vật Mị trong tác phẩm “Vợ chồng A Phủ” của Tô Hoài và nhân vật hàng chài trong truyện ngắn “Chiếc thuyền ngoài xa” của Nguyễn Minh Châu. Mỗi nhân vật đều có một số phận đáng thương nhưng vẫn tỏ ra đầy những phẩm chất quý báu của người phụ nữ Việt Nam.
Tác phẩm “Vợ chồng A Phủ” của Tô Hoài và “Chiếc thuyền ngoài xa” của Nguyễn Minh Châu đã đặc biệt nhấn mạnh hình ảnh của người phụ nữ. Những tác giả này không chỉ thể hiện sự quan tâm, thông cảm và đồng cảm với những số phận khốn khổ này mà còn tôn trọng và ngợi ca những phẩm chất cao quý của người phụ nữ.
Trong “Vợ chồng A Phủ”, chúng ta gặp Mị - một người phụ nữ dân tộc Mèo mang trong mình sức sống mãnh liệt. Khi đọc “Vợ nhặt” của Kim Lân, ta cảm thấy thương xót cho cô vợ với mong muốn sống và tồn tại đầy cháy bỏng. Rồi lại cảm động trước số phận của người phụ nữ hàng chài trong “Chiếc thuyền ngoài xa” của Nguyễn Minh Châu - một người phụ nữ cam chịu và hi sinh.
“Vợ chồng A Phủ” là một truyện ngắn được rút từ tập truyện Tây Bắc của Tô Hoài, viết vào năm 1953, ngay sau chuyến thăm thực tế của tác giả. Đây là một trong những tác phẩm đặc sắc nhất của Tô Hoài và văn xuôi Việt Nam nói chung. Tác phẩm này là một bức tranh sống động về cuộc sống của những người dân nghèo miền núi dưới sự áp bức và bóc lột của thế lực phong kiến thực dân. Đồng thời, nó cũng là một lời ca về sức mạnh và ý chí sống của những con người miền núi, là hình ảnh của con đường giải phóng và cuộc sống của họ. Một trong những biểu tượng rõ nét nhất của những con người đó chính là Mị, một nhân vật mang số phận bi đát nhưng lại rất đáng quý và tốt đẹp.
Tô Hoài mở đầu tác phẩm bằng việc giới thiệu Mị, một cô gái ngồi quay sợi bên tảng đá trước cửa, gần tàu ngựa. Dù làm bất cứ công việc nào như cấy cỏ, dệt vải, chẻ củi hoặc cõng nước, cô ấy luôn cúi đầu buồn rười rượi. Đó là hình ảnh của một người nô lệ bị chà đạp. Nhưng Mị là ai? Cô là con dâu nợ nhà Pá Tra, một số phận bất hạnh.
Mị là một cô gái dân tộc Mèo, sinh ra trong gia đình nghèo. Cô không chỉ xinh đẹp mà còn có tài năng và tính cách tốt. Tiếng sáo của Mị đã thu hút bao chàng trai Mèo. Nhưng số phận không mỉa mai, tuổi trẻ của Mị không có hạnh phúc. Cô phải chịu nhiều đau khổ vì món nợ truyền kiếp từ bố mẹ. Mị phải sống như một kẻ nô lệ trong nhà thống lý Pá Tra, không chỉ bị hành hạ về thể xác mà còn tinh thần. Cô đã suy sụp và gần như mất đi ý thức về thời gian và cuộc sống.
Mị chịu đựng trong cảnh địa ngục của nhà thống lý, dần chết dần với thân xác héo khô và tâm hồn lạnh lẽo. Cô đã mất đi ý thức về thời gian và cuộc sống, chỉ còn biết sống trong sự tăm tối và trống vắng. Cuộc đời của Mị dần trở nên tệ hại hơn, và cô thậm chí cũng không còn ý thức về cái chết nữa.
Trong bức tranh “Chiếc thuyền ngoài xa”, người đọc được đưa đến một gia đình làm nghề chài lưới. Trong đó, người đàn bà hàng chài gây ấn tượng mạnh với độc giả dù không xinh đẹp. Chị sống trong cảnh khốn khổ và chật vật, phải chịu đựng nhiều khổ đau từ cả biển khơi lạnh lùng và người chồng thô bạo. Số phận của chị luôn là một chuỗi ngày đầy khổ đau và đói kém.
Cuộc đời của người phụ nữ ấy được gói gọn trong nỗi lo sợ đói khổ, lo sợ thiếu thốn mỗi ngày. Bão táp biển khơi đã làm cho da chai sạm, rỗ đi, và thô kệch đi vẻ phụ nữ của chị. Nhưng còn đáng sợ hơn là bão táp từ những trận 'đòn' hàng ngày vẫn đổ xuống trên cơ thể và tâm hồn chị. Dù mọi người có nhìn vào bề ngoài và cử chỉ của ông chồng, họ vẫn nhận ra tất cả sự tàn nhẫn và khắc nghiệt của ông. Một cái lưng rộng và cong như một cái thuyền, mái tóc rối tung, và bước đi chắc chắn của ông, mọi thứ đều phản ánh sự đau khổ của người phụ nữ. Đằng sau tất cả những khó khăn, ông nhìn chăm chú vào người phụ nữ, không nhìn như một nguồn yêu thương mà như một nguồn đau khổ, ông nhìn chị như một cống hiến của mọi sự đau khổ. 'Ba ngày một trận nhẹ, năm ngày một trận nặng,' mỗi trận đòn là một cú sốc đối với chị. Chị gồng mình gắng gượng, nhưng tâm hồn vẫn mỏng manh. Giữa một xã hội phát triển, câu hỏi về sự nhạy cảm của con người vẫn là một vấn đề đau lòng!
Hình tượng người phụ nữ trong văn học Việt Nam từ 1945 đến cuối thế kỷ XX đã để lại ấn tượng sâu sắc và đặc biệt. Đó là câu chuyện về những số phận đau buồn, những cuộc sống khó khăn và đầy nước mắt. Tuy nhiên, không chỉ dừng lại ở việc khám phá nỗi đau và bất công của xã hội, cuộc sống đã đẩy họ vào những bế tắc tuyệt vọng, nhà văn còn làm nổi bật những phẩm chất tốt đẹp của họ - ánh sáng đẹp đẽ trong tâm hồn người phụ nữ. Với tình yêu cuộc sống, khao khát được sống, và những phẩm chất tốt đẹp, họ đã vượt qua mọi thử thách và bất công để tìm kiếm hạnh phúc.
Như Nguyễn Khải đã viết: 'Sự sống mọc lên từ sự chết, hạnh phúc nảy sinh từ những nỗ lực gian khổ. Trong cuộc sống này, không có con đường hoàn hảo, chỉ có những ranh giới, điều quan trọng là có đủ sức mạnh để vượt qua những rào cản đó.' Đây có lẽ là điều cuối cùng vang vọng sâu trong lòng của mỗi người đọc khi đọc các tác phẩm này.
Một sức mạnh sống mãnh liệt, một niềm khao khát sống, niềm tin và sự hy sinh đã vẽ nên bức tranh về vẻ đẹp tâm hồn và phẩm chất của người phụ nữ trong văn học Việt Nam từ 1945 đến cuối thế kỷ XX.
Người phụ nữ đã để lại dấu ấn không thể xóa nhòa trong văn học Việt Nam - hình ảnh của những con người không bao giờ chịu khuất phục trước hoàn cảnh, luôn tìm kiếm điều tốt đẹp nhất trong cuộc sống. Họ luôn là mẫu mực của người phụ nữ Việt Nam trong quá khứ, hiện tại và tương lai. Họ luôn tồn tại trong tâm trí của độc giả như 'Những con người đáng trân trọng nhưng đầy ý nghĩa.'
Liên hệ giữa người phụ nữ làm nghề chài và Mị - Hình mẫu 2
Truyền thống văn học Việt Nam luôn mang giá trị nhân đạo sâu sắc từ xưa đến nay. Trong thời đại hiện đại, có những nhà văn tài năng thực sự mang hơi thở của lòng nhân đạo vào mỗi tác phẩm. Trong số họ, Nguyễn Minh Châu và Tô Hoài với 'Chiếc thuyền ngoài xa' và 'Vợ chồng A Phủ'. Hai tác phẩm đều tôn vinh tinh thần vì con người, đặc biệt là người phụ nữ.
Sự khác biệt ngoại hình giữa hai người phụ nữ là rõ ràng: người phụ nữ làm nghề chài 'cao lớn', 'thô kệch', 'mặt rỗ'; Mị là cô gái trẻ yêu đời, 'được nhiều người ngưỡng mộ'. Mị sống trong thời chiến, bị áp bức bởi những kẻ thống trị, mất quyền tự do. Ngược lại, người phụ nữ làm nghề chài sống trong thời bình nhưng vẫn phải đối mặt với nghèo đói, làm cho gia đình cô không bao giờ được yên ổn. Mỗi tình huống, mỗi nhân vật phản ánh những tính cách đa dạng. Dù không muốn, Mị phải sống trong cảnh nô lệ, 'làm việc như con rùa nuôi trong cái chuồng nhỏ'. Mị luôn có sức sống tiềm tàng, sẵn sàng bộc lộ khi có cơ hội. Tình thương trong Mị luôn rực cháy, khi nhìn thấy 'dòng nước mắt lấp lánh' của A Phủ, lòng đồng cảm của Mị dấy lên, giúp cô giải thoát cho cả hai.
Người phụ nữ phải sống trong hoàn cảnh đó hoàn toàn do ý nguyện của bà. Bên trong bà là một tâm hồn lớn, một con người sâu sắc! Mọi điều bà làm, bà chịu đựng không bao giờ vì bản thân mình mà đều vì chồng con. Bất kể khó khăn, bà không bao giờ trách chồng mà luôn tự đổ lỗi cho bản thân. Từ những gì người phụ nữ nói đã làm cho Đẩu-vị Bao Công phố huyện miền biển phải thán phục vì sự sâu sắc và kinh nghiệm sống của một con người tưởng chừng như kém hiểu biết.
Cả hai người phụ nữ đều là biểu tượng của xã hội lúc đó. Họ đại diện cho những người phụ nữ Việt Nam kiên cường và vị tha. Tác giả cũng đã tôn trọng họ, thể hiện họ là một phần không thể thiếu của xã hội này.
So sánh Mị và người phụ nữ làm nghề chài - Hình mẫu 3
Số phận của người phụ nữ trong văn bản không chỉ đẹp mà còn chứa đựng tính nhân văn sâu sắc và diễn tả được nỗi khổ của họ. Trong đó, Mị - một cô gái ở vùng núi, mang trái tim yêu tự do và khao khát hạnh phúc. Và người phụ nữ làm nghề chài - một sự khám phá vẻ đẹp bên trong con người của Nguyễn Minh Châu. Họ đã để lại ấn tượng sâu sắc và khó phai trong lòng ta.
Tô Hoài được coi là một biểu tượng của văn học Việt Nam hiện đại. Tác phẩm 'Vợ chồng A Phủ' được viết và in trong tập truyện Tây Bắc, kết quả của chuyến đi của Tô Hoài cùng bộ đội vào giải phóng miền Tây Bắc. Tác phẩm này được viết trong bối cảnh xã hội đen tối nhưng lòng sống mãnh liệt của người dân.
Mị là nhân vật chính trong câu chuyện, trước khi trở về nhà của thống lí Pá Tra, cô được mọi người xem như một cô gái đầy tài năng và sắc đẹp. Trong lời kể của Tô Hoài, cô Mị đã để lại nhiều ấn tượng sâu sắc: “ai đi xa về, đến nhà Pá Tra thường thấy một cô gái ngồi quay sợi đay bên tảng đá gần như một cỗ máy, và tâm hồn khao khát tự do, hạnh phúc, một cô Mị trẻ trung đã chết và bị chôn vùi.”
Cô bị bắt về nhà thống lí Pá Tra, trở thành con dâu gánh nợ, số phận kiếp tôi. Cô phải trả món nợ truyền kiếp của gia đình cho cha, nhưng dù có như vậy cũng không thể dập tắt hết trái tim yêu đời. Vì lòng hiếu thảo, cô đã hy sinh tuổi thanh xuân của mình.
“Một số tháng liền, mỗi đêm Mị đều rơi lệ” cô khóc không chỉ vì đau khổ về thân thể, mà còn vì cuộc sống tinh thần quá khó khăn. Đôi khi Mị chỉ mong sớm chết đi để không còn phải suy nghĩ nữa. Mị xuất hiện với những nỗi đau của người phụ nữ miền núi xưa, là nạn nhân của sự bạo lực thần quyền.
Còn người phụ nữ làm nghề chài, sống trong thời kỳ đất nước hòa bình. Nhưng nỗi đau từ bạo hành gia đình lại giam cầm, đè nén họ. “Cao lớn, với những nét thô kệch” người phụ nữ gợi lên hình ảnh đầy đau khổ, vất vả và tủi nhục. “Tấm lưng áo bạc với miếng vá, nửa thân ướt sũng” đem đến bao nỗi đau, bao nỗi thương xót trong lòng độc giả.
Người phụ nữ từng kể: “Từ nhỏ, tôi đã là một đứa con gái xấu, với khuôn mặt rỗ mặt sau một vụ đậu mùa nữa” hoàn cảnh khó khăn, khiến người phụ nữ phải kết hôn với một người chồng làm công việc gian khổ và mệt mỏi. Vì vậy, ước mơ lớn nhất của cuộc đời bà là có đủ gạo để nuôi con cái. Nhưng cảnh khổ này đã biến người chồng trở nên tàn bạo và biến người phụ nữ thành con nô lệ cho những hành động tàn bạo của hắn.
Hai hoàn cảnh, hai số phận khác nhau nhưng đều đậm chất thương tâm. Phía sau họ là trái tim đẹp, khát khao sống, hy sinh và tìm hạnh phúc, họ là những con người nhân từ, bao dung, tràn đầy đức tính tốt đẹp và đáng quý, đáng trân trọng đến cùng.
Nhân vật Mị và người phụ nữ đều là những linh hồn bé nhỏ, là nạn nhân của số phận. Tội ác của phong kiến đã biến Mị từ một cô gái trẻ đẹp thành một nạn nhân của cuộc sống đầy gian nan. Còn người phụ nữ thì là nạn nhân của nghèo đói và sự bất công. Khát vọng sống mãnh liệt đã thúc đẩy họ vượt qua tất cả, và đức tính cao quý hiện lên rõ ràng.
Qua hai nhân vật, Tô Hoài và Nguyễn Minh Châu không chỉ gợi lên sự đồng cảm với nhân vật, mà còn khẳng định mong muốn sống, sự hy sinh im lặng. Họ làm cho chúng ta trân trọng thêm những nghệ sĩ, những người luôn cố gắng bảo vệ lẽ phải, cái thiện.
So sánh nhân vật Mị và người đàn bà hàng chài - Mẫu 4
Đại văn hào Nga M. Gorki đã nói rằng 'Văn học là nhân học', trong khi nhà văn hiện thực hàng đầu của nước ta, Nam Cao, cho rằng 'Một tác phẩm văn học có giá trị phải vượt qua mọi giới hạn và biên giới để ca ngợi tình yêu thương, sự công bằng... làm cho con người gần gũi hơn, bởi tác phẩm văn học là kết quả của tinh thần con người, được tạo ra để phục vụ con người. Vì vậy, nhà văn thực sự phải là nhà nhân đạo từ sâu bên trong.' Vợ chồng A Phủ của Tô Hoài và Chiếc thuyền ngoài xa của Nguyễn Minh Châu là hai tác phẩm thành công với tinh thần vì con người, đặc biệt là với vai trò của phụ nữ.
Tô Hoài là một trong những cây bút tiêu biểu của văn học Việt Nam hiện đại. Vợ chồng A Phủ được viết trong tập 'Truyện Tây Bắc', là kết quả của chuyến đi của Tô Hoài cùng với bộ đội giải phóng Tây Bắc vào năm 1952. Tác phẩm mô tả về cuộc sống u ám và lòng khao khát sống của những người dân miền núi dưới ách thống trị của phong kiến thực dân.
Nguyễn Minh Châu là một trong những nhà văn tiêu biểu trong thời kỳ chống Mỹ, là một trong những người đi tiên phong trong thời kỳ đổi mới. Trong giai đoạn kháng chiến chống Mỹ, tác phẩm của ông mang đậm tinh thần sử thi. Từ những năm 80 của thế kỷ XX, ông dần chuyển sang tâm hồn triết lý về giá trị nhân loại trong cuộc sống hàng ngày. Chiếc thuyền ngoài xa là một trong những truyện ngắn xuất sắc nhất của Nguyễn Minh Châu ở giai đoạn sau này, mô tả một màn đối mặt đầy mâu thuẫn giữa một người nghệ sĩ và những vấn đề của một gia đình làng chài, từ đó thể hiện nỗi đau và lo âu về con người và cuộc sống.
Vợ chồng A Phủ và Chiếc thuyền ngoài xa, cùng với Tô Hoài và Nguyễn Minh Châu, là những tác phẩm mang đề tài khác nhau, phong cách nghệ thuật xuất hiện trên văn đàn cách nhau tới 30 năm nhưng đã gặp nhau trong sự quan tâm đặc biệt về con người, đặc biệt là về thân phận của người phụ nữ.
Mị là nhân vật chính trong câu chuyện 'Vợ chồng A Phủ' của Tây Nguyên. Trong một lời kể u sầu mở đầu tác phẩm, hình ảnh Mị đã đem lại cho người đọc một cảm giác sâu sắc: 'Ai ở xa về, thường thấy một cô gái ngồi quay sợi đay bên tảng đá cạnh tàu ngựa. Dù làm gì, cô ấy đều cúi mặt, mặt buồn rười rượi'. Đó là tư thế vẻ mặt của một người phụ nữ cam chịu làm nô lệ, không dám ngẩng đầu, cô chìm vào trong công việc vất vả và luôn như một vật không hồn: quay sợi, tảng đá, tàu ngựa.
Theo lời kể, cuộc đời của Mị dần trở nên như một cuốn phim. Thời trẻ, Mị là một cô gái Mèo xinh đẹp, dễ thương, tài năng, hiền lành, yêu đời và hưởng thụ cuộc sống. Mị đã khiến trái tim của nhiều chàng trai Mông tan chảy: 'những đêm tình mùa xuân đến, trai đứng nhẵn cả bức vách đầu buồng Mị'. Mị rất nhạy cảm với cái đẹp và rung động trước vẻ đẹp của thiên nhiên, núi rừng, và của người tình gửi vào tiếng sáo: 'có biết bao nhiêu người mê ngày đêm thổi sáo đi theo Mị'. Mị cũng đã trải qua một tình yêu, với lời hẹn hò và nhẫn cưới. Tâm hồn thiếu nữ xinh đẹp và tài năng đã mở ra để đón nhận vẻ đẹp của cuộc sống.
Nhưng tất cả đã kết thúc trong đêm định mệnh khi Mị bị bắt cóc về nhà thống lý Pá Tra trong âm nhạc cuối cùng của cuộc cúng ma, cô trở thành con dâu của thống lý để trả món nợ hôn nhân từ thời cha mẹ. Mị trở thành con dâu gánh nợ là người con hiếu thảo và là cô gái trong trắng, yêu đời, mong muốn được sống và được yêu thương. Mị đã cố gắng cứu cha, cứu bản thân, van xin cha: 'con biết phải làm nương trả nợ thay cho bố. Bố đừng bán con cho người giàu'. Tấm lòng hiếu kỳ của cô gái Mông trong trắng và hồn nhiên không đối đầu được với hoàn cảnh và uy quyền của cha thống lý. Cô trở thành nô lệ.
Những ngày đầu làm dâu gánh nợ nhà thống lý Pá Tra, Mị cảm nhận được nỗi đau của một cuộc đời bị tước đoạt: 'Có đến mấy tháng liền đêm nào Mị cũng khóc'. Mị muốn kết thúc cuộc sống không đáng sống bằng cách tìm đến lá ngón. Trước khi ăn lá ngón, cô Mị quay về để nói lời tạm biệt và xin cha tha thứ cho mình được chết. Nhưng với những lời nhấn mạnh từ cha già, Mị không thể tự tử. Mị buộc phải ném lá ngón, quay lại nhà thống lý, chấp nhận số phận làm nô lệ.
Ngày tháng trôi qua lạnh lùng 'ở lâu trong cái khổ Mị cũng quen rồi'. Cuộc sống của Mị là chuỗi ngày công việc, những công việc monoton, lặp đi lặp lại nhàm chán'. Sau Tết, Mị leo núi hái thuốc phiện, giữa năm giặt đay se đay, mùa về nương bẻ bắp'. Mị trở thành công cụ trong tay nhà thống lý Pá Tra 'dù làm gì cũng có bó đay để tuốt thành sợi'. Sự mệt mỏi về thể xác đã làm cho tinh thần Mị trở nên tê liệt. Nhà văn đã sử dụng phép so sánh đau đớn 'Mị như con trâu con ngựa. Mị không bằng con trâu con ngựa. Mị như con rùa lùi lũi trong xó cửa' để tả nỗi đau của cuộc sống làm người. Có thể nói rằng Mị đã bị lột trần, tước đoạt cả về ý thức thời gian không gian 'ở cái buồng Mị nằm, kín mít, có một cửa sổ một lỗ vuông bằng bàn tay, lúc nào trông ra cũng chỉ thấy trăng trắng không biết là sương hay là nắng'
Mị còn mang một nỗi ám ảnh ghê rợn: 'Con ma nhà thống lý', dù bị A Sử tra tấn tàn bạo, Mị không bao giờ nghĩ đến việc chống trả.
Mị là biểu tượng của sự bất hạnh của phụ nữ miền núi thời phong kiến, là nạn nhân của sự thống trị của thần quyền và thần quyền.
Người phụ nữ của làng chài là biểu tượng của phụ nữ lao động vùng biển thời hậu chiến. Nếu Mị được miêu tả trực tiếp qua lời của Tô Hoài, thì người phụ nữ làng chài xuất hiện thông qua một tình huống thực tế. Đó là khi nghệ sĩ Phùng chụp được một bức ảnh đẹp như một bức tranh mực tàu của một danh họa cổ, chụp chiếc thuyền ngoài xa. Khi chiếc thuyền cập bờ, người nghệ sĩ chứng kiến một cảnh tượng đau lòng: 'Người chồng lao tới đánh vợ, đứa con cố gắng ngăn bố với tốc độ thù ghét'.
Người phụ nữ trong mắt của nghệ sĩ luôn tìm kiếm cái đẹp, là 'người phụ nữ trên bốn mươi tuổi, vóc dáng quen thuộc của người phụ nữ vùng biển, cao lớn với những đường nét thô kệch. Mụ rỗ mặt, khuôn mặt mệt mỏi sau một đêm thức trắng kéo lưới, tái ngắt và dường như đang buồn ngủ'. Người phụ nữ ấy gợi lên hình ảnh về cuộc sống khó khăn, lao lực. Nhà văn mô tả nhân vật của mình một cách chân thực từng chi tiết, khiến người đọc cảm nhận được người phụ nữ từ chiếc thuyền lưới bước vào trang giấy. Hình ảnh chị với 'tấm lưng áo bạc có miếng vá, nửa thân dưới ướt sũng' đem lại cho người đọc nhiều cảm xúc.
Người phụ nữ từng chia sẻ về cuộc đời mình 'từ nhỏ tôi đã là một cô gái xấu, lại rỗ mặt sau một mùa đậu thất bại nữa' một diện mạo bất hạnh, việc lấy chồng của cô cũng là điều không bình thường: 'cũng vì xấu. Trong phố không ai chịu lấy. Tôi tự mình đã đến với một chàng trai nhà chài giữa phố hay đến nhà tôi mua bả về đan lưới'. Lời chia sẻ của cô gợi lên trong lòng động lòng đồng cảm với phụ nữ kém may mắn. Hạnh phúc đến với cô khó khăn, vất vả biết nhường nào. Khát vọng lớn nhất của cô là có một chiếc thuyền rộng rãi và đủ gạo để nuôi sống đàn con. Trong hoàn cảnh khó khăn, chồng cô thay đổi tính cách. Anh ta cho rằng nỗi khổ của mình là do đám con đông đúc gây ra. Anh ta không bỏ mặc vợ con nhưng càng lao vào con đường kiếm sống khó khăn, anh ta càng rơi vào bế tắc. Hậu quả tất yếu là anh ta trở nên hung ác, biến vợ thành nô lệ cho những hành động xâm hại lỗ mãng của mình.
Tác giả tập trung vào việc làm nổi bật sự kiên nhẫn của người phụ nữ, từ khuôn mặt mệt mỏi, ánh mắt nhìn xuống chân đến vẻ mặt lúng túng khi vào công sở: 'Nếu có một chút gì đó là vẻ sắc sảo của người phụ nữ lộ ra, chỉ vừa đủ để kích thích trí tò mò của chúng tôi' rồi lại trở về trong phút chốc ngồi trước mặt chúng tôi vẫn là người phụ nữ đầy lúng túng sợ sệt. Điều đặc biệt là hành động vái lạy của cô. Lần thứ nhất như lời cầu xin của đứa con trai đừng làm điều gì ngớ ngẩn với bố khi thằng bé bên mẹ, lao vào trả thù bố. Lần thứ hai hành động đó lặp lại với Đẩu vị chánh án đang cố gắng bảo vệ công lý, với những đề nghị cầu cứu: 'Quý tòa bắt tội con cũng được, phạt tù con cũng được, đừng bắt con bỏ nó'.
Trong 'Vợ chồng A Phủ' của Tô Hoài, nếu nhân vật Mị với so sánh tiềm ẩn đã phản kháng, chờ đợi cơ hội thoát khỏi những gánh nặng thì người phụ nữ im lặng chịu đựng mọi đau đớn dù bị chồng thường xuyên đánh đập: 'ba ngày một trận nhẹ....' Cô hiểu rằng những cú đòn của chồng bắt nguồn từ sự ức chế tâm lý: '... là lão xách tôi ra đánh ... cũng như đàn ông khác uống rượu'. Cô nhớ rõ điều tốt của chồng để bào chữa cho những hành động tội ác của anh ta: 'Lão chồng tôi khi ấy là một chàng trai cục tính nhưng hiền lành lắm, không bao giờ đánh đập tôi'. Cô tha thiết xin quý tòa đừng bắt mình phải ly dị lão chồng vũ phu ấy. Với cô, phụ nữ ở vùng biển phải 'Gánh lấy khổ đau', 'ở thuyền đôi chúng tôi phải sống cho con, không thể sống cho bản thân như trên đất'. Điều duy nhất cô ước mơ là được chồng đưa cô lên bờ để không phải con cái chứng kiến cảnh bố đánh mẹ'. Nếu có lúc khuôn mặt của cô sáng lên nụ cười hạnh phúc là khi cô nhớ về 'ở trên thuyền cũng có lúc chúng tôi sống hòa thuận vui vẻ'. Đó là những giây phút hiếm hoi so với những trận đòn cơm bữa của chồng, sự hòa thuận vui vẻ đó như những tia sáng rực rỡ trong cuộc đời tăm tối dài dằng dặc của cô.
Nhưng nếu người phụ nữ chấp nhận sự giúp đỡ từ Phùng và Đẩu để ly dị người chồng tàn ác thì: cuộc sống của người phụ nữ sẽ điều chỉnh như thế nào? Ai sẽ nuôi dưỡng những đứa con? Trong mắt người khác, người phụ nữ ấy bất hạnh, trong khi cô ý thức rằng được ở với người chồng vũ phu đã là một hạnh phúc. Đó là niềm hạnh phúc dựa trên nỗi đau, hạnh phúc được sinh ra từ sự hy sinh.
Nguyễn Minh Châu gọi nhân vật của mình là người phụ nữ một cách mỉa mai, đó là ý kiến của nhà văn. Ông muốn đại diện cho người phụ nữ vô danh ở những vùng biển suốt một dải đất và nước, mang theo bao nỗi đau thương, bao giọt nước mắt bi ai mà thế giới không thấy. Trên khuôn mặt của cô, có bóng dáng của bao phụ nữ Việt Nam ân cần, nhân từ, giàu lòng dung tha và lòng hy sinh.
Nhân vật Mị và người phụ nữ làng chài đều là những nhân vật bé nhỏ nạn nhân của hoàn cảnh. Tội ác của phong kiến chúa đất đã biến Mị thành con dâu gạt nợ kiếp người thành kiếp vật, còn người phụ nữ là nạn nhân của tình trạng đói nghèo và nhận thức tăm tối. Khát vọng sống mãnh liệt đã khiến Mị đứng dậy, thay đổi cuộc đời nhờ cách mạng. Với người phụ nữ làng chài, Nguyễn Minh Châu khiến người đọc luôn rưng rức về số phận người phụ nữ thời hậu chiến. Công cuộc giải phóng dân tộc chúng ta đã hoàn thành vẻ vang nhưng ở đâu đó vẫn còn những số phận khốn khổ chưa được giải thoát. Hình ảnh bãi xe tăng hỏng như một gợi ý rằng cuộc chiến chống đói nghèo tăm tối còn khó khăn hơn cả cuộc chiến chống ngoại xâm. Và cho đến khi chưa vượt qua được đói nghèo, con người phải chung sống với cái xấu cái ác. Và nữa qua nhân vật người phụ nữ Nguyễn Minh Châu còn truyền đi những quan điểm nghệ thuật: mối quan hệ chặt chẽ giữa nghệ thuật và cuộc sống, yêu cầu hiểu biết và lòng can đảm trung thực của người nghệ sĩ, chủ nghĩa nhân đạo trong như thế trong thể xa lạ với sự vật cụ thể của con người.
Qua hai nhân vật, các nhà văn Tô Hoài và Nguyễn Minh Châu không chỉ đem đến cho người đọc sự đồng cảm sâu sắc với thân phận người phụ nữ mà còn giúp chúng ta cảm nhận được những phẩm chất tốt đẹp của họ: lòng yêu đời, khát vọng sống mạnh mẽ, sự hy sinh thầm lặng nhẫn nại để vun đắp hạnh phúc gia đình. Những nhân vật, những thân phận ấy ghi dấu sâu trong lòng chúng ta để thêm phần trân trọng tấm lòng của người nghệ sĩ, những người luôn 'một mối hoài thương trực rẽ, hạnh phúc của những người chung quanh mình' Nguyễn Minh Châu.