So sánh phong cách nghệ thuật giữa Nguyễn Tuân và Hoàng Phủ Ngọc Tường được chọn lọc từ 3 bài văn mẫu cực kỳ hay bao gồm bài phân tích ngắn gọn, đầy đủ và bài làm của học sinh giỏi. Nhằm giúp các em học sinh lớp 12 tự học, mở rộng kiến thức và rèn luyện kỹ năng Văn một cách hiệu quả hơn.
Nguyễn Tuân và Hoàng Phủ Ngọc Tường là 2 nhà văn có những điểm tương đồng và khác biệt trong phong cách nghệ thuật, đã đóng góp không ít vào sự phát triển đa dạng và phong phú của văn học dân tộc. Độc giả yêu mến, tự hào vì họ đã thêm sắc màu cho đất nước bằng những tác phẩm văn học đẹp, sâu lắng về tình yêu quê hương. Dưới đây là 3 bài văn mẫu xuất sắc nhất mời quý vị cùng tham khảo.
Dàn ý về phong cách nghệ thuật của Nguyễn Tuân và Hoàng Phủ Ngọc Tường
a. Tổng quan về 2 tác phẩm
- Người chèo đò trên sông Đà: Là những đoạn văn đặc sắc, được xuất bản trong tập Sông Đà, Nguyễn Tuân tìm kiếm vẻ đẹp thiên nhiên và con người miền Tây Bắc, cũng như sức sống kiên cường trong tâm hồn của người lao động.
- Người đã đặt tên cho dòng sông? Là bài viết tôn vinh vẻ đẹp của dòng sông Hương, nhấn mạnh về vẻ đẹp văn hóa và con người của vùng đất Huế.
=> Cả hai là những tác phẩm văn xuất sắc, phản ánh phong cách nghệ thuật uyên bác, tài hoa của hai nhà văn
b. Định nghĩa về phong cách nghệ thuật
- Là một khía cạnh thẩm mỹ, phản ánh sự thống nhất tương đối ổn định của hệ thống hình ảnh trong nghệ thuật, thể hiện cái nhìn độc đáo trong tác phẩm của các nhà văn, trong từng tác phẩm cụ thể, trong dòng văn học hoặc văn học dân tộc.
- Phong cách văn học có những đặc điểm riêng và hiển hiện trên bề mặt của tác phẩm như một thực thể cụ thể, trong đó yếu tố quan trọng là nội dung và hình thức. Chỉ có những nhà văn có tài và có bản lĩnh mới tạo ra được phong cách độc đáo riêng biệt.
c. Tổng quan về phong cách nghệ thuật của hai nhà văn
- Nguyễn Tuân: Tính uyên bác, tài hoa không ngừng cố gắng khám phá các cảm xúc và liên tưởng phong phú, đa dạng để tìm ra những từ ngữ chính xác nhất, có khả năng kích thích người đọc một cách mạnh mẽ nhất.
- Hoàng Phủ Ngọc Tường: Kết hợp một cách hài hòa giữa trí tuệ và tình cảm, giữa luận lý sắc bén với suy tư sâu sắc được tích hợp từ kiến thức sâu rộng về triết học, văn hóa, lịch sử và địa lý. Tất cả được thể hiện qua lối viết nội tâm, súc tích, cuốn hút và tài hoa.
d. Tương đồng trong phong cách nghệ thuật của hai tác giả được thể hiện qua hai tác phẩm:
- Cả hai đều là thể loại tùy bút và đều mang chất trữ tình: mô tả, ghi chép chi tiết về vẻ đẹp của chủ thể được đề cập trong văn bản, qua đó thể hiện cảm xúc, suy tư và nhận thức của mình về chủ thể đó. Cụ thể:
- Người chèo đò trên sông Đà: Mô tả dòng sông Đà với hai bản chất đối lập, sông Đà sinh động, có linh hồn, có tính cách, rồi sông Đà như một người bạn thân. Bên cạnh đó là người chèo đò giản dị nhưng tài hoa, trí dũng, đáng kính trọng và ngưỡng mộ.
- Người đã đặt tên cho dòng sông? Mô tả dòng sông Hương đậm chất thơ: lãng mạn, êm đềm, đong đầy tình yêu thương khiến người đọc say đắm, bởi vẻ đẹp của một thiếu nữ, của một người mẹ phù sa ân cần dành cho một vùng đất văn hóa xứ Huế.
- Cả hai tác giả đều có tài hoa và uyên bác
- Người chèo đò trên sông Đà: Nguyễn Tuân sử dụng kiến thức từ nhiều lĩnh vực khi mô tả con sông Đà, bao gồm địa lí, quân sự, điện ảnh, võ thuật và biểu hiện tài hoa trong cách sử dụng ngôn từ: sử dụng từ ngữ độc đáo, tưởng tượng và so sánh một cách sáng tạo.
- Người đã đặt tên cho dòng sông: Hoàng Phủ Ngọc Tường hiểu biết sâu rộng về địa lí, lịch sử, văn hóa, thơ ca và mô tả dòng sông bằng một cách đặc biệt và tinh tế, kết hợp sự tưởng tượng và so sánh để tạo ra hiệu ứng nghệ thuật độc đáo.
e. Sự khác biệt: Thể hiện tính cá nhân sáng tạo độc đáo:
- Nguyễn Tuân với Người chèo đò trên sông Đà: Tập trung vào việc phát hiện và diễn đạt các hiện tượng ảnh hưởng mạnh mẽ đến giác quan của người đọc (Phân tích tính hung bạo của con sông Đà và cuộc đấu tranh của người chèo đò).
- Hoàng Phủ Ngọc Tường với Ai đã đặt tên cho dòng sông?: Tập trung vào yếu tố thơ mộng, dịu dàng (Phân tích vẻ đẹp của sông Hương).
g. Đánh giá và nhận xét.
- Cả hai đều là những nhà văn có tài năng và đam mê với nghề, có tình yêu sâu sắc đối với quê hương và đất nước.
Phong cách nghệ thuật của Nguyễn Tuân và Hoàng Phủ Ngọc Tường
Bài mẫu số 1
Nguyễn Tuân và Hoàng Phủ Ngọc Tường là hai nhà văn có phong cách tùy bút đặc sắc, thể hiện sự yêu quê hương đậm đà qua từng dòng chữ tài hoa. Các tác phẩm của họ là góc nhìn độc đáo về cảnh vật và con người miền Nam Việt Nam. 'Người lái đò Sông Đà' của Nguyễn Tuân và 'Ai đã đặt tên cho dòng sông' của Hoàng Phủ Ngọc Tường là hai trong số những tác phẩm xuất sắc đó. Cả hai tác phẩm đều thể hiện được tính cá nhân và phong cách nghệ thuật độc đáo của hai tác giả.
Khi nói về phong cách của nhà văn, chúng ta nhắc đến tài năng của họ trong việc mang đến cái nhìn mới mẻ về cuộc sống và con người thông qua hình tượng nghệ thuật đặc biệt và các phương tiện thể hiện riêng biệt của mình. Phong cách nghệ thuật của Nguyễn Tuân và Hoàng Phủ Ngọc Tường khi miêu tả sông Hương và sông Đà vừa có điểm chung vừa có nét riêng.
Trước hết, là những điểm tương đồng trong cách họ sử dụng bút để tạo ra các hình tượng. Thứ nhất, cả hai đều có tài hoa: luôn nhìn nhận cuộc sống và con người từ góc độ văn hoá, thẩm mỹ để khám phá ra những vẻ đẹp của cuộc sống thực.
Nguyễn Tuân đã nổi tiếng từ tập truyện 'Vang bóng một thời' dù bắt đầu viết văn khá muộn. Sau cách mạng, ông chuyển sang thể loại tùy bút và nhanh chóng gặt hái thành công. 'Người lái đò Sông Đà' ra đời năm 1960 sau chuyến đi tại Tây Bắc năm 1958 của ông.
Nguyễn Tuân nhìn sông Đà ở góc độ thẩm mỹ để khám phá vẻ đẹp trữ tình của nó. Sông Đà được miêu tả từ nhiều góc nhìn khác nhau.
Dưới ngòi bút của Nguyễn Tuân, sông Đà được so sánh như một 'sợi dây thừng ngoằn ngoèo', thể hiện sự mềm mại, thơ mộng. Chất thơ không chỉ đến từ hình dáng mà còn từ màu sắc của nó.
Việc miêu tả của Nguyễn Tuân khiến đọc giả cảm nhận như đang xem một bộ phim về sông Đà. Bên bờ sông thật đặc biệt với vẻ hoang sơ, hồn nhiên, gợi cho ta nhớ đến thơ Tản Đà.
Văn của Nguyễn Tuân về sông Đà như một tác phẩm tài liệu sống động. Bên bờ sông thật đặc biệt, gợi nhớ về thơ Tản Đà.
Không chỉ quan sát phong cảnh với góc độ văn hóa và thẩm mỹ, Nguyễn Tuân còn nhìn nhận người lái đò như một nghệ sĩ, phát hiện ra tài năng nghệ thuật trong việc vượt qua thác nước và đá.
Mặc dù Sông Đà hung dữ, nhưng người lái đò vẫn tự do thảo sức trên dòng nước. Sự tự do là khi họ hiểu rõ luật lệ tự nhiên, luật lệ của đá và nước sông Đà. Họ biết cách thích ứng với những quy luật khắc nghiệt này, và từ đó, trên những thác nước nguy hiểm, người lái đò Sông Đà vẫn tự do.
Để chứng tỏ tài nghệ của người lái đò, tác giả đã sáng tạo ra một hành trình vượt qua thác nước Sông Đà. Sông Đà dữ tợn, đầy những tảng đá khó khăn và nguy hiểm. Nhiều đội quân được sắp xếp hùng hậu để chống lại những điều này.
Trái ngược với dòng Sông Đà khó khăn là người lái đò, chỉ có một cây mái chèo nhưng đã vượt qua mọi thử thách của Sông Đà với sự dũng cảm và khéo léo. Họ để lại sau lưng những tiếng cười vô nghĩa của dòng sông, là biểu hiện của tài năng và tâm hồn cao quý.
Với Hoàng Phủ Ngọc Tường, Huế không chỉ là nơi sinh sống mà còn là tâm hồn của ông. Khi viết về dòng sông Hương trong tùy bút 'Ai đã đặt tên cho dòng sông', ông đã dành trọn tâm huyết của mình cho sông Hương, nơi mà ông đã gắn bó suốt 40 năm. Trong số các tác phẩm về Huế, tác phẩm này được coi là biểu tượng nhất của Hoàng Phủ Ngọc Tường, nơi ông đã phát hiện ra vẻ đẹp của dòng sông Hương với sự hòa quyện giữa sự tự do và sự tinh tế.
Tại thượng nguồn của dãy Trường Sơn, sông Hương hiện lên với vẻ đẹp hùng vĩ, đầy rẫy những thách thức với dòng chảy mạnh mẽ, hung bạo như 'những cơn lốc cuồn cuộn vào lòng hẻm sâu thăm thẳm'. Đối với nhà văn, sông Hương giống như một khúc hát ca ngợi về rừng già khi nó vượt qua dãy Trường Sơn. Thủ pháp nhân cách hóa biến sông Hương thành một cô gái Di gan đầy mạnh mẽ và cá tính, với bản năng tự do và sự dũng cảm đã chinh phục cảnh thiên nhiên, và được cảnh thiên nhiên ban tặng một tâm hồn tự do và tinh khôi.
Sông Hương hiện lên với vẻ đẹp dịu dàng và sâu lắng khi trở thành nguồn cảm hứng cho một vùng đất văn hoá lịch sử. Trước đó, nhà văn đã dùng từ ngữ dày dặn hơi thở thơ mộng để miêu tả cái dịu dàng đó: 'đôi khi sông Hương êm đềm chảy qua những dặm đường dài nhấp nhô giữa những màu đỏ của hoa đỗ quyên rực rỡ'. Bây giờ, sông Hương trở thành mẹ phù sa của Huế. Với cái nhìn sắc bén và tình yêu sâu đậm với Huế, nhà văn lựa chọn những từ ngữ tươi đẹp nhất, tinh tế nhất để mô tả dòng chảy ấy. Trước khi trở về với thành phố hiện đại, 'tình yêu đã chờ đợi', sông Hương hiện lên như một cô gái trẻ với những đường cong mềm mại, 'sông êm như tấm lụa' quyến rũ và lôi cuốn. Đặc biệt là vẻ đẹp đa dạng, mơ mộng, như những ánh sáng phản chiếu nhiều màu trên bầu trời phía tây nam của thành phố, đã làm say đắm bao du khách xa xứ:
'Đã bốn lần đến Huế
Vẫn lạ như lần đầu
Sông Hương lơ đãng chảy
Nắng tím vướng chân cầu '
(Đoàn Thạch Biền)
Góc nhìn văn hóa thẩm mỹ của nhà văn cũng đưa sông Hương lên với vẻ đẹp tĩnh lặng khi chảy qua những rừng thông u tịch và những lăng mộ kiêu hãnh của các vua chúa triều Nguyễn. Có vẻ đẹp mang dấu ấn của triết lý cổ điển khi đi trong tiếng chuông chùa Thiên Mụ. Có vẻ đẹp rạng ngời khi đi qua những bờ bãi xanh của vùng ngoại ô Kim Long. Có vẻ đẹp tuyệt vời với 'đường cong mềm mại như một lời hứa không lời của tình yêu'. Đó là sông Hương khi đi qua thành phố Huế, với dòng chảy chậm rãi, muốn ngừng lại và ở lại. Có vẻ đẹp mơ màng trong sương khói khi rời xa thành phố, để lại sau lưng những thửa ruộng xanh của vùng ngoại ô Vĩ Dạ.
Điểm chung thứ hai của hai nhà văn là tính 'Uyên bác'. Uyên bác là khả năng hiểu biết sâu rộng trong nhiều lĩnh vực, có khả năng chia sẻ, đóng góp, và giải thích những kiến thức đó cho người khác.
Trong tác phẩm của Nguyễn Tuân, ông thường áp dụng những kiến thức từ nhiều lĩnh vực nghệ thuật, thậm chí cả những lĩnh vực không liên quan đến nghệ thuật để mô tả, khám phá thế giới. Điều này giúp người đọc nhìn nhận hiện thực từ nhiều góc độ và cung cấp cho họ một lượng thông tin phong phú ngoài văn chương.
Trong tác phẩm 'Người lái đò Sông Đà', tác giả sử dụng kiến thức từ nhiều lĩnh vực để mô tả tính cách hung dữ cũng như vẻ đẹp trữ tình của dòng sông:
Đầu tiên là kiến thức từ các lĩnh vực nghệ thuật. Tác giả sử dụng kiến thức từ ngành điện ảnh để mô tả tính hung dữ của con sông; ông mô tả màu nước của sông Đà như một họa sĩ; ông sử dụng kiến thức về kiến trúc, điêu khắc để miêu tả dòng sông nhìn từ trên cao và hình dáng các tảng đá trong lòng sông bởi thiên nhiên đã tạo ra.
Không chỉ dừng lại ở đó, tác giả còn áp dụng kiến thức từ các lĩnh vực không liên quan đến nghệ thuật để mô tả dòng sông. Mặc dù không có liên quan trực tiếp đến nghệ thuật nhưng những kiến thức và ngôn ngữ đó đã làm nên thành công của tác phẩm. Ông sử dụng kiến thức từ địa lý, lịch sử. Đó là khi ông nói về chiều dài của con sông; về tên gọi của sông Đà qua các thời kỳ lịch sử. Các kiến thức về quân sự, võ thuật, thể dục thể thao đã giúp ông thành công trong việc mô tả cảnh chiến trường trên sông Đà với nhiều thuật ngữ của quân sự, võ thuật, thể dục thể thao. Các kiến thức về khí tượng thuỷ văn giúp ông mô tả các con thác và dòng chảy của sông như đoạn 'nước xô đá, đá xô sóng, sóng xô gió' ở quảng ghềnh Hát Loóng. Sự tài năng của Nguyễn Tuân chính là ở đây.
Hoàng Phủ Ngọc Tường sử dụng kiến thức đa dạng từ các lĩnh vực như địa lí, lịch sử, văn hóa để tạo ra hình ảnh của sông Hương, vẻ đẹp tự nhiên của nó được tái hiện thông qua sự sắc bén của một nhà văn trần thuật. Sông Hương được mô tả dựa trên bản chất của nó. Từ dãy Trường Sơn với cấu trúc địa lý phức tạp, dòng chảy trở nên mãnh liệt và cuồn cuộn như 'cơn lốc vào lòng hẻm sâu thăm thẳm'. Khi rời xa Trường Sơn, khi đã trải qua nửa cuộc đời, sông Hương lại chảy về vùng đồng Châu Hóa với dãy núi Tam Thai, Lựu Bảo, đỉnh Hòn Chén, Ngọc Trản, Lương Quán,... dòng sông trở nên dịu dàng hơn với những đường cong uốn khúc. Như một tấm khăn voan mỏng bay trên bầu trời Huế.
Sông Hương là một biểu tượng của thành phố Huế, mang trong mình bản sắc của Huế, như một cô gái Huế duyên dáng, thêm sắc cho vẻ đẹp của Huế. Đối với Huế, sông Hương là tiếng 'vâng' không nói lời của tình yêu, là nàng Kiều trong đêm tình.
Vẻ đẹp văn hoá của sông Hương là kết quả của kiến thức văn hoá về thành phố đầy lịch sử này. Sông Hương tự mang trong mình những đặc điểm văn hoá độc đáo. Tác giả đã mạnh mẽ liên tưởng rằng toàn bộ nền âm nhạc cổ điển Huế đã được sinh ra trên mặt nước của sông này. Sông Hương liên kết với cuộc đời của Nguyễn Du, với cuộc sống của Kiều và những giai điệu Tứ đại cảnh. Và đặc biệt, dòng sông này là nguồn cảm hứng vô tận cho nghệ thuật, không bao giờ bị lặp lại trong cảm hứng của các nghệ sĩ.
Vẻ đẹp lịch sử của sông Hương là kết quả của kiến thức về lịch sử liên quan đến xứ Huế, đất nước... Sông Hương gắn bó với sông Linh Giang hùng vĩ, với thời kỳ của anh hùng Quang Trung, với các sự kiện lịch sử như Cách mạng tháng Tám và Mậu Thân. Sông Hương không chỉ là dòng chảy của quê hương, mà còn là dòng chảy của lịch sử, văn hóa và tình yêu với Huế và con người ở đây.
Ngoài những điểm tương đồng trong phong cách nghệ thuật giữa sông Hương và sông Đà của hai nhà văn, có nhiều điểm khác biệt giữa họ.
Nguyễn Tuân được cảm hứng bởi sự mạnh mẽ và tuyệt vời của tự nhiên, tập trung vào cảm giác mạnh mẽ. Trong 'Người lái đò Sông Đà', ông đã nhìn nhận Sông Đà từ góc độ khắc nghiệt của thiên nhiên để phát hiện tính cách hung bạo của dòng sông.
Sự dữ dội của sông Đà được thể hiện qua đá và nước. Đá tạo ra cảm giác sợ hãi, rợn ngợp trước vẻ đẹp hoang sơ và hiểm trở của thiên nhiên. Nước sông Đà phản ánh sự độc ác qua những cái hút nước giống như cái giếng bê tông. Thác nước biểu hiện sự hung tợn, với âm thanh đáng sợ khiến người ta run sợ.
Sự khắc nghiệt và đẹp đẽ của sông Đà, cũng như Sông Hương, là nguồn cảm hứng sâu sắc cho hai nhà văn này.
Hoàng Phủ Ngọc Tường mang trong mình tâm hồn trữ tình, sự thơ mộng trong văn xuôi. Trong 'Ai đã đặt tên cho dòng sông', ông tạo ra một hình ảnh lãng mạn về Sông Hương, biểu hiện qua nhiều hình tượng khác nhau như cô gái phóng khoáng, người mẹ phù sa, và người đẹp nằm mơ màng giữa cánh đồng Châu Hoá.
Đặc biệt, Hoàng Phủ Ngọc Tường tưởng tượng hành trình của Sông Hương đến Huế giống như một hành trình tìm kiếm tình yêu. Trước khi ra biển, Sông Hương đột ngột thay đổi hướng để trở lại thành phố một lần nữa, giống như Thuý Kiều trở lại gặp Kim Trọng trong đêm tình tự.
Tâm hồn giàu tình cảm và say mê vẻ đẹp của xứ Huế thể hiện rõ trong những tác phẩm của hai nhà văn. Tình yêu sâu đậm đối với xứ Huế là nguồn cảm hứng cho việc khám phá và miêu tả vẻ đẹp của sông Hương.
Hai nhà văn đã biến những dòng sông quê hương thành nguồn cảm hứng cho sự sáng tạo văn học của mình. Họ là những nhà văn tài năng, có tình yêu sâu sắc với đất nước và dân tộc, với phong cách nghệ thuật độc đáo của mình.
Mặc dù có những điểm chung trong sự tài hoa và lòng yêu nước, nhưng Nguyễn Tuân và Hoàng Phủ Ngọc Tường lại có phong cách sáng tạo riêng biệt. Sự duy mỹ và cảm xúc nồng nàn trong viết của họ là điều làm nên sự đặc biệt và đa dạng của văn học dân tộc.
Hai nhà văn đã góp phần quan trọng vào sự phong phú và đa dạng của văn học dân tộc bằng những tác phẩm trữ tình và tinh tế về những dòng sông quê hương.
Bài làm mẫu 2
Nghệ thuật đòi hỏi sự độc đáo, và phong cách văn học là yếu tố quan trọng trong việc định giá tác phẩm và tác giả. Nguyễn Tuân và Hoàng Phủ Ngọc Tường là hai ví dụ điển hình cho điều này.
Phong cách văn học của mỗi nhà văn là nét riêng biệt, độc đáo của họ. Tuy nhiên, dù khác biệt, cả hai vẫn chia sẻ những điểm chung trong việc làm nên phong cách riêng của họ.
Nguyễn Tuân và Hoàng Phủ Ngọc Tường đã sử dụng tri thức đa dạng từ nhiều lĩnh vực khác nhau để mô tả sâu sắc về đời sống và nhân văn trong tác phẩm của họ.
Hoàng Phủ Ngọc Tường đã sử dụng tri thức phong phú về sông Hương để mô tả vẻ đẹp của nó từ nhiều góc độ khác nhau, từ địa lý đến tâm lý nhân vật.
Trong tác phẩm của Hoàng Phủ Ngọc Tường, sông Hương không chỉ là một dòng sông mà còn là biểu tượng cho hành trình tìm kiếm của con người trong cuộc sống.
Ngoài những địa danh nổi tiếng như Hòn Chén, Nguyệt Biều, vọng Canh, Tam Thai, Lưu Bảo, sông Hương còn là nguồn cảm hứng bất tận cho văn hóa và lịch sử Huế. Dòng chảy của nó không chỉ là biểu tượng của sự sống động mà còn là bức tranh lịch sử sống động, ghi dấu mọi biến cố của xứ Huế. Sông Hương, hay còn được gọi là “trang sử thi viết giữa màu cỏ lá xanh biếc”, thật sự là một phần không thể tách rời trong văn hóa và lịch sử của Huế.
Trong bức tranh lịch sử của thành phố Huế, sông Hương là một nhân vật quan trọng, góp phần vào sự vĩ đại của đất nước. Sự hi sinh và cống hiến của dòng sông này đã làm nên những trang sử hào hùng của xứ Huế, từ thời kỳ các vua Hùng đến cuộc kháng chiến chống đế quốc Mỹ. Sông Hương không chỉ là biểu tượng văn hóa mà còn là nguồn cảm hứng cho hàng triệu người dân Việt Nam.
Sông Hương không chỉ là một dòng sông, mà còn là biểu tượng của trữ tình và thi ca. Với những hình ảnh thơ mộng và sâu lắng, sông Hương đã góp phần tạo nên văn hóa và lịch sử đặc biệt của xứ Huế. Những giai điệu cổ điển và bài thơ trữ tình được sáng tác trên dòng sông này đã làm cho Huế trở thành một điểm đến lãng mạn và đầy cảm xúc.
Cuối cùng, cả hai tác giả đều tập trung vào việc sử dụng các kỹ thuật nghệ thuật như so sánh, nhân hóa, trường liên tưởng và tưởng tượng phong phú để miêu tả sự sống động của sông Đà và sông Hương. Bằng cách này, họ đã làm nổi bật các đặc điểm và tính cách của hai dòng sông này, từ sự dữ dằn đến sự trữ tình, từ cảm xúc của con người đến vẻ đẹp của thiên nhiên.
Dù có những điểm tương đồng trong cách sáng tác, Nguyễn Tuân và Hoàng Phủ Ngọc Tường vẫn có những đặc điểm riêng biệt và độc đáo trong việc miêu tả sông Đà và sông Hương. Nguyễn Tuân tập trung vào việc nhân hóa sông Đà, trong khi Hoàng Phủ Ngọc Tường sử dụng phong cách viết kí kết hợp với nghị luận sắc bén để thể hiện vẻ đẹp đa dạng của sông Hương.
Có sự khác biệt trong việc bắt nguồn từ nhiều nguyên nhân, đầu tiên là do yêu cầu của văn chương, mỗi tác giả có một cách riêng để xây dựng danh tiếng cho mình và cho tác phẩm của mình. Cuộc sống không ngừng chảy, văn học là gương phản chiếu của cuộc sống, không thể không phản ánh, diễn giải, đánh giá và dự báo về những yếu tố mới. Phong cách văn học phát sinh từ nhu cầu sáng tạo, bởi vì bản chất của văn học là sự sáng tạo, và đó là yếu tố làm nên sức hấp dẫn và sức sống của văn học và phong cách văn học. Chúng ta có thể nhận biết từng cá nhân tác giả, những đặc điểm độc đáo không lặp lại của họ, cũng như thông qua phong cách nghệ thuật mà ta có thể nhận ra sự phát triển không chỉ của nhà văn mà còn của một dòng văn học. Gương mặt chung của văn học dân tộc, qua các giai đoạn phát triển, Nguyễn Tuân và Hoàng Phủ Ngọc Tường là minh chứng cho điều này. Thực sự, sau khi hiểu rõ hai tác giả kia, không ai có thể nhầm lẫn giữa hai tác phẩm “Người lái đò sông Đà” và “Ai đã đặt tên cho dòng sông”. Cũng như không thể mô tả sông Hương bằng cái dữ dằn của sông Đà, hoặc mô tả sông Đà như sông Hương được.
Tất cả các yếu tố và minh chứng đã cho thấy phong cách viết kí của Nguyễn Tuân và Hoàng Phủ Ngọc Tường. Điều này không chỉ là tài năng và thẩm mỹ mà còn mang lại giá trị độc đáo cho các tác phẩm. Qua đây, ta hiểu thêm về nghệ thuật viết kí của các tác giả, cũng như phải luôn nỗ lực rèn luyện tri thức của bản thân để hiểu và cảm nhận những điều mà tác giả muốn truyền đạt.
Bài làm mẫu 3
Trong thế giới văn chương, phong cách đã trở thành yếu tố không thể thiếu để khẳng định tên tuổi của mỗi nhà văn. Mỗi nhà văn tạo ra một phong cách riêng độc đáo càng để lại ấn tượng sâu sắc hơn trong lòng độc giả. Điều này lại có ý nghĩa quan trọng hơn bao giờ hết. Không ít người đã so sánh Nguyễn Tuân và Hoàng Phủ Ngọc Tường về phong cách viết kí của họ thông qua hai bài kí nổi tiếng “Người lái đò sông Đà” của Nguyễn Tuân và “Ai đã đặt tên cho dòng sông“ của Hoàng Phủ Ngọc Tường.
Phong cách của một tác giả là gì? Và tại sao phong cách lại quan trọng đến vậy? Phong cách của một nhà thơ chân chính là nét độc đáo của nhà văn trong việc phản ánh và diễn đạt cuộc sống qua tất cả các yếu tố từ nội dung đến hình thức. Phong cách riêng là quan trọng vì nó tạo nên cái tôi mạnh mẽ của nhà văn trong lòng độc giả. Một tác giả không có phong cách sáng tạo sẽ dễ bị quên lãng và mất đi sự tồn tại.
Đối với thể loại kí, phong cách của nhà văn có sự khác biệt so với các thể loại khác. Bởi vì kí là sự trần thuật về cuộc sống thực, nên việc tác giả sáng tạo hoặc để lại dấu ấn trở thành một thách thức khi phải đối mặt với yêu cầu hiện thực. Hoàng Phủ Ngọc Tường và Nguyễn Tuân đã thể hiện điều này một cách xuất sắc, cân bằng giữa sự đẹp đẽ của trần thuật và việc mang phong cách riêng vào tác phẩm của họ.
Trong thể loại kí, không ai có thể vượt qua Nguyên Tuân. Trong tác phẩm 'Người lái đò sông Đà', Nguyễn Tuân giống như một thợ kim hoàn cẩn trọng đính từng chữ vàng lên dòng sông xanh ngọc.
'Người lái đò sông Đà' đã chính xác phản ánh quan niệm nghệ thuật của Nguyễn Tuân, luôn khám phá vẻ đẹp văn hóa và thẩm mỹ trong mọi vật, cũng như khám phá tài năng nghệ sĩ trong con người. Trong tay của Nguyễn Tuân, sông Đà không chỉ là một dòng chảy vô tri, mà nó còn trở nên sống động như một sinh vật. Trong con mắt của Nguyễn Tuân, sông Đà đã trở thành một con người, biểu hiện đầy đủ các cảm xúc từ vui vẻ, buồn bã, yêu thương, ghét bỏ, đến tức giận, oán trách, van xin, nhớ nhung, trỗi dậy, và 'tiếng thác nước nghe như là oán trách, sau đó lại như là lời van xin, rồi lại như là sự châm chọc, giọng gần gũi nhưng cũng đầy cười cợt'.
Có lẽ đúng như vậy, ký của Nguyễn Tuân vẫn là trần thuật, nhưng vẫn đầy nghệ thuật và sâu sắc về văn chương. Đối với sông, Nguyễn Tuân tập trung vào việc khai thác vẻ đẹp nghệ thuật, nghệ sĩ của con người, tạo ra hình ảnh rất mạnh mẽ và hùng vĩ trong suốt hành trình qua thác sông Đà. Không chỉ có những người hoạt động trong lĩnh vực nghệ thuật mới có thể tạo ra nghệ thuật. 'Người lái đò sông Đà' trong tác phẩm cũng kết hợp vẻ đẹp của một người nghệ sĩ tài năng, và người lái đò sông Đà trở thành một nhà nghệ thuật lớn.
Trong bối cảnh đối mặt với thủy quái hùng mạnh đang gầm gừ, mạnh mẽ nhưng vẫn giữ được bình tĩnh, không sợ hãi, không dao động, thì không gì tuyệt vời hơn. Bằng cách thông minh đặt con người vào tình huống căng thẳng, nhà văn tài ba 'Người lái đò sông Đà' đã thể hiện những điều tài năng nhất, trí thông minh nhất và nghệ thuật nhất trước mắt độc giả. Phong cách viết kí vừa chân thực về con người, về cuộc sống, vừa truyền đạt nghệ thuật tinh tế như thế này thì không phải của Nguyễn Tuân thì của ai.
Phong cách viết của Nguyễn Tuân trong 'Người lái đò sông Đà' vẫn là sự linh hoạt, khéo léo và đa dạng biểu cảm. Từ ngữ và cấu trúc câu trong tác phẩm này được chọn lọc và sắp xếp một cách tinh tế. Mỗi từ, mỗi câu như được Nguyễn Tuân điêu khắc, điều chỉnh tỉ mỉ. Sự chính xác này khiến cho việc thay đổi hoặc chỉnh sửa trong văn phong trở nên khó khăn. Nguyễn Tuân cũng tạo ra cấu trúc câu phức có ảnh hưởng mạnh mẽ: 'nước sô đá, đá xô sóng, sóng xô gió', kết hợp với miêu tả không đối xứng đã tạo ra những khung cảnh đặc sắc của giàn thạch dưới sông và tư thế mạnh mẽ của người lái đò.
Người ta đã ghi nhận khoảng 300 động từ khác nhau trong bài kí này, điều này cho thấy sự phong phú và đa dạng về ý nghĩa cũng như sắc thái của ngôn từ trong 'Người lái đò sông Đà'. Số lượng và sự chăm chỉ trong việc sáng tạo có lẽ là những điều mà người đọc khó có thể quên khi đọc tác phẩm này.
'Người lái đò sông Đà' thể hiện rõ phong cách viết kí sắc sảo của Nguyễn Tuân, khi sử dụng kiến thức đa dạng từ nhiều lĩnh vực, bao gồm cả quân sự, thể thao, lịch sử, địa lý và điện ảnh. Việc kết hợp miêu tả và cấu trúc câu phức đã tạo ra những hình ảnh sống động và ấn tượng.
Đọc 'Người lái đò sông Đà', với sự rộng lớn kiến thức như vậy, ta bị cuốn hút bởi mạch ký một cách không thể ngừng lại. Nguyễn Tuân đã vượt qua mọi giới hạn, mở rộng tầm nhìn và liên kết mạch lịch sử, khiến cho độc giả có cái nhìn rộng mở, thoải mái và đầy nghệ thuật. Phong cách viết kí của Nguyễn Tuân một lần nữa chinh phục hoàn toàn người đọc.
Phong cách của Nguyễn Tuân đa dạng và độc đáo, làm sao để hiểu được một chút vẻ 'ngọt ngào', một chút 'thơ mộng' của nghệ thuật. Đọc 'Người lái đò sông Đà' là như dừng hơi trước vẻ đẹp tinh tế, cao quý của cảnh vật. Sông Đà trôi dài như một dải tóc dịu dàng, đầu tóc, chân tóc ẩn hiện trong mây trời Tây Bắc, bung nở hoa ban, hoa gạo tháng Hai và muôn vàn khói mù núi mèo thiêu đốt nương xuân. Cỏ xanh trên đồi núi đang ra non búp. Một đàn hươu cúi đầu ngốn búp cỏ gianh đầy xương đêm. Bờ sông trong lành như một nỗi niềm cổ tích.
Ngôn ngữ và phong cách viết của Nguyễn Tuân có thể mơ mộng, trữ tình tới như vậy. Đọc những câu văn thấm đậm chất thơ, khiến cho tâm hồn thổn thức vấn vương. Thông qua bút phú của Nguyễn Tuân, thể loại viết kí không còn lạnh nhạt, nhàm chán. Viết kí với Nguyễn Tuân là vừa ghi nhận hiện thực, vừa cảm nhận có một cách rất riêng. Tới đây không thể phủ nhận gì nữa, chất trữ tình kết hợp trong ngòi bút Nguyễn Tuân tạo nên dư vị thật khó quên cho người lái đò sông Đà. Phong cách viết của Nguyễn Tuân được phản ánh rõ từ đây, phong cách ấy độc đáo cũng từ đây mà được định hình.
Ai đã đặt tên cho dòng sông cũng là một bài lí xuất sắc. Tác phẩm quy tụ đầy đủ những tinh hoa trong gòi bút viết kí của Hoàng Phủ Ngọc Tường từ nội dung đến hình thức nghệ thuật. Trước hết cần khẳng định rằng đây thực là một bài Ký có sự hòa quyện hài hòa giữa chất trí tuệ và chất thơ. Nói “Ai đã đặt tên cho dòng sông” sở hữu vẻ đẹp của trí tuệ, bởi trong suốt những trang viết kí của bài kí người đọc như lạc vào dòng trí thức miên man của thể loại kí về dòng sông Hương gắn liền với xứ Huế thân thương. Bút phú Hoàng Phủ Ngọc Tường có khả năng huy động kiến thức từ nhiều lĩnh vực khác nhau của đời sống, để làm sáng tỏ vẻ đẹp của sông Hương.
Đọc ký của Hoàng Phủ Ngọc Tường người đọc rất tự nhiên, được tiếp thêm những thông tin tri thức, khách quan về thủy trình của sông Hương, suốt từ vùng thượng nguồn. “Nó đã là một bản trường ca của rừng già, rầm rộ giữa bóng cây bạt ngàn, mãnh liệt qua những ghềnh khác, cuộn xoáy như cơn lốc vào những đáy vực bí ẩn”, tới khi sông Hương lộ vẻ yêu kiều, thì về đồng bằng sông Hương đã chuyển động một cách liên tục, khúc quanh đột ngột, uốn mình theo những đường cong thật mềm. Khi vào giữa lòng thành phố Huế, sông Hương bỗng trở nên thẹn thùng đến lạ. Nó “kéo một nét thẳng thực yên tâm theo hướng Tây Nam, Đông Bắc”, sau đó đột ngột đổi dòng rẽ ngoặt sang hướng Đông Tây để gặp lại thành phố ở góc trấn Bảo Vinh cổ xưa”.
Tri thức trong ký của nhà văn lồng ghép tự nhiên, phù hợp với mạch ký trở nên hài hòa, đậm nét trí tuệ. Chưa hết Hoàng Phủ Ngọc Tường còn cung cấp cho người những tri thức về lịch sử của dòng sông, qua mạch văn rất nhuần nhị. Thì ra Hương không chỉ “nhu mì hiền thục” và còn trở thành một chứng minh lịch sử mang theo khí phách hào hùng của một thời oanh liệt. Đây, chính là nơi đây đã phải chịu biết bao tổn thương suốt những năm tháng kháng chiến, dòng sông quanh co, uốn lượn lai đang oằn mình vì đau thương. Bất giác đọc những trích đoạn như thế này người đọc như cảm nhận, hình dung ra cả một thời lịch sử huy hoàng.
Thế mới nói chất trí tuệ như đọng trên từng dòng ký của Hoàng Phủ Ngọc Tường. Nhưng hay là ở chỗ Hoàng Phủ Ngọc Tường đem đến cho “Ai đã đặt tên cho dòng sông” không chỉ là vốn tri thức, mà còn là chất trữ tình miên man trong giọng văn tinh tế hướng nội. Có thể nói ngoại trừ khi miêu tả về dòng sông Hương phía thượng nguồn, thì trong cả bài kí không có một câu nào là vội vã, mãnh liệt, gào thét, giọng điệu của Hoàng Phủ Ngọc Tường thực rất nhẹ nhàng, nho nhã, thanh tao. “Người tình mong đợi mới đến đánh thức người gái đẹp nằm ngủ mơ màng giữa cánh đồng châu hóa đầy hoa dại”. Cũng chính nhờ chút ngọt thanh, thơ mộng này đan xen với vốn hiểu biết phong phú của tác giả, mà ký của Hoàng Phủ Ngọc Tường tìm được chỗ đứng riêng trong nền văn học Việt Nam.
Kí của Hoàng Phủ Ngọc Tường kết hợp hài hòa giữa nghị luận sắc bén và suy tư đa chiều, trong đó tác giả gọi Sông Hương bằng nhiều cái tên như “Bản trường ca của rừng già, cô gái di gan man dại và phóng khoáng, người mẹ phù sa của một vùng văn hóa xứ sở, người tài nữ đánh đàn khúc đêm khuya”. Chất nghị luận sắc bén là vậy, còn suy tư đa chiều thì tác giả nhìn sông Hương từ nhiều góc độ khác nhau như lịch sử, địa lý, âm nhạc, văn hóa, thi ca trên Sông Hương hiện lên rất cụ thể, sống thực, tỏa sáng ở nhiều khía cạnh. Nhận định “Ai đã đặt tên cho dòng sông” là một tác phẩm kí kết hợp tài tình giữa nghị luận sắc bén và suy tư đa chiều là hoàn toàn đúng đắn.
Kí của Hoàng Phủ Ngọc Tường hút hồn độc giả bởi hình thức nghệ thuật độc đáo, sử dụng đa dạng các biện pháp nghệ thuật, đặc biệt nhân hóa, so sánh một cách triệt để, kết quả là Sông Hương hiện lên giống như một con người hay kiều nữ e thẹn, dịu dàng, duyên dáng, “từ đây như đã tìm đúng đường về Sông Hương vui tươi hẳn lên giữa những biền bãi xanh biếc của vùng ngoại ô Kim Long, kéo một nét thẳng thực yên tâm theo hướng Tây Nam, Đông Bắc”.
Chi tiết Hoàng Phủ Ngọc Tường so sánh dòng chảy của Sông Hương với dòng chảy của Sông Phủ để nổi bật điểm khác biệt hút hồn rất con người của Sông Hương và hàng loạt yếu tố khác. Câu phức giọng điệu, cách miêu tả trùng lập khẳng định chất kí đặc sắc của Hoàng Phủ Ngọc Tường.
Nhìn chung, cả Nguyễn Tuân và Hoàng Phủ Ngọc Tường khi đặt bút viết kí ý tưởng được yêu cầu của thể kí, người thực, việc thực. Thêm vào đó, để gia công thêm cho tác phẩm của mình, cả hai nhà văn đều huy động tổng lực vốn ngôn ngữ đồ số, kết hợp kiến thức của nhiều ngành, nhiều lĩnh vực. Viết về hai con sông khác nhau nhưng cả Nguyễn Tuân và Hoàng Phủ Ngọc Tường đều không bỏ qua góc nhìn trữ tình, thơ mộng.
Đan xen những biện pháp nghệ thuật khéo léo, tinh vi càng như lôi cuốn hấp dẫn người đọc. Ký của Hoàng Phủ Ngọc Tường và Nguyễn Tuân không thể gộp chung là một, vì hai tác giả còn có những điểm sáng riêng được thể hiện theo một cách rất riêng. Nguyễn Tuân lập luận, khai thác nét đẹp của con người bằng phương diện thẩm mỹ nghệ thuật, tác giả khám phá và đặt ở góc độ văn hóa thanh tao khiến cho bài kí hiện lên đẹp đẽ, thấm đẫm văn phong nghệ thuật. Trong bài kí của Hoàng Phủ Ngọc Tường ,người ta kính phục cái sắc bén của lập luận và cái nhẹ nhàng êm đềm lãng tử.
Để tạo lập phong cách cá nhân, mỗi tác giả phải lựa chọn một cách thể hiện mới mẻ, hài hòa về nội dung và hình thức. Điều này không chỉ là vấn đề lý luận mà còn là vấn đề sống còn của mỗi cây bút. Nguyễn Tuân và Hoàng Phủ Ngọc Tường đều là những bậc thầy của thế kỉ trong việc này. Khó mà tìm ra câu trả lời cho việc ai có phong cách viết kí tuyệt vời hơn, khi cả hai đều xuất sắc như nhau.
Với “Người lái đò sông Đà” và “Ai đã đặt tên cho dòng sông”, chúng ta trân trọng đóng góp của Hoàng Phủ Ngọc Tường cũng như Nguyễn Tuân cho thể ký và văn học Việt Nam. Độc giả không thể không thưởng thức những tác phẩm tuyệt vời về cả nội dung lẫn hình thức của họ. Thành công của hai nhà văn đã tạo ra một vấn đề lớn: viết văn phải có phong cách riêng, sự sáng tạo, vốn từ phong phú, khả năng thụ cảm tinh tế và trái tim yêu nghệ thuật chân thành.