Mytour giới thiệu Mẫu văn lớp 6: Kể lại một câu chuyện cổ tích, từ tập sách Chân trời sáng tạo.
Tài liệu gồm 2 dàn ý và 12 bài văn lớp 6. Hãy cùng theo dõi nội dung chi tiết được đăng tải ngay dưới đây.
Sơ đồ tư duy
Dàn ý kể một truyện cổ tích
Dàn ý tóm tắt
1. Bắt đầu
Giới thiệu về truyện cổ tích: tên truyện và lí do muốn kể chuyện.
2. Nội dung chính
- Giới thiệu về các nhân vật và bối cảnh xảy ra câu chuyện.
- Kể lại các sự kiện theo thứ tự thời gian:
- Sự kiện 1:
- Sự kiện 2
- Sự kiện 3
- Sự kiện 4:
…
3. Phần kết
Tóm tắt ý kiến về câu chuyện vừa được kể.
Chi tiết dàn ý
1. Bắt đầu
Hướng dẫn và giới thiệu về câu chuyện cổ tích mà em sẽ kể.
Gợi ý: Trong kho truyện cổ tích, có rất nhiều câu chuyện đặc sắc. Một trong những câu chuyện đáng chú ý là truyện cổ tích Sọ Dừa.
2. Phần chính
Mô tả diễn biến của câu chuyện với các sự kiện diễn ra theo trình tự sau đây:
Gợi ý:
- Tại một ngôi làng nọ, sống một cặp vợ chồng nghèo đi làm giúp cho gia đình người phú ông. Họ là những người tốt bụng, siêng năng nhưng đã trên năm mươi tuổi mà vẫn chưa có con.
- Một ngày, bà vợ đi rừng lấy củi, khát nước mà không thấy suối. Bà thấy một quả sọ dừa đang đựng đầy nước mưa dưới gốc cây nên lấy lên uống.
- Sau khi về nhà, bà đã chia sẻ. Không lâu sau, ông chồng qua đời. Bà sinh ra một đứa bé không tay không chân, tròn như một quả dừa. Ban đầu, bà muốn từ bỏ nhưng đứa bé lại khẳng định mình là con người. Thương con, bà quyết định nuôi và đặt tên cho nó là Sọ Dừa.
- Sọ Dừa lớn lên, vẫn giống như lúc nhỏ. Thấy mẹ lo lắng không biết làm gì, Sọ Dừa quyết định đi chăn bò thuê ở nhà ông phú ông.
- Đến mùa gặt, Sọ Dừa giúp việc đồng ruộng. Ba cô con gái của gia đình phú ông lần lượt đưa cơm cho Sọ Dừa. Trong số đó, hai chị tỏ ra khinh thường, chỉ có em út thể hiện sự tử tế với Sọ Dừa.
- Khi mùa ở kết thúc, Sọ Dừa yêu cầu mẹ mang lễ vật đến nhà phú ông để cầu hỏi con gái ông.
- Phú ông đặt ra điều kiện cưới rất khắc nghiệt. Bà mẹ trở về và nói với con, nghĩ rằng con sẽ từ bỏ ý định cưới. Nhưng Sọ Dừa nhấn mạnh rằng mẹ hãy yên tâm.
- Đến ngày hẹn, bà mẹ rất ngạc nhiên khi nhận thấy nhà phú ông đã chuẩn bị đầy đủ lễ vật theo yêu cầu.
- Trong buổi lễ, mọi người không thấy Sọ Dừa. Một chàng trai điển trai xuất hiện. Mọi người đều bất ngờ và vui mừng, chỉ có hai chị gái cảm thấy tiếc nuối và ghen tức.
- Sọ Dừa và vợ sống hạnh phúc. Nhờ sự siêng năng trong học hành, Sọ Dừa đỗ trạng nguyên và được vua cử đi sứ.
- Trước khi chia tay, Sọ Dừa tặng vợ một hòn đá lửa, một con dao và hai quả trứng gà, nhắc nhở phải luôn mang theo để sử dụng khi cần.
- Có dịp, họ âm mưu, dụ em gái ra biển chơi, sau đó đẩy cô xuống nước. Nhờ những vật mà Sọ Dừa đã tặng, cô em thoát chết, sống sót trên hòn đảo hoang.
- Hai vợ chồng Sọ Dừa gặp lại nhau, trở về hạnh phúc. Còn hai cô chị thì trốn đi xa.
3. Kết bài
Nhấn mạnh lại ý nghĩa của câu chuyện cổ tích đã kể.
Gợi ý: Truyện Sọ Dừa đã để lại dấu ấn sâu sắc trong lòng người đọc với hình ảnh một chàng Sọ Dừa thông minh, tốt bụng. Ngoài ra, câu chuyện cũng tôn vinh tấm lòng nhân ái và lòng biết ơn đối với những người tốt lành và niềm thương cảm với những người gặp khó khăn.
Kể lại truyện cổ tích - Sọ Dừa
Bài văn mẫu số 1
Trong kho truyện cổ tích, có rất nhiều câu chuyện đặc sắc. Trong số đó, truyện Sọ Dừa là một trong những tác phẩm nổi bật.
Ngày xưa, có hai vợ chồng nông dân nghèo sống ở nhà phú ông. Họ làm việc chăm chỉ, hiền lành nhưng suốt năm mươi năm vẫn chưa có con. Một hôm, người vợ đi rừng hái củi. Trời nắng gắt, khát nước mà bà không tìm thấy suối. Bỗng bên gốc cây to bà thấy một cái sọ dừa đầy nước mưa, bà vội uống để giải khát. Về nhà, bà mang theo.
Không bao lâu sau đó, người chồng qua đời. Bà sinh ra một đứa con không có cánh tay chân, hình dạng tròn trĩnh như quả dừa. Bà rất buồn, suy nghĩ định vứt bỏ nó nhưng đứa bé bèn nói:
- Mẹ ơi! Con là người mà! Đừng bỏ rơi con mẹ ơi, thương con mẹ nhé.
Vì lòng thương con, bà quyết định nuôi con và đặt tên là Sọ Dừa. Sọ Dừa lớn lên vẫn giống như lúc mới sinh, tròn trĩnh trong nhà. Bà nói với con một cách buồn rầu:
- Các con nhà người ta bây giờ tám tuổi đã ra đồng chăn bò, còn con chẳng có tiếng tăm gì cả.
Sọ Dừa đáp lại mẹ:
- Chuyện gì đâu, chăn bò con cũng làm được. Mẹ hãy xin phú ông để con đi chăn bò.
Nghe con nói, bà quyết định đến hỏi phú ông. Ban đầu, phú ông có chút do dự vì hình dạng của Sọ Dừa, nhưng suy nghĩ rằng nuôi ít tốn cơm, công chăn bò cũng ít nên ông đã đồng ý.
Từ đó, Sọ Dừa đến ở nhà phú ông và làm công việc chăn bò rất giỏi. Mỗi ngày, cậu dắt đàn bò ra đồng, tối về cũng dắt đàn bò về nhà, đàn bò đã trở nên béo tốt hơn. Phú ông vô cùng hài lòng.
Vào mùa gặt, tôi tớ làm việc hết sức, phú ông giao ba cô con gái đem cơm cho Sọ Dừa. Hai cô chị ích kỷ, thường xuyên hắt hủi Sọ Dừa. Chỉ có cô em út hiền lành, luôn đối xử tốt với Sọ Dừa.
Một ngày, khi cô em út mang cơm cho Sọ Dừa như thường, từ xa, cô nghe thấy tiếng sáo nhẹ nhàng. Cô lặng lẽ đến gần và nhìn thấy một chàng trai tuấn tú đang ngồi trên võng thổi sáo cho đàn bò. Tuy nhiên khi nghe tiếng động, chàng trai biến mất, chỉ thấy Sọ Dừa nằm đó. Sau nhiều lần như vậy, cô em út nhận ra Sọ Dừa không phải là người bình thường, từ đó cô dần phải lòng và luôn chia sẻ thức ăn ngon nhất cho Sọ Dừa.
Khi mùa ở kết thúc, Sọ Dừa trở về và thúc giục mẹ đi cầu hỏi con gái của phú ông làm vợ. Bà lão rất ngạc nhiên, nhưng khi thấy con con năn nỉ mãi, bà cũng chịu lòng.
Mẹ Sọ Dừa đến gặp phú ông, nhưng phú ông chỉ cười mỉa mai nói:
- Nếu muốn hỏi con gái ta, hãy về và chuẩn bị đủ một chĩnh vàng cốm, mười tấm lụa đào, mười con lợn béo, mười vò rượu tăm mang sang đây.
Sau khi bà cụ trở về, bà nghĩ rằng con mình sẽ từ bỏ ý định. Nhưng Sọ Dừa lại nói với mẹ rằng, hãy yên tâm, mình sẽ sắm đủ lễ vật. Bà cụ vừa tin vừa ngờ. Đến ngày hẹn, bà rất ngạc nhiên khi trong nhà có đủ những lễ vật mà phú ông yêu cầu, thậm chí còn có mười cô gái đẹp đẽ mang theo sính lễ sang nhà phú ông. Phú ông vô cùng phấn khích, nói với bà cụ:
- Để ta hỏi con gái, xem có ai đồng ý lấy Sọ Dừa không đã?
Hai cô chị trách móc Sọ Dừa xấu xí, chỉ có cô em út là nể phục. Phú ông chấp nhận lễ vật và đưa cô em út cho Sọ Dừa.
Trong ngày cưới, Sọ Dừa đã chuẩn bị một bàn tiệc hoành tráng, gia đình và bạn bè đến thăm rất đông đúc. Khi rước dâu, không ai nhận ra Sọ Dừa là một chàng trai xấu xí, chỉ thấy một chàng trai tuấn tú đứng bên cô em út. Mọi người đều ngạc nhiên và vui mừng, chỉ có hai cô chị vừa tiếc nuối vừa ghen tức.
Hai vợ chồng sống hạnh phúc, Sọ Dừa rất thông minh, học hành miệt mài và thi đỗ trạng nguyên. Không lâu sau, nhà vua sai chàng đi sứ. Trước khi ra đi, chàng đưa cho vợ một hòn đá lửa, một con dao và hai quả trứng gà, nhắc nhở phải mang theo bên mình để cần dùng đến.
Ganh tị với em, hai cô chị khi Sọ Dừa không có nhà, âm thầm muốn giết em để thay thế bà Trạng. Hai cô chị đến thăm, dụ dỗ em ra biển rồi đẩy em xuống nước. Một con cá kình lớn nuốt cô em. Nhờ có con dao, cô đâm chết cá, xác cá trôi vào bờ một hòn đảo. Cô sử dụng đá bật lửa, nướng cá sống để chờ được cứu. Sống trên đảo vài ngày, hai quả trứng nở ra hai con gà đẹp, làm bạn với cô.
Một ngày, khi có chiếc thuyền đi ngang qua đảo, con gà trống nhìn thấy thì gáy ba lần:
- Ò… ó… o… Quan trạng ơi, hãy dẫn thuyền đến đón cô tôi về.
Khi quan trạng đưa thuyền đến, hai vợ chồng gặp nhau, vui mừng và xúc động. Về nhà, quan trạng mở tiệc mừng, mời bà con đến chia vui, nhưng giấu vợ trong nhà không cho ai biết. Hai cô chị háo hức mừng rỡ, cùng nhau kể chuyện về cô em út, thể hiện sự thương tiếc. Quan trạng im lặng, chỉ khi tiệc kết thúc mới đưa vợ ra ngoài. Hai cô chị nhìn thấy cô em, xấu hổ và áy náy, lén rời đi và từ đó biến mất.
Truyện Sọ Dừa đã để lại dấu ấn sâu sắc trong lòng độc giả về một chàng trai thông minh, tốt bụng. Nó cũng thể hiện lòng nhân ái và sự đồng cảm với những người hiền lành và bất hạnh. Đây là câu chuyện mà tôi ưa thích nhất.
Bài văn mẫu số 2
Ngày xửa ngày xưa, có hai vợ chồng nông dân hiền lành, chăm chỉ nhưng đã qua tuổi năm mươi vẫn chưa có con. Một ngày, trời nắng chang chang, người vợ đi rừng hái củi cho chủ, khát nước không thấy suối. Bà nhìn thấy một cái sọ dừa dưới gốc cây đựng nước mưa, bà uống và mang về. Không lâu sau đó, bà sinh ra một đứa bé không chân không tay, nhưng biết nói. Bà muốn vứt đi, nhưng đứa bé lại nói:
- Mẹ ơi, con chính là con của mẹ đây! Mẹ đừng vứt con đi, con thật đáng thương.
Thương con, bà lão quyết định giữ lại nuôi dưỡng. Lớn lên, Sọ Dừa xin mẹ cho đi làm người chăn bò ở nhà phú ông. Cậu làm việc rất giỏi, bò mập năng suất cao. Nhà phú ông có ba cô con gái thay phiên nhau mang cơm cho Sọ Dừa. Hai cô chị cả kiêu ngạo, chỉ có cô út hiền lành và tử tế với Sọ Dừa. Một hôm, như mọi khi, cô út mang cơm cho Sọ Dừa. Từ xa, cô nghe tiếng sáo êm đềm vang lên. Cô lén lút nấp sau bụi cây, nhìn thấy một chàng trai tuấn tú ngồi trên võng đào thổi sáo cho đàn bò gặm cỏ. Nhưng khi cô lại gần, chàng trai biến mất, chỉ còn Sọ Dừa nằm yên. Cô út dần nhận ra Sọ Dừa không phải là người bình thường, từ đó cô dành tình cảm và chia sẻ thức ăn ngon với cậu.
Cuối mùa, Sọ Dừa yêu cầu mẹ đi hỏi con gái phú ông làm vợ. Bà mẹ nghe con nói, vì yêu thương con nên đã đến nhà phú ông hỏi cưới. Phú ông khi nghe bà lão nói, mỉm cười và nói:
- Muốn cưới con gái ta, phải mang đủ một chĩnh vàng cốm, mười tấm lụa đào, mười con lợn béo, mười vò rượu tăm đến.
Bà lão quay về nhà, kể lại cho con nghe. Sọ Dừa an ủi mẹ rằng hãy yên tâm. Đến ngày cưới, Sọ Dừa đã chuẩn bị đủ lễ vật cho mẹ mang đến nhà phú ông. Lúc rước dâu, không ai thấy Sọ Dừa, chỉ thấy một chàng trai tuấn tú đứng bên cô út. Mọi người đều bất ngờ và hạnh phúc, chỉ hai cô chị vừa tiếc nuối vừa ghen tức.
Cuộc sống của hai vợ chồng Sọ Dừa vô cùng hạnh phúc. Sọ Dừa chăm chỉ học hành và thành công trong kỳ thi trạng nguyên, được vua chọn làm sứ giả. Trong thời gian đó, hai cô chị ghen tức, âm mưu hại em gái. Họ dụ em ra biển chơi, rồi đẩy em xuống nước. Cô em út bị một con cá kình nuốt vào bụng. May mắn có con dao mà Sọ Dừa đưa cho, cô đã cứu mình và sống sót trên hòn đảo hoang.
Một ngày nọ, khi có một chiếc thuyền đi qua đảo, con gà trống kêu to:
- Ò ó o… phải thuyền quan trạng rước em về.
Quan trạng nhìn thấy vậy, đưa thuyền vào đảo. Hai vợ chồng gặp nhau, mừng vui hạnh phúc. Đưa vợ về nhà nhưng không để ai biết, quan trạng tổ chức tiệc mừng với bà con nhưng không tiết lộ về việc vợ ở trong nhà. Hai cô chị vui mừng, kể chuyện về em gái và tỏ vẻ thương tiếc. Quan trạng im lặng, chỉ dẫn vợ ra khi tiệc kết thúc. Hai cô chị nhìn thấy em, xấu hổ quá, lén rời đi và không trở lại.
Kể lại một câu chuyện cổ tích - Tấm Cám
Đoạn văn mẫu số 1
Từ ngày xưa, tôi đã nghe nhiều câu chuyện cổ tích được kể bởi bà và mẹ. Đến nay, tôi vẫn mãi yêu thích và nhớ về câu chuyện cổ tích Tấm Cám.
Câu chuyện kể về hai chị em Tấm và Cám. Cha mất sớm, Tấm phải sống cùng với dì ghẻ. Mọi công việc, từ việc làm nhà đến việc làm ruộng, đều do Tấm đảm đương.
Một ngày, dì ghẻ đưa hai chị em mỗi người một cái giỏ và bảo họ ra đồng bắt con tôm, cái tép. Dì hứa rằng:
- Nếu ai bắt được đầy giỏ thì sẽ được thưởng một cái yếm đỏ.
Tấm vốn làm việc mò cua bắt ốc nên chỉ trong một buổi đã đầy giỏ cá tép. Trong khi đó, Cám lại chỉ biết chơi, đến cuối buổi vẫn chưa bắt được gì. Cám lập tức nói với Tấm:
- Chị Tấm ơi, chị ơi! Chị cẩn thận, chị hụp cho sâu, chứ về rồi mẹ mắng.
Tấm tin ngay, liền xuống ao để ra chỗ sâu tắm rửa. Lợi dụng lúc đó, Cám đã đổ hết tép của Tấm vào giỏ của mình rồi vội vã về trước để nhận chiếc yếm đỏ. Tấm lên bờ nhìn thấy giỏ không có cá, sợ về nhà bị dì ghẻ mắng liền ngồi khóc. Bụt hiện ra hướng Tấm nhìn vào giỏ xem còn gì không, thì trong đó còn một con cá bống. Bụt bảo Tấm đem cá về nuôi, khi cho ăn thì gọi:
“Bống bống bang bang
Lên ăn cơm vàng cơm bạc nhà ta
Chớ ăn cơm hẩm cháo hoa nhà người”
Từ đó, sau mỗi bữa ăn, Cám thấy Tấm để dành một phần cơm. Thấy kỳ lạ, Cám kể cho mẹ biết. Hai mẹ con giấu kín quan sát, phát hiện ra Tấm đang nuôi một con cá bống. Khi nghe lời Tấm gọi, con cá bống lại ngoi lên mặt nước để nhận những hạt cơm được ném xuống. Biết chuyện, dì ghẻ gọi Tấm lại và bảo cô ấy sáng mai dậy sớm đi chăn trâu, và nhắc nhở:
- Con ơi, ngày mai làng đã bắt đầu cấm chăn trâu ở đồng rồi đấy. Mai con đi chăn trâu, phải chăn ở đồng xa, chớ chăn ở đồng nhà, làng sẽ lấy mất trâu.
Tấm không có mảy may, sáng hôm sau liền đưa trâu đi chăn thật xa. Ở nhà, mẹ con Cám liền ra giếng, gọi y hệt lời Tấm. Con cá bống hiện ra, hai mẹ con Cám liền bắt lấy nó rồi đem giết thịt.
Ít lâu sau, nhà vua mở hội luôn mấy đêm. Người già trẻ trai gái các làng đều nô nức đi xem. Hai mẹ Cám cũng sắm sửa quần áo đẹp để đi tham dự. Thấy Tấm cũng muốn đi, dì ghẻ liền lấy một thúng gạo và một thúng thóc, rồi bảo chị:
- Con nhặt hết chỗ gạo này rồi mới đi đâu khác, đừng có bỏ dở, về không có gì để thổi cơm dì đánh đó.
Một thời gian sau, nhà vua mời tất cả phụ nữ đi xem hội đến ướm thử giày. Và nếu ai vừa với chiếc giày thì vua sẽ lấy làm vợ. Cám cũng thử nhưng không vừa. Khi nhìn thấy Tấm từ xa, Cám liền nói với mẹ:
- Mẹ ơi, dường như chị Tấm nhà mình cũng đã thử giày ấy!
Dì ghẻ liền méo mặt, bảo:
- Chuông khánh cũng chẳng ăn được ai. Nữa là mảnh chĩnh vứt ra ngoài bờ tre.
Nhưng khi Tấm đặt chân vào giày thì vừa vặn hoàn hảo. Tấm còn lấy ra một chiếc giày khác giống y hệt. Thế là, nàng được vua đón vào cung làm hoàng hậu.
Mặc dù sống trong cung điện, Tấm không quên ngày giỗ cha. Nhân dịp đó, mẹ con Cám âm mưu hại Tấm:
- Đây là lúc con quen trèo cau, con hãy trèo lên đó và lấy một buồng để cúng bố.
Tấm nghe lời mẹ, trèo lên cây. Khi thấy cây rung lắc, nàng hỏi:
- Dì đang làm gì dưới gốc cây thế?
- Gốc cau có nhiều kiến, dì đang đuổi chúng đi để chúng không cắn con.
Tấm chưa kịp xé cau thì cây đã đổ, ngã xuống ao và chết. Dì ghẻ đưa Cám vào hoàng cung để thay thế cho Tấm.
Một ngày kia, Cám đang ngồi giặt áo cho vua bên cạnh giếng, thì một con chim vàng anh từ đâu bay đến và đậu trên một cành cây, kêu lên:
- Phơi áo trên sàn, phơi quần trên sào, nhưng đừng phơi trên hàng rào, vì sợ áo sẽ bị rách.
Sau đó, con chim vàng anh bay thẳng vào cung điện và đậu ở cửa sổ, hót vang rất vui tai. Dù vua ở đâu, chim cũng theo đến đó. Nhà vua rất yêu quý con chim vàng anh, thậm chí quên cả việc ăn ngủ. Cám vội chạy về nhà báo tin cho mẹ. Dì ghẻ đề nghị Cám nên giết chim để ăn, sau đó tìm cách nói dối vua. Trở lại cung điện, khi vua đi ra ngoài, Cám giết chim và nấu ăn, sau đó vứt lông chim ra ngoài vườn. Khi vua hỏi về sự mất mát của chim, Cám đáp rằng:
- Tôi thèm ăn thịt chim, nên đã bắt chim để giết và ăn mất rồi ạ.
Vua không nói gì. Điều đặc biệt là từ chỗ lông chim rơi xuống đã mọc lên một cây đào, lá xanh tươi, tạo ra bóng mát dễ chịu. Vua cho treo võng dưới cây, mỗi ngày ngài nằm dưới đó để nghỉ ngơi. Cám tỏ ra tức giận, đã gửi thợ đến chặt cây. Khi vua hỏi về việc này, tôi đã nói dối rằng:
- Do cây bị đổ trong cơn bão, tôi đã gửi thợ đến chặt để làm khung cửi, từ đó dệt áo cho bệ hạ.
Sau khi hoàn thành việc làm khung cửi, Cám ngồi vào dệt áo thì nghe thấy tiếng kêu vang lên:
“Dây cái dây con
Lấy tranh chồng em,
Em khoét mắt ra”
Cám rất sợ hãi, ngay lập tức trở về nhà để báo cho mẹ. Dì ghẻ khuyên Cám nên đốt sạch khung cửi và mang tro đi đổ xa để yên tâm. Cám đã sai người đốt sạch khung cửi và mang tro đi đổ rất xa khỏi hoàng cung.
Từ đống tro đã cháy mọc lên một cây thị, chỉ có một quả thị duy nhất trên cây. Một ngày kia, một bà lão đi qua thấy quả thị và nói:
- Quả ơi, rơi xuống để bà nhặt, bà sẽ ngửi thử, nhưng bà sẽ không ăn.
Quả thị liền rơi xuống trúng vào bà. Ngay khi bà kết thúc lời nói, quả thị rơi xuống. Kỳ lạ là từ đó, mỗi khi bà đi chợ về, nhà cửa của bà đều trở nên sạch sẽ, cơm nước thì luôn đầy đủ. Bà quyết tâm quan sát xem có điều gì kỳ lạ đang diễn ra. Cuối cùng, bà phát hiện một cô gái bí mật chui ra từ quả thị. Bà lão liền tiến lại gần và bóp nát vỏ quả thị. Từ đó, Tấm sống cùng bà trong hàng nước. Một ngày nọ, khi nhà vua đi ngang qua, ông thấy miếng trầu bằng gỗ có hình ảnh cánh phượng giống như của Tấm, ông liền hỏi bà lão về điều này. Tấm và nhà vua đã gặp nhau trở lại.
Tiếp tục câu chuyện về Cám, sau khi thấy Tấm trở về trở nên xinh đẹp hơn, vua yêu quý cô hơn. Cám đến hỏi chị:
- Chị Tấm ơi, chị có bí quyết gì để trở nên xinh đẹp như vậy không?
Thay vì trả lời, chị Tấm chỉ đưa ra một câu hỏi:
- Muốn được đẹp như chị không? Chị sẽ giúp bạn.
Cám nghe theo lời khuyên của chị Tấm. Thấy chị chỉ sai người đào một cái hố sâu và bảo Cám xuống đó, Cám không do dự, lập tức bước xuống và chết đuối.
Thông qua câu chuyện về Tấm Cám, nhân dân ta đã truyền đi thông điệp về công bằng, sự thiện chiến thắng ác. Tấm, cô gái hiền lành, cuối cùng được sống hạnh phúc bên vua, trong khi mẹ con Cám, người tàn ác, phải chịu trừng phạt.
Bài văn mẫu số 2
Tấm và Cám là hai chị em, con của cha khác mẹ. Ban đầu được mẹ nuông chiều, Cám không phải làm bất kỳ công việc nào. Trong khi đó, Tấm phải làm việc từ sáng đến tối mà vẫn chưa xong.
Một ngày nọ, mẹ gọi cả hai chị em lại và đưa cho mỗi người một cái giỏ, nói:
- Nếu ai trong hai con bắt được đầy giỏ tôm tép sẽ được thưởng một chiếc yếm đào.
Hai chị em đi ra đồng. Tấm làm việc chăm chỉ và quen tay nên chỉ trong thời gian ngắn giỏ của cô đã đầy tôm tép. Trong khi đó, Cám, do mải chơi, đến cuối buổi vẫn chẳng bắt được gì. Cám chạy lại và nói với Tấm:
- Chị Tấm ơi! Đầu chị lấm, chị hụp cho sâu kẻo về mẹ mắng.
Tấm tin lời và liền hụp xuống ao sâu để rửa sạch. Cám thấy cơ hội và trút hết tôm tép từ giỏ của Tấm sang giỏ của mình, sau đó chạy về mách mẹ để lấy yếm đào. Trong khi đó, Tấm ở dưới ao, nhìn vào giỏ trống trơn, liền ngồi khóc. Bụt hiện ra và bảo Tấm kiểm tra giỏ. Trong đó, cô thấy một chú cá bống nhỏ. Bụt khuyên cô đem cá về và nuôi, mỗi khi cho ăn, cô gọi:
“Bống bống bang bang
Lên ăn cơm vàng cơm bạc nhà ta
Chớ ăn cơm hẩm cháo hoa nhà người”
Từ đó, Tấm thường giấu một phần cơm mang ra nuôi cá. Cám, tò mò, quyết định đi mách mẹ. Dì ghẻ dùng lời rủi ro làng đã cấm đồng để ép Tấm chăn trâu ở xa. Ở nhà, mẹ con Cám đã giết cá bống để nấu ăn. Nhưng mỗi ngày, Tấm không thấy cá bống đến. Bụt xuất hiện và hướng dẫn cô tìm xương của cá và chôn vào bốn chiếc lọ dưới chân giường. Nhờ sự giúp đỡ của gà trống, Tấm tìm thấy xương của cá.
Ít lâu sau, nhà vua mở hội và mẹ con Cám cũng tham gia. Tấm muốn tham dự nhưng bị dì ghẻ gửi ở nhà. Bụt hiện ra và hướng dẫn cô tìm xương cá để đổi quần áo. Khi Tấm lấy xương, nó biến thành quần áo mới, đôi hài và một con ngựa để đi dự hội. Nghe tin, nhà vua vừa qua con sông và tìm thấy đôi hài. Vua rất ngưỡng mộ người mặc nó và tuyên bố rằng ai vừa sẽ làm vợ vua. Mẹ con Cám cũng thử nhưng không vừa. Tấm thử và vừa như in, cuối cùng được vua nhận làm hoàng hậu.
Đến ngày giỗ cha, Tấm về ăn giỗ. Dì ghẻ bảo chị Tấm trèo cây cau, hái cau cúng cha. Nhân lúc nàng không để ý mà ở dưới chặt đổ cây cau. Tấm ngã xuống ao chết đuối. Mẹ con dì ghẻ vào cung khóc lóc kể lể sự tình và xin cho Cám ở lại thay Tấm hầu hạ vua.
Một hôm, có một con chim vàng anh ở đâu bay đến đang lúc Cám giặt quần áo cho vua. Vàng anh kêu lên: “ Phơi áo chồng tao phơi lao phơi sào, chớ phơi bờ rào, rách áo chồng tao”. Rồi chim vàng anh bay vào cung vua, ngày ngày quấn quýt khiến nhà vua không thèm ngó ngàng đến tôi. Cám tức lắm, tìm cách giết chết vàng anh, đem lông chim vứt ngoài vườn. Khi vua hỏi thì Cám nói dối là mình có mang thèm ăn thịt chim nên vua không hỏi gì nữa. Từ chỗ lông chim vàng anh, một cây xoan đào mọc lên, cành lá xum xuê tỏa bóng mát. Vua sai người mắc võng nằm nghỉ ở đây. Cám thấy vậy thì về nhà liền mách mẹ. Cám làm theo lời mẹ sai người chặt cây làm thành khung cửi. Vua có hỏi thì Cám lại nói dối là do cây bị đổ vì bão, sai thợ chặt làm khung cửi để dệt áo cho vua. Nhưng lúc Cám ngồi dệt, bỗng vang lên một giọng nói:
'Cót ca cót két
Lấy tranh chồng chị,
Chị khoét mắt ra.'
Cám sợ quá, về nhà mách mẹ. Dì ghẻ cho người đến đốt khung cửi đi, đổ ra xa khỏi hoàng cung.
Từ chỗ tro tàn mọc lên một cây thị, cả cây chỉ có mỗi một quả thị. Một hôm, một bà lão đi qua nhìn thấy liền nói:
- Thị ơi thị, rụng vào bị bà, bà đem bà ngửi, chứ bà không ăn.
Quả thị liền rụng xuống rơi vào bị bà. Bà lão vừa dứt lời thì quả thi rơi xuống. Kỳ lạ là từ đó, cứ mỗi lần đi chợ về, bà lão đều thầy nhà cửa sạch sẽ, cơm nước tinh tươm. Bà quyết tâm rình xem có điều gì lạ đang xảy ra thì phát hiện thấy một cô gái chui ra từ quả thị. Bà lão rón rén lại gần rồi xé nát vỏ quả thị. Từ đó, Tấm ở với bà hàng nước. Một hôm, nhà vua đi qua ghé vào thấy miếng trầu têm cánh phượng giống của Tấm têm, liền gặng hỏi bà lão. Tấm và nhà vua gặp lại nhau.
Tấm theo nhà vua về cung. Lại nói đến Cám sau khi thấy Tấm trở về lại xinh đẹp hơn xưa. Vua ngày càng yêu quý. Cám liền đến hỏi chị:
- Chị Tấm ơi, chị làm thế nào mà đẹp thế?
Chị Tấm không trả lời chỉ hỏi lại tôi:
- Có muốn đẹp không để chị giúp?
Cám nghe theo lời chị Tấm. Thấy chị sai người đào một cái hố sâu rồi bảo Cám xuống đó. Cám không chút nghi ngờ, liền xuống dưới và chết bỏng.
Kể lại một truyện cổ tích - Em bé thông minh
Bài văn mẫu số 1
Ngày xưa, có ông vua nọ muốn tìm người tài giúp nước, liền sai viên quan đi khắp nơi. Một hôm, viên quan đi đến một làng nọ thấy hai cha con đang cày bừa, liền đến gần. Viên quan hỏi người cha:
- Này, lão kia! Trâu của lão cày một ngày được mấy đường?
Người cha chưa biết trả lời thế nào, thì cậu bé chỉ khoảng bảy, tám tuổi đã hỏi lại:
- Nếu ông trả lời đúng ngựa của ông đi một ngày được mấy bước, tôi sẽ cho ông biết trâu của cha tôi cày một ngày được mấy đường.
Viên quan vô cùng sửng sốt không biết trả lời ra sao. Ông mừng lắm, nghĩ thầm đã tìm được người tài, liền trở về bẩm báo với nhà vua.
Một hôm, nhà vua ban cho làng của cậu bé ba thúng gạo nếp và ba con trâu đực, ra lệnh làm sao phải nuôi cho ba con trâu ấy đẻ thành chín con, hẹn năm sau phải đem nộp đủ, nếu không thì cả làng phải tội.
Cả làng lo lắng. Biết chuyện, cậu bé nói với cha hãy bảo dân làng giết thịt hai con trâu và đồ hai thúng gạo nếp lên để mọi người ăn một bữa cho sướng miệng. Còn một con trâu và một thúng gạo nếp bán đi lấy tiền làm lộ phí cho hai cha con trẩy kinh lo liệu việc của làng.
Dân làng nghe vậy, tuy có ngờ vực nhưng vẫn làm theo, còn bắt họ viết giấy cam đoan. Sau đó, hai cha con cậu bé sửa soạn lên đường. Đến hoàng cung, người cha đứng đợi ở ngoài, còn cậu bé thì nhân lúc mấy người lính canh sơ ý, lẻn vào sân rồng khóc lóc. Nhà vua nghe thấy liền sai lính điệu cậu vào, phán hỏi:
- Cậu bé kia, sao lại đến đây mà khóc?
Lúc đó, cậu bé mới trả lời:
- Tâu đức vua, mẹ con chết sớm mà cha con không chịu đẻ em bé để chơi với con cho có bạn, cho nên con khóc. Dám mong đức vua phán bảo cha con cho con được nhờ.
Nghe cậu bé nói thế, vua và các triều thần đều bật cười. Vua nói:
- Muốn có em thì phải bảo cha lấy vợ khác, chứ đàn ông làm sao mà để con được?
Nghe vậy, cậu bé liền thưa với vua:
- Thế sao vua lại bắt làng chúng con nuôi ba con trâu đực cho đẻ thành chín con để nộp đức vua? Giống đực thì làm sao mà đẻ được ạ!
Lúc đó, vua cười và bảo:
- Hãy thử xem! Thế làng không biết đem trâu ấy ra thịt để ăn à?
Em bé nói với vua rằng làng biết đó là lộc của vua nên đã tổ chức một bữa ăn mừng với nhau. Nghe điều này, nhà vua chỉ cười.
Một ngày nọ, khi hai cha con đang ăn cơm ở công quán, có một sứ giả của nhà vua đến và mang theo một con chim sẻ, với lệnh cho em bé phải sắp xếp ba cỗ thức ăn. Cậu bé đưa cho sứ giả một cái kim và nói:
- Ông mang cái kim này về và yêu cầu vua rèn cho tôi thành một con dao để thịt con chim.
Sau sự kiện đó, nhà vua mời hai cha con vào và ban thưởng cho họ rất hậu. Trước đó, có một quốc gia láng giềng muốn chiếm nước của chúng ta. Để kiểm tra xem có người tài ở nước ta không, họ đã gửi một sứ giả sang với một cái vỏ ốc vặn dài, hai đầu trống, và thách làm sao để xâu một sợi chỉ mảnh qua đường ruột của ốc.
Các quan lớn của nước ta đều đau đầu suy nghĩ. Mọi người đã thử nhiều phương pháp nhưng không hiệu quả. Cuối cùng, triều đình quyết định mời sứ thần ra công quán để kéo dài thời gian tìm ra người giải câu đố.
Một ngày nọ, khi cậu bé đang vui đùa ở sau nhà, có một dấu hiệu từ vua. Khi nghe viên quan kể câu chuyện, cậu hiểu và chỉ cho viên quan cách xâu chỉ qua mây câu như sau:
“Tang tình tang! Tính tình tang
Bắt con kiến càng buộc chỉ ngang lưng
Bên thời lấy giấy mà bưng
Bên thời bôi mỡ, kiến mừng kiến sang
Tang tình tang...”
Viên quan trở về triều đình với niềm vui và thực hiện theo lời cậu bé nói. Nhờ đó, sợi chỉ dễ dàng xuyên qua ruột con ốc xoắn. Nghe tin này, sứ giả của quốc gia láng giềng ngưỡng mộ không ngớt. Sau đó, nhà vua đã ban cho cậu bé thông minh vị trí trạng nguyên và đón vào cung vua để học tập.
Bài văn mẫu số 2
Ngày xưa, hai cha con sống hòa bình cùng nhau trong một ngôi làng. Một ngày, khi em bé đang giúp cha cày bừa cho mùa mới, một viên quan bất ngờ xuất hiện. Khi đến gần, viên quan đặt câu hỏi:
- Ông kia, trâu của ông cày một ngày được bao nhiêu đường?
Người cha chưa biết trả lời thế nào, lúc đó cậu bé lanh lợi hỏi lại viên quan:
- Vậy thì ông hãy trả lời câu này trước đi. Nếu ông biết được ngựa của ông mỗi ngày đi được bao nhiêu bước, tôi sẽ cho ông biết trâu của cha tôi mỗi ngày cày được bao nhiêu đường.
Viên quan nghe câu hỏi động não của cậu bé thì trở nên ngạc nhiên. Sau đó, ông hỏi tên và địa chỉ của làng quê của hai cha con rồi nhanh chóng cưỡi ngựa ra đi.
Một khoảng thời gian sau, nhà vua ra lệnh cho làng ba thúng gạo nếp và ba con trâu đực. Họ phải nuôi ba con trâu đó đến khi chúng đẻ thành chín con. Năm sau, phải đem đủ số lượng đẻ để nộp cho vua. Nếu không thực hiện được, cả làng sẽ bị phạt.
Nhận được lệnh của vua, cả làng lo lắng. Nghe tin đó, cậu bé nói với cha mình:
- Chả thường xuyên được vua ban phước, cha à. Tôi nghĩ chúng ta nên giết hai con trâu và lấy hai thúng gạo nếp ra làm bữa ăn cho cả làng thưởng thức. Còn một con trâu và một thúng gạo nếp, chúng ta sẽ bán đi để lấy tiền làm chi phí cho việc của cha con tôi.
Hôm sau, người cha ra đình thông báo câu chuyện. Cả làng nghe tin đầu tiên đều bất an, buộc phải ký cam đoan trước khi dám dùng trâu và gạo.
Sau đó, hai cha con cậu bé chuẩn bị hành trang ra đi. Khi đến hoàng cung, cậu bé bảo cha đứng ngoài, sau đó tự mình lẻn vào sân rồng và khóc lóc. Vua sai lính đưa cậu vào trong và hỏi về nguyên nhân của việc khóc.
- Cha bận việc, mẹ con sớm mất, con không có bạn chơi nên con khóc. Con hy vọng đức vua có thể bảo cha cho con có em bạn.
Nghe điều này, vua cùng các triều thần không kìm được tiếng cười. Vua nói:
- Muốn có em bạn thì phải tìm vợ mới cho cha mày, vì cha mày là nam giới, không thể sinh con được!
Thấy tất cả đều diễn ra như dự đoán, em bé lạc quan trả lời:
- Vậy là tại sao lại có lệnh bắt làng phải nuôi ba con trâu đực cho đẻ thành chín con để nộp cho đức vua? Giống đực mà, chúng nó sinh con được sao?
Vua bảo:
- Thử xem! Liệu làng chẳng biết dùng trâu đó làm thịt để cùng nhau ăn à?
- Ông vua thưa, sau khi nhận được trâu và gạo nếp, làng chúng tôi biết đó là lộc của ông, nên đã tổ chức buổi ăn mừng cùng nhau.
Vua cùng các thần bật cười và sai người đi sắp xếp chỗ ở cho hai cha con. Ngày sau, một sứ giả của vua đến mang theo một con chim sẻ, yêu cầu họ phải chuẩn bị ba bàn thức ăn. Khôn khéo, em bé ngay lập tức bảo cha lấy một cái kim may và đưa cho sứ giả, nói:
- Xin ông mang cái kim này về cung xin vua rèn cho con thành một con dao để xẻ thịt con chim.
Ngay lập tức, vua triệu hai cha con của em bé vào, ban thưởng rất hậu. Lúc ấy, nước láng giềng luôn âm mưu xâm lược đất nước ta. Họ cử sứ giả sang để tìm hiểu xem chúng ta có nhân tài không. Sứ giả mang theo một con ốc vặn dài, trống rỗng hai đầu và một sợi chỉ mảnh, thách thức các quan trong triều phải làm thế nào để xâu sợi chỉ qua ruột ốc. Mọi cách đều thất bại. Vua mời sứ giả ở lại vài ngày để cho các quan hỏi ý kiến em bé. Em bé chỉ hát một câu:
“Tang tính tang! Tính tình tang
Bắt con kiến càng, buộc chỉ ngang lưng
Bên thời lấy giấy mà bưng,
Bên thời bôi mỡ kiến mừng kiến sang.
Tang tình tang! Tính tình tang!”
Sứ giả hiểu ra và vui mừng quay về báo cáo với vua. Vua ra lệnh thực hiện lời của em bé. Sợi chỉ đã xuyên qua vỏ ốc trước sự kinh ngạc của sứ giả láng giềng. Sau đó, vua triệu hai cha con của em bé vào cung, phong làm trạng nguyên và giao cho người xây dựng một lâu đài trong hoàng cung để tiện cho việc thăm hỏi.
Kể lại một câu chuyện cổ tích - Thạch Sanh
Bài văn mẫu số 1
Xưa kia, ở quận Cao Bình có một cặp vợ chồng đã già mà vẫn chưa có con. Mặc dù nghèo khó, họ luôn giúp đỡ mọi người. Ngọc Hoàng thấy họ tốt bụng, liền sai thái tử đầu thai xuống làm con cho họ. Tuy nhiên, sau này người vợ mang thai nhưng mãi không thấy con đến. Người chồng mắc bệnh nặng và qua đời. Sau này, người vợ mới sinh được một cậu con trai.
Khi cậu bé lớn lên, người mẹ cũng qua đời. Từ đó, cậu sống nghèo khó trong một căn nhà nhỏ dựng dưới gốc đa, chỉ có lưỡi búa mà cha để lại. Mọi người gọi cậu là Thạch Sanh. Khi Thạch Sanh trưởng thành, Ngọc Hoàng sai thiên thần xuống dạy cho cậu mọi loại võ nghệ và phép thần thông.
Một ngày nọ, có một người bán rượu tên Lí Thông đi qua. Khi thấy Thạch Sanh đang gánh một bó củi lớn, ông nghĩ: “Người này khỏe mạnh, nếu chúng ta sống chung sẽ có ích lợi lớn!”. Lí Thông gợi chuyện và đề nghị Thạch Sanh kết nghĩa anh em. Thạch Sanh, mồ côi cha mẹ và không có ai, cảm thấy rất vui mừng và đồng ý ngay. Sau đó, Thạch Sanh dọn đến sống với mẹ con Lí Thông.
Khu vực đó có một con quỷ tinh thông có nhiều phép lạ, thường ăn thịt người. Quân đội đã nhiều lần cố gắng bắt nhưng đều thất bại. Dân làng phải lập miếu thờ và hàng năm phải đưa một người để đền cứu trừ. Đến lượt nhà Lí Thông, họ lập kế hoạch để lừa Thạch Sanh đi thay. Chiều hôm đó, Thạch Sanh đi kiếm củi về, Lí Thông sắp đặt một bữa rượu và thịt, sau đó nói với Thạch Sanh:
- Đêm nay, đến lượt anh đi cầu nguyện tại miếu thờ. Rượu vẫn còn trong bình, em khó lòng thay anh. Sáng mai anh về sẽ thay lại.
Thạch Sanh trung thực và dũng cảm, không do dự chấp nhận. Nửa đêm hôm đó, trong lúc chàng đang ngủ say, con chằn tinh xuất hiện, sẵn sàng tấn công. Thạch Sanh lấy búa đánh trận với con quái vật. Chỉ trong chốc lát, lưỡi búa của chàng đã giết chết con quái vật. Con chằn tinh hiện ra dưới hình dạng của một con trăn khổng lồ, nó chết để lại một bộ cung và mũi tên bằng vàng. Thạch Sanh cắt đầu con quái vật mang về. Mẹ con Lí Thông, đang ngủ say, nghe tiếng gõ cửa liền tưởng là Thạch Sanh trở về để báo tin. Họ kinh hoàng, van xin rồi mới nhận ra khi Thạch Sanh kể chuyện. Lí Thông lập tức nghĩ ra một kế sách khác, nói với Thạch Sanh:
- Việc giết con trăn mà nhà vua nuôi đã lâu là tội ác. Bây giờ là thời cơ, hãy nhanh chóng trốn đi. Anh lo liệu mọi thứ.
Thạch Sanh không do dự. Chàng rời bỏ mẹ con Lí Thông, quay về gốc đa cũ, lại đi kiếm củi để sống qua ngày. Trong khi đó, Lí Thông sử dụng đầu con chằn tinh đưa đến nhà vua. Vua khen ngợi và phong hắn làm Quận công.
Nhà vua có công chúa đã đến tuổi lập gia đình. Hoàng tử từ nhiều vùng xa gửi sứ giả đến cầu hôn, nhưng công chúa không chấp nhận. Nhà vua quyết định tổ chức một hội lớn, mời các hoàng tử và công tử trong quốc gia đến tham dự, để công chúa ném quả cầu may từ trên cao. Người được quả cầu rơi trúng sẽ là chồng của công chúa. Khi công chúa chuẩn bị ném quả cầu, bất ngờ bị một con đại bàng khổng lồ bắt đi. Mặc dù bị thương, nhưng đại bàng vẫn cố gắng bay về tổ. Thạch Sanh theo dấu máu, tìm thấy tổ của đại bàng.
Khi công chúa biến mất, nhà vua lo lắng vô cùng. Vua sai Lí Thông đi tìm công chúa, hứa sẽ kết hôn với cô nếu tìm thấy. Lí Thông tổ chức một cuộc tìm kiếm, và mời Thạch Sanh tham gia. Nghe Lí Thông kể về việc tìm kiếm công chúa, Thạch Sanh kể về việc bắn trúng đại bàng. Lí Thông rất vui mừng và yêu cầu Thạch Sanh dẫn đường đến tổ của đại bàng.
Thạch Sanh xin được xuống hang cứu công chúa. Chàng và đại bàng đánh nhau, cuối cùng chàng cứu được công chúa. Sau khi đưa công chúa lên, Lí Thông lấp kín cửa hang. Thạch Sanh cố tìm lối ra, đến cuối hang thì thấy một chàng trai bị nhốt trong cũi sắt. Chàng dùng cung bắn tan cũi sắt cứu chàng trai. Đó chính là con trai của vua Thủy Tề. Chàng được mời xuống thủy phủ chơi, rồi đưa trở về nhà. Khi về, vua Thủy Tề biếu vàng bạc, nhưng chàng chỉ xin một cây đàn.
Hồn của đại bàng và chằn tinh gặp nhau, thảo luận cách trả thù. Chúng ăn trộm của cải, đem giấu ở gốc đa. Thạch Sanh bị bắt vào ngục. Còn công chúa sau khi cứu thoát, trở về không nói, không cười. Nhà vua hoãn việc cưới lại. Lí Thông tìm thầy thuốc về chữa, nhưng không thành.
Một hôm trong ngục tối, Thạch Sanh đánh đàn. Công chúa nghe thấy tiếng đàn, bỗng nói được, cười được. Nàng xin vua cho gọi người đánh đàn vào. Vua lấy làm lạ, gặp Thạch Sanh, chàng kể hết mọi chuyện. Mọi người mới biết sự thật. Nhà vua bắt giam mẹ con Lí Thông, giao cho Thạch Sanh trừng trị. Chàng tha cho họ về quê, nhưng giữa đường mẹ con Lí Thông bị sét đánh chết.
Nhà vua gả công chúa cho Thạch Sanh. Lễ cưới tưng bừng, hoàng tử các nước bị từ hôn tức giận. Họ tấn công, nhưng khi nghe đàn của Thạch Sanh, bất ngờ rời đi. Chàng nấu cơm thiết, mời những kẻ thua trận ăn cơm. Họ thấy chỉ có một niêu cơm nhỏ, coi thường, nhưng cuối cùng phải ăn hết niêu cơm. Thạch Sanh hứa trọng thưởng, nhưng niêu cơm vẫn đầy. Họ tạ ơn chàng rồi về nước. Sau này, nhà vua không có con trai nên nhường ngôi cho Thạch Sanh.
Bài văn mẫu số 2
Ngày xưa, tại quận Cao Bình, có một cặp vợ chồng già mà vẫn chưa được phước con. Mặc dù cuộc sống không dư dả, họ vẫn luôn lòng tốt với mọi người xung quanh. Ngọc Hoàng thấy lòng nhân từ của họ và đã sai Thái tử xuống làm con cho họ. Đứa bé được sinh ra trong cảnh mồ côi cha, và sau này cũng mất mẹ. Cuộc sống của cậu bé chỉ có một mình ở gốc cây đa, được mọi người trong làng gọi là Thạch Sanh. Khi lớn lên, Thạch Sanh được một thiên thần dạy cho tất cả các loại võ nghệ và mọi phép thuật.
Một ngày nọ, có một người đàn ông tên là Lí Thông đi qua gốc cây đa. Thấy Thạch Sanh có sức khỏe tốt, ông ta đã đề nghị kết bạn và làm anh em với nhau. Thạch Sanh đồng ý và sau đó, họ cùng nhau về sống với mẹ con Lí Thông.
Ở trong vùng này có một con chằn tinh hung dữ, có nhiều phép mà người ta không thể đánh bại nổi. Quan quân trong vùng đã nhiều lần cố gắng tiêu diệt nó nhưng không thành công. Dân làng đã phải xây một ngôi đền để thờ cúng, và hàng năm họ phải hiến một người để cúng dường cho con quái vật đó. Năm nay, đến lượt nhà của Lí Thông, ông đã nghĩ ra một mưu kế, gửi Thạch Sanh đi hiến mạng thay cho mình. Vào buổi tối đó, Thạch Sanh đi lấy củi về và bất ngờ phát hiện ra một bàn tiệc rượu. Lí Thông liền nói:
- Đêm nay, anh phải trực canh tại đền thờ. Nhưng thùng rượu mới cất vẫn chưa kịp hoàn thiện, em đề nghị anh đi thay mình và sáng mai quay lại.
Thạch Sanh không nghi ngờ gì và ngay lập tức đồng ý. Vào đêm ấy, khi Thạch Sanh đang ngủ, con chằn tinh đã xuất hiện và tấn công chàng trai. Thạch Sanh đã sử dụng tất cả kỹ năng võ thuật của mình để đánh bại con quái vật. Sau cùng, nó đã hiện hình dưới dạng một con rắn khổng lồ. Nó chết và để lại một bộ cung tên làm bằng vàng. Thạch Sanh cắt đầu con quái vật và mang về. Lúc đó, mẹ con Lí Thông đang ngủ sâu. Khi nghe thấy tiếng gõ cửa, họ nghĩ rằng Thạch Sanh đã trở lại để đòi mạng sống của họ, họ hoảng sợ và van xin rồi mới nhận ra sự thật khi Thạch Sanh trở về nhà và kể chuyện. Lí Thông đã nghĩ ra một mưu kế để lừa Thạch Sanh:
- Đó là con thú được vua chăm sóc. Nếu anh giết nó, sẽ phải chịu trách nhiệm. Hãy đi trốn ngay, để anh lo mọi chuyện.
Một lần nữa, Thạch Sanh không có nghi ngờ gì, lập tức trốn về gốc cây đa cũ. Lí Thông mang đầu của con quái vật đến nhận phần thưởng. Nhà vua có công chúa đến tuổi lấy chồng, và đã tổ chức lễ kén rể. Trong lễ, công chúa bị một con đại bàng lớn bắt đi. Thạch Sanh thấy, liền dùng cung tên bắn nó và theo dấu máu biết được hang của con đại bàng. Khi công chúa mất tích, nhà vua lo lắng. Vua sai Lí Thông đi tìm và hứa gả công chúa cho ai đem lại tin tức. Lí Thông không biết phải làm thế nào, nên anh ta cho mọi người tổ chức hát xướng để nghe tin tức. Tình cờ, Thạch Sanh nghe được và biết được vụ việc. Anh ta nói rằng anh biết nơi ẩn của con đại bàng và yêu cầu được đi cùng. Khi đến hang, Thạch Sanh được phép xuống hang cứu công chúa, nhưng sau đó bị Lí Thông nhốt lại dưới hang. Tại đây, anh ta cứu được con trai của Vua Thủy Tề, được mời xuống thủy cung và nhận được một cây đàn thần.
Sau khi trở về, Thạch Sanh bị oan và bị đại bàng hại, rồi bị bắt vào ngục tối. Trong ngục, Thạch Sanh đánh đàn để thể hiện nỗi oan trách. Về việc công chúa, sau khi trở về cung điện, cô không cười cũng không nói. Nhà vua hoãn việc cưới, tìm kiếm người chữa trị. Một ngày, công chúa nghe thấy tiếng đàn và cười. Nhà vua thấy lạ nên triệu Thạch Sanh đến gặp. Anh ta kể lại mọi chuyện cho vua biết. Lí Thông bị trừng trị và Thạch Sanh được gả cho công chúa.
Khi lễ cưới diễn ra tưng bừng, các hoàng tử và quý tộc đem quân sang xâm lược. Thạch Sanh cầm đàn và chơi, tiếng đàn của anh đã làm cho quân lính của mười tám nước sợ hãi và xin hàng. Anh sai nấu cơm để tiếp khách, và cơm bé xíu của anh đã khiến quân lính ăn mãi không dứt. Họ cảm ơn và rời đi. Sau này, vì vua không có người thừa kế, nên ngai vàng đã được truyền lại cho Thạch Sanh.
Kể một câu chuyện cổ tích - Vua chích chòe
Bài mẫu văn số 1
Trong một quốc gia, có một nàng công chúa xinh đẹp nhưng kiêu căng. Một ngày, vua tổ chức một bữa tiệc lớn để chọn chồng cho công chúa.
Các khách mời đứng xếp hàng, từ vị vua của các nước đến các công tước, hoàng tử, bá tước, nam tước, cuối cùng là các dòng dõi quý tộc. Công chúa được dẫn đi xem mắt và cô ta luôn tìm ra điểm yếu để chê trách họ. Đặc biệt, cô ta thích chê một người có cái cằm cong giống như mỏ của chim chích chòe. Công chúa gọi ông vua tốt bụng ấy là Vua chích choè.
Người vua tỏ ra giận dữ và ra lệnh, nếu có người nghèo đi ngang qua hoàng cung, ông sẽ gả công chúa cho họ. Một ngày, có một người hát rong đi ngang qua, đứng dưới cửa sổ hát mà không biết rằng ông sắp được thưởng. Khi nghe được điều này, vua ban truyền:
- Đưa người hát rong đó vào đây!
Người hát rong bước vào hoàng cung, hát cho vua và công chúa nghe, sau đó vẫy tay xin tiền thưởng. Vua nói:
- Ta rất ngưỡng mộ tiếng hát của ngươi, vì thế ta quyết định gả con gái ta cho ngươi.
Công chúa hoảng sợ van xin, nhưng không thể thay đổi quyết định của vua. Ông nói:
- Cha đã thề sẽ gả con gái cho người nghèo đầu tiên đi ngang qua hoàng cung, cha muốn giữ lời thề ấy.
Vị linh mục được mời đến ngay để làm lễ kết hôn cho công chúa và người hát rong. Sau khi lễ kết thúc, vua nói với công chúa:
- Theo quy tắc, vợ của người hát rong không được ở lại trong cung vua lâu dài, vậy nên con phải đi theo chồng ra khỏi cung.
Nàng buồn bã đi theo người chồng của mình. Khi đến một khu rừng rộng lớn, công chúa hỏi:
- Khu rừng này thuộc về ai?
Người hát rong trả lời:
- Đây là rừng của Vua chích choè, nếu nàng lấy ông ta thì rừng này cũng sẽ thuộc về nàng.
Công chúa tiếc nuối nói:
- Tôi thực sự rất đáng thương, tôi nên lấy Vua chích choè.
Một lúc sau, khi đến một thảo nguyên, công chúa lại hỏi:
- Thảo nguyên xanh đẹp này thuộc về ai?
Người hát rong trả lời:
- Thảo nguyên thuộc về Vua chích choè.
Công chúa lại thở dài nói:
- Tôi thực sự rất đáng thương, tôi nên lấy Vua chích choè.
Sau đó, họ đến một thành phố lớn, công chúa tiếp tục hỏi:
- Thành phố tuyệt vời này thuộc về ai?
Người hát rong trả lời:
- Thành phố tươi đẹp của Vua chích choè.
Nàng bật khóc, thốt lên rằng:
- Tôi thật là đáng thương, nên tôi cũng nên đồng ý lấy Vua chích choè.
Người hát rong ngay lập tức nói tiếp:
- Tôi không hài lòng chút nào, tại sao em luôn ước ao có người chồng khác, liệu tôi không xứng đáng sao?
Công chúa không thốt lời, chỉ im lặng đi phía sau. Khi đến một túp lều, nàng hỏi chồng:
- Ôi trời ơi, căn nhà này nhỏ quá, thật đáng thương!
Người hát rong trả lời:
- Đây chính là nhà của chúng ta!
Nàng phải cúi thấp để vào nhà, sau đó hỏi:
- Người hầu ở đâu vậy?
Người hát rong đáp lại:
- Có người hầu nào đâu? Muốn làm việc gì thì tự làm đi. Bây giờ cô hãy vào bếp nấu ăn, tôi mệt rồi.
Công chúa không biết nấu ăn, người hát rong buộc phải giúp đỡ. Sau bữa ăn, họ mệt mỏi và đi ngủ. Ngày hôm sau, chồng đánh thức công chúa làm việc nhà. Lương thực dự trữ cũng sắp cạn. Người hát rong nói với công chúa
- Mình biết rồi, chỉ ngồi ăn mà không có công việc gì thêm thì không thể sống được lâu, có lẽ em nên đan sọt để bán.
Anh ta đi vào rừng để lấy tre nứa về, công chúa phải chẻ tre và đan sọt. Nhưng tay nàng bị cạnh sắc của tre nứa làm trầy và rỉ máu. Người hát rong nói:
- Không sao, chắc là việc dệt vải sẽ phù hợp hơn với em.
Nàng ngồi tập quay sợi, nhưng ngón tay nàng bị sợi cắt và máu chảy ra. Người chồng nói:
- Em không thể làm việc gì được, sống với em thật là khổ. Chắc là ta phải ra đi buôn nồi và bát đĩa thôi. Em có thể ngồi ở chợ và bán hàng.
Công chúa nghe vậy, suy nghĩ:
- Nếu dân nhà mình đến đây mua sắm, họ thấy tôi chắc sẽ trêu chọc tôi thôi.
Dù vậy, nàng vẫn phải làm theo lời chồng. Ban đầu, có nhiều khách đến mua hàng, trả tiền mà không mặc cả, thậm chí có người trả tiền nhưng không lấy hàng. Cuộc sống của hai vợ chồng khá sung túc. Một lần, công chúa đang coi hàng thì một hiệp sĩ đột nhập vào chợ làm đổ hàng sành sứ ra thành hàng nghìn mảnh. Nàng hoảng sợ, khóc lóc nói:
- Ôi, tội nghiệp tôi, còn mặt mũi nào để nhìn chồng?
Sau khi về nhà, nàng kể chuyện với chồng. Người hát rong chỉ trách móc:
- Đời sống như một người bán sành sứ ngồi ở đầu chợ, không cần phải khóc. Anh thấy em không làm gì cả, vì vậy anh đã đến cung vua để hỏi xem nhà bếp có cần người giúp không, họ đồng ý nhận em làm và sẽ nuôi em.
Vậy là bây giờ công chúa làm đầu bếp. Hai bên tạp dề nàng buộc chặt lấy nàng, nàng cho phần cơm của mình vào hai chiếc nồi và mang về nhà để hai vợ chồng cùng ăn. Một hôm, khi cung vua tổ chức hôn lễ cho nhà vua, công chúa nổi tiếng cùng lén đến đứng trước cửa. Khi ánh đèn sáng lên, cảnh tượng rực rỡ trong cung vua trở nên rõ ràng hơn bao giờ hết. Công chúa cảm thấy buồn bã cho số phận của mình. Nàng hối hận vì tính kiêu căng và ngông cuồng đã khiến mình trở thành như ngày hôm nay. Bất ngờ, nhà vua bước vào, mặc áo lụa vàng rực rỡ, trang sức đầy người. Nhà vua nhìn thấy công chúa và tỏ ý muốn nhảy cùng nàng. Nàng nhận ra đó là Vua chích choè, người đã từng muốn làm phò mã và bị nàng chế giễu, từ chối.
Nàng liền giật tay lại nhưng không thành công, vẫn bị người kéo vào giữa phòng làm dây buộc nồi đứt, hai chiếc nồi rơi xuống đất, súp và bánh mì vung ra khắp nền nhà. Khách và những người đứng xung quanh đều cười và chế giễu. Công chúa cảm thấy rất xấu hổ, cố giữ chặt tay Vua chích choè, nhưng khi cố chạy trốn thì bị một người đàn ông kéo lại, đó chính là Vua chích choè:
- Đừng sợ, người hát rong sống cùng em trong căn lều xập xệ đó chính là anh. Anh cũng chính là kỵ sĩ đã làm đổ hàng sành sứ của em. Tất cả đều để uốn nắn tính kiêu ngạo của em.
Nàng nói:
- Em đã phạm phải sai lầm, không xứng đáng với vai trò vợ của anh.
Tuy nhiên, Vua chích chòe nói với nàng:
- Đừng buồn nữa, những ngày đau khổ đã qua, bây giờ chúng ta hãy tổ chức đám cưới.
Công chúa tuân theo lời của Vua chích chòe, bắt đầu thay quần áo. Toàn bộ triều đình tập trung để chúc mừng.
Bài viết mẫu số 2
Trong một vương quốc, vua chỉ có một con gái duy nhất. Nàng vô cùng xinh đẹp và được nuông chiều, dẫn đến tính cách kiêu ngạo. Một ngày, vua tổ chức một buổi tiệc lớn để tìm phò mã cho công chúa từ khắp nơi. Đông đảo các chàng trai đã tới dự tiệc.
Công chúa đánh giá từng người một nhưng không ai làm nàng hài lòng. Thậm chí, nàng còn phê phán và chế giễu họ. Trong số đó, có một người có chiếc cằm hơi cong giống như mỏ chim chích chòe, từ đó nàng đặt cho anh ta biệt danh 'Vua chích chòe'.
Nghe tin đó, vua rất tức giận và quyết định rằng nếu có ai đi qua cung vua làm người ăn mày, vua sẽ gả công chúa cho người đó. Công chúa nghe tin sợ hãi và cố van xin, nhưng không có hiệu quả. Một ngày sau đó, một người hát rong đi qua, đứng dưới cửa sổ hát, hy vọng sẽ nhận được một ít tiền thưởng. Vua triệu hồi hắn vào:
- Mang tên hát rong vào đây!
Người hát rong bước vào cung vua, hát cho vua và công chúa nghe, sau đó giơ tay xin tiền thưởng. Vua phát biểu:
- Ta rất thích tiếng hát của ngươi, vì vậy ta sẽ gả con gái ta cho ngươi.
Công chúa van xin nhưng vua cha vẫn kiên quyết:
- Cha đã thề sẽ gả con cho người đầu tiên đi qua cung vua, và cha muốn giữ lời thề đó.
Linh mục được mời tới ngay để cử hành hôn lễ giữa công chúa và người hát rong. Hôn lễ được tiến hành xong, công chúa phải rời cung đi với chồng.
Trên đường đi, công chúa nhìn thấy một khu rừng lớn:
- Rừng này thuộc về ai?
Người hát rong đáp:
- Rừng là của Vua chích chòe, nếu công chúa lấy ông ta thì chắc chắn rừng sẽ thuộc về công chúa.
Công chúa than thở tiếc nuối:
- Tôi là cô gái đáng thương, nên đã nên lấy Vua chích chòe.
Sau một khoảnh khắc, khi đến một thảo nguyên, công chúa hỏi:
- Thảo nguyên này là của ai?
Người hát rong đáp:
- Đó là thảo nguyên của Vua chích chòe.
Công chúa tiếc nuối thốt lên:
- Tôi thật đáng tiếc, phải làm vợ cho Vua chích chòe.
Đến một thành phố lớn, công chúa hỏi:
- Thành phố này thuộc về ai?
- Đây là thành phố mỹ lệ của Vua chích choè.
Bấy giờ, nàng ân hận đến tột cùng, bắt đầu khóc than:
- Tôi thật đáng tiếc, phải đồng ý lấy Vua chích chòe.
Người hát rong tỏ vẻ tức giận, nói:
- Tôi rất không hài lòng khi nghe nàng nói như vậy, liệu tôi không xứng với nàng sao?
Công chúa im lặng, chỉ đi sau người hát rong, tới một căn lều, nàng hỏi người hát rong:
- Nhà này là của ai?
Người hát rong nói bình tĩnh:
- Đây là nhà của chúng ta!
Nàng phải cúi xuống mới có thể bước vào, sau đó hỏi:
- Người hầu ở đâu?
Người hát rong trả lời:
- Không có người hầu, chúng ta phải tự làm mọi việc.
Sau khi nói xong, người hát rong yêu cầu công chúa tham gia nhóm bếp và nấu ăn. Nhưng công chúa lại không biết cách làm điều đó. Cuối cùng, người hát rong phải tự mình thực hiện mọi công việc.
Ngày hôm sau, người hát rong đánh thức công chúa, sau đó nói:
- Chúng ta không thể ngồi im, chúng ta phải làm gì đó để kiếm sống. Em nghĩ sao nếu em đan sọt để bán?
Công chúa chỉ có thể tuân theo. Người hát rong vào rừng lấy tre nứa về, công chúa phải chẻ lạt và đan sọt. Nhưng liệu công chúa đã từng làm việc này trước đây chưa?
- Hoặc là em dệt vải - Người hát rong đề xuất.
Công chúa tuân theo, nhưng ngón tay mềm mại của nàng bị sợi cắt, máu chảy rơi xuống sàn nhà.
- Em không làm được gì cả. Chắc chắn ta phải đi buôn nồi và bát đĩa. Em sẽ ngồi ở chợ và bán hàng.
Công chúa phải tuân theo lời chồng, ra chợ bán hàng. Ban đầu, có khá nhiều khách hàng đến mua, họ trả tiền mà không mặc cả, thậm chí có người trả tiền nhưng không lấy hàng. Một ngày nọ, khi đang bán hàng như mọi khi, có một hiệp sĩ từ xa đâm ngựa lao vào chợ làm đổ đống hàng sành sứ của tôi. Công chúa sợ hãi và khóc lóc, sau đó trở về kể cho chồng nghe. Người hát rong trách móc và nói rằng đã tìm được công việc phụ bếp trong cung cho nàng. Và bây giờ, công chúa đã trở thành một chị phụ bếp.
Một lần, trong cung vua diễn ra hôn lễ cho nhà vua. Chị phụ bếp lén đến xem, khung cảnh hoàng cung khiến nàng nhớ lại quá khứ. Nàng cảm thấy buồn và hối tiếc. Bất ngờ, vua bước vào, mặc lụa và đeo châu báu. Nhà vua nhìn thấy nàng, bước tới và muốn nhảy cùng. Nàng sợ hãi và lùi lại.
Nàng nhận ra Vua chích chòe từng bị mình chế nhạo, cố chạy nhưng không thành. Bị kéo vào giữa phòng làm dây buộc nồi đứt, hai cái nồi rơi xuống đất, súp và bánh mì vung ra khắp nền nhà. Khách khứa xung quanh cười cợt khiến nàng vô cùng xấu hổ. Nàng nhanh chóng chạy ra ngoài. Bất ngờ, tôi nghe thấy một tiếng nói quen thuộc:
- Đừng sợ, anh chính là người hát rong sống cùng em đây. Anh cũng là kỵ sĩ cho ngựa chạy đổ vỡ hết hàng sành sứ của em. Tất cả những việc đó chỉ nhằm uốn nắn tính kiêu ngạo của em.
Công chúa nghe xong liền bật khóc:
- Em đã làm nhiều điều sai, em không xứng đáng làm vợ anh.
Nhưng Vua chích chòe ngay lập tức phản đối:
- Đừng tự trách mình nữa, đã qua mọi khó khăn rồi, giờ chúng ta hãy sống hạnh phúc bên nhau.
Công chúa lắng nghe lời của Vua chích chòe. Ngày đó, hoàng cung tổ chức tiệc linh đình. Toàn bộ triều đình đều hiện diện để chúc mừng cho họ.
Kể một câu chuyện cổ tích - Cây khế
Bài văn mẫu số 1
Xưa kia, ở một ngôi làng, có hai anh em. Cha mẹ họ mất sớm, nhưng họ luôn yêu thương nhau và cùng nhau làm việc. Tuy nhiên, khi anh lấy vợ, anh ta trở nên lười biếng.
Một ngày kia, người anh kêu em trai đến chia gia sản. Người anh đem hết của cải đi, chỉ để lại cho em một túp lều tranh, phía trước có một cây khế. Qua các mùa, vợ chồng em chăm sóc cây khế cẩn thận. Khi mùa khế đến, cây cho rất nhiều quả. Em và vợ bàn với nhau về việc hái khế để bán ở chợ. Trong lúc đó, em thấy một con chim lớn đang ăn trái khế trên cây. Suốt một tháng, chim luôn đến ăn. Vợ em đến nói với chim:
- Chim ơi! Khiến gia đình ta phải làm sao khi ngươi ăn trái khế của ta?
Chim đột nhiên ngừng ăn và nói:
- Một quả khế ăn đổi một viên vàng, hãy mang túi ba gang và chứa lại.
Nói xong, chim bay đi. Em và vợ quyết định làm theo lời của chim. Sáng hôm sau, chim đến và dẫn em tới một hòn đảo giữa biển. Chim hạ cánh trước một hang động. Bên trong, có nhiều vàng bạc và đá quý. Nhưng vì hang quá tối và sâu, em chỉ dám lấy ít đồ ở ngoài, sau đó ra hiệu cho chim biết rồi rời đi.
Kể từ đó, cuộc sống của gia đình người em trở nên phồn thịnh hơn. Họ xây dựng một ngôi nhà đẹp gần túp lều và cây khế, và giúp đỡ những người nghèo đói. Tin lành lan tỏa, điều này đã vang vọng đến tai người anh. Một buổi sáng, người anh sớm đến thăm nhà em trai. Ngay lập tức, anh ta bắt đầu tranh luận và đề xuất trao đổi túp lều và cây khế.
Cả gia đình người anh chuyển đến ở túp lều tranh của em trai. Mỗi ngày, họ cùng nhau ăn sáng rồi ngồi dưới gốc cây khế đợi chim thần. Khi mùa khế chín, chim cũng trở lại để ăn. Họ đều rơi lệ và kêu gào khi thấy chim, nhớ về câu chuyện trước đó. Chim thần cũng nói như lời kể của người em. Người anh quyết định chuẩn bị một chiếc túi gấp ba lần, biến nó thành một chiếc túi lớn như cái xô.
Buổi sáng hôm sau, chim thần đến đưa người anh ra đảo. Anh ta ngạc nhiên trước một cảnh tượng lộng lẫy với vàng bạc châu báu. Khi vào trong hang động, anh ta trầm trồ và đầy phấn khích, cố gắng nhét nhiều đồ vào túi.
Người anh leo lên lưng chim, nhưng chim phải rất nỗ lực mới có thể cất cánh. Vì vật nặng, chim bay rất chậm và mãi vẫn ở trên biển. Nhưng với gánh nặng đó và chiến đấu chống lại gió, chim dần yếu đi, hai cánh lửng lơ. Cuối cùng, chim buông và rơi xuống biển. Người anh bị sóng cuốn đi, trong khi chim chỉ bị lạnh lẽo và lông ướt. Nhưng sau đó, nó vẫn bật lên và bay về núi rừng.
Bài văn mẫu số 2
Ngày xưa, ở một ngôi làng, có hai anh em. Cha mẹ của họ sớm qua đời, để lại anh em tự lập. Họ làm việc chăm chỉ để có đủ ăn sống. Tuy nhiên, sau khi có vợ, người anh trở nên lười biếng, trong khi người em vẫn duy trì tính cần cù và chăm chỉ.
Một ngày kia, người anh gọi em trai đến để thảo luận về việc chia gia sản. Anh ta nhận hết tài sản, chỉ để lại cho em một căn nhà tranh và một cây khế trước nhà. Vợ chồng người em chăm sóc cây khế một cách cẩn thận. Đến khi cây khế ra quả, họ quyết định mang quả ra chợ bán. Trong lúc đó, khi người em sắp leo lên cây, anh ta nhìn thấy một con chim to đang ăn quả. Trong suốt một tháng, con chim đều đến. Người vợ liền nói với chim:
- Chim ơi! Khi ngươi ăn quả khế của ta, gia đình ta sẽ sống bằng gì?
Con chim lập tức trả lời:
- Một quả thì một cục vàng, hãy lấy túi ba gang để đựng.
Hai vợ chồng tuân thủ lời của chim, làm ra một túi ba gang. Sáng sớm ngày tiếp theo, chim thần đến và dẫn người em đến một hòn đảo nằm giữa biển. Chim hạ cánh tại một hang động. Trong hang có rất nhiều vàng bạc châu báu. Tuy nhiên, do hang sâu và tối, người em chỉ dám nhặt ít châu báu ở bên ngoài, sau đó rời hang và để chim về.
Kể từ đó, cuộc sống của gia đình người em đã thay đổi đáng kể, trở nên giàu có hơn. Hai vợ chồng còn giúp đỡ những người nghèo trong làng. Tin tức về điều này lan tỏa khắp làng, và người anh nghe được. Một sáng, anh ta đến gặp em trai để tìm hiểu về tình hình. Em trai không giấu giếm gì, đã kể cho anh ta nghe về mọi thứ. Người anh đề nghị đổi túp lều và cây khế với em.
Vợ chồng người anh chuyển đến túp lều đó. Mỗi ngày, họ chỉ ăn sáng và sau đó ra dưới gốc cây khế chờ chim thần. Khi mùa khế chín, chim thần đến để ăn. Thấy chim, cả hai đều rất xúc động và khóc lóc. Chim thần nói:
- Mỗi quả khế một cục vàng, hãy mang túi ba gang để đựng!
Vợ chồng người anh rất hạnh phúc. Chồng khuyên vợ may chiếc túi lớn gấp ba lần, trở thành một chiếc túi to như thùng.
Sáng hôm sau, chim thần xuất hiện để dẫn người anh đến hòn đảo. Khi nhìn thấy kho báu lấp lánh, người anh tròn mắt vui mừng. Khi bước vào hang động, người anh lại rất hào hứng. Chim thần khẩn trương nhắc nhở, người anh cố gắng nhét đầy túi của mình. Ban đầu, chim mất nhiều cánh để có thể cất cánh. Tuy nhiên, túi của người anh quá nặng, khiến chim khó khăn khi bay và cuối cùng rơi xuống biển. Người anh bị sóng cuốn trôi xa. Trong khi đó, chim chỉ ướt lông mà thôi, nhanh chóng vượt lên và bay đi.