Hôm nay, Mytour sẽ cung cấp tài liệu Bài văn mẫu lớp 6: Người cha đóng vai kể lại truyện Em bé thông minh.
Hy vọng với 2 đoạn văn mẫu dưới đây, các bạn học sinh lớp 6 sẽ có thêm tài liệu để hoàn thiện bài viết của mình.
Kịch bản: Cha kể lại câu chuyện Em bé thông minh - Mẫu 1
Tôi là một người nông dân nghèo. Vợ tôi qua đời sớm, để lại tôi cùng con trai phải đối mặt với cuộc sống gian khổ. Hai cha con chúng tôi phải lao động cật lực để nuôi sống, ủng hộ lẫn nhau qua mọi khó khăn. Dù chỉ là một đứa trẻ nhỏ, nhưng con trai tôi luôn tỏ ra thông minh và nhanh nhẹn, luôn sẵn lòng giúp đỡ tôi trong mọi công việc.
Một ngày kia, khi tôi và con trai ra đồng làm ruộng, đang vất vả với cày cuốc, bỗng một người lạ mặc áo đỏ, đội nón đến gần chúng tôi trên một con ngựa. Người đó dừng lại và hỏi:
- Ông kia, anh có biết trâu của mình mỗi ngày có thể cày được bao nhiêu đường không?
Trước khi tôi kịp trả lời, đứa con trai đã nhanh chóng nói:
- Nếu ông trả lời đúng bao nhiêu bước mỗi ngày mà ngựa của ông đi, tôi sẽ tiết lộ cho ông biết mỗi ngày trâu của cha tôi cày được bao nhiêu đường.
Người quan nghe xong, khuôn mặt tỏ ra sửng sốt. Rồi ông ta chào tạm biệt chúng tôi và cuộc ngựa đi một cách thẳng thừng.
Một vài ngày sau, người dân trong làng chúng tôi nhận được một chiếu lệnh từ triều đình. Nhà vua ban tặng ba thúng gạo nếp cùng ba con trâu đực cho làng với điều kiện phải nuôi chúng đến khi có thể đẻ ra chín con. Nếu vào năm sau mà làng không thực hiện đúng yêu cầu thì phải chịu trách nhiệm. Mọi người trong làng đều lo lắng. Tôi đã về nhà và kể lại cho cậu con trai nghe. Nghe xong, đứa bé liền nói với tôi:
- Đó chính là phần thưởng mà vua đã ban cho làng ta. Cha nên yêu cầu một con trâu và một thúng gạo để chuẩn bị cho việc đi đến kinh đô lo việc.
Thấy con trai có ý kiến khá thông minh, tôi chỉ trích một cách nhẹ nhàng:
- Việc vua giao chưa xong, con còn đủ thời gian để lo liệu. Thịt trâu rồi sẽ có phần của riêng con. Cha đừng lo, con đã suy nghĩ kỹ lưỡng rồi. Mọi chuyện sẽ ổn thôi cha ạ.
Thằng bé quả quyết nói:
- Con đã tính toán kỹ lưỡng, cha hãy yên tâm để con lo liệu. Mọi chuyện sẽ suôn sẻ thôi cha ạ.
Mặc dù có phần phân vân với lời của cậu con trai, tôi vẫn quyết định đưa vấn đề ra trước mặt làng. Người nghe xong câu chuyện đều cảm thấy bất ngờ và bắt hai cha con tôi viết giấy cam đoan với làng.
Sau một thời gian, tôi cùng con trai lên đường đến kinh thành. Khi phí đi đường đã hết, chúng tôi cũng đã đến được kinh đô. Thằng bé bảo tôi đợi ngoài cửa. Trong khi đó, nó khóc rất nhiều, khiến nhà vua phải sai lính đưa hai cha con tôi vào. Tôi ở bên ngoài lo lắng không ngớt. Tuy nhiên, khi họ ra ngoài, không có chuyện gì xảy ra và còn được nhận thưởng từ vua. Trên đường trở về, khi nghe thằng bé kể lại, tôi mới hiểu rõ hơn về sự việc. Khi thằng bé vào cung, nhà vua hỏi:
- Thằng bé ơi, ngươi có chuyện gì đau lòng mà phải đến đây khóc ầm ĩ như vậy, làm xôn xao cả triều đình?
Khi nghe vua hỏi, đứa con của tôi liền đáp:
- Ông vua nhân từ, con từ nhỏ đã mất mẹ, con ước ao có một em để chơi cùng, nhưng cha không chịu tái hôn. Con xin ông vua xem xét giúp con.
Vua nhìn về phía con tôi, sau đó phát ngôn:
- Gia đình ngươi muốn có em thì phải thuyết phục cha ngươi lấy vợ mới. Bởi cha ngươi là người đàn ông, không thể làm việc đó cho con được.
Nghe lời vua, đứa bé ngay lập tức đáp lại:
- Vậy tại sao vua lại ra lệnh yêu cầu làng phải nuôi trâu đực để sinh ra chín con? Trâu đực làm sao có thể sinh con được ạ?
Vua cười toe toét nói:
- Đó chỉ là một cách để thử lòng của dân làng thôi, họ có biết cách chuẩn bị mâm cỗ không?
Đứa bé phấn khích đáp lại:
- Thưa ngài, làng chúng con biết đó là ân huệ của ngài nên đã mổ trâu, nấu xôi để tổ chức tiệc ăn cùng nhau ạ!
Khi nghe điều đó, mọi người trong làng đều phấn khởi và gật đầu đồng ý.
Sau đó, hai cha con tôi được vua mời lại cung điện ở lại một vài ngày để nghỉ ngơi và phục hồi sức khỏe. Ngày hôm sau, trong lúc đang cùng nhau ăn trưa, một sứ giả của vua đến và đưa cho chúng tôi một con chim sẻ, yêu cầu chúng tôi phải chế biến nó thành ba bữa ăn. Khi nghe điều này, tôi hoảng sợ vì con chim nhỏ như vậy làm một bữa cơm cũng đã khó, chưa kể làm ba. Tôi đã đề nghị sứ giả báo lại vua về sự việc. Nhưng trước khi kịp làm gì, thằng bé nhanh nhẹn lấy lấy chiếc kim may từ tôi và nói:
- Cha hãy đưa cái kim này cho con đi. Sau đó, thằng bé nói tiếp:
- Cha có thể mang cái kim này trở lại với vua và nói rằng hãy rèn nó thành một cây dao để xẻ thịt con chim. Người sứ nghe vậy liền trở về báo vua. Hôm sau, vua đã ban thưởng hậu hĩnh cho hai cha con tôi.
Quay về quê hương, cuộc sống trở nên phong phú hơn. Trong khi đó, láng giềng bên kia biên giới đang âm mưu xâm chiếm. Dân tài của chúng ta được rộng rãi biết đến, họ muốn kiểm chứng dân tài của chúng ta bằng cách đặt một câu đố khó khăn: một con ốc dài, hai đầu trống rỗng, làm sao có thể sử dụng một sợi chỉ xuyên qua ruột ốc. Khi đặt ra câu đố này, cả thần linh và nhà vua đều không thể tìm ra câu trả lời. Cuối cùng, họ phải nhờ đến sự thông minh của con trai tôi để giúp đỡ đất nước.
Lúc đó, tôi đang bận rộn với nồi cơm trong nhà, trong khi đứa bé chơi đùa sau nhà với bọn trẻ hàng xóm. Khi nghe về câu đố từ sứ giả, đứa trẻ vội vã hát lên:
“Tang tính tang, tính tình tang
Bắt con kiến, chỉ cần một sợi chỉ qua lưng
Khi nào cần giấy, lấy giấy ra
Khi nào cần mỡ, bôi mỡ vào
Tang tình tang…”
Sau khi nghe xong, viên quan vội vàng trở về cung điện. Vài ngày sau đó, vua đã phong con trai tôi làm quan và mời cả cha và con vào cung. Tôi rất tự hào về đứa con của mình.
Vai người cha kể lại câu chuyện về đứa trẻ thông minh - Phần 2
Tôi là một người nông dân hiền lành. Vợ mất sớm, tôi phải nuôi con một mình. Tôi và con sống trong bình yên ở một ngôi làng nhỏ. Một ngày nọ, khi tôi và con đang cày bừa cho vụ mùa mới, một viên quan bất ngờ xuất hiện. Khi tiến lại gần, viên quan đó hỏi:
- Ông, trâu của ông cày một ngày được bao nhiêu đường?
Tôi bối rối, không biết phải trả lời thế nào, nhưng trước khi tôi kịp trả lời, đứa con trai nhanh chóng nói:
- Xin ông hãy trả lời câu hỏi này trước. Nếu ông có thể cho biết con ngựa của ông mỗi ngày đi được bao nhiêu bước, tôi sẽ nói cho ông biết trâu của cha tôi cày một ngày được bao nhiêu đường.
Viên quan nghe câu trả lời đó thì ngạc nhiên. Không lâu sau đó, nhà vua quyết định ban ba thúng gạo nếp và ba con trâu đực cho làng tôi, yêu cầu phải chăm sóc cho ba con trâu đó sao cho chúng có thể sinh sản ra chín con, và cam kết phải đem nộp đủ vào năm sau, nếu không sẽ bị trừng phạt.
Nhận lệnh của vua, cả làng đều lo lắng. Khi trở về nhà, con tôi ngay lập tức nói với tôi:
- Ông ơi, chả bao giờ lành lặn khi được vua ban lộc. Bố nói với làng là hai con trâu và hai thúng gạo nếp sẽ dành cho mọi người ăn một bữa no say. Còn lại một con trâu và một thúng gạo, chúng ta sẽ xin làng chấp nhận làm phí tổn cho việc của bố con.
Tôi tỏ ra nghi ngờ, nói với con:
- Nếu vua đã ban lệnh như thế, làng làm sao dám phản đối. Con đừng nghĩ như thế, tránh gặp rắc rối.
Nhưng con vẫn quyết định, nói đã nghĩ ra giải pháp. Hôm sau, tôi sớm dậy, đến đình để thông báo cho dân làng. Ban đầu, mọi người đều rất ngạc nhiên và hoang mang, nhưng sau khi bố con tôi cam đoan bằng văn bản, họ mới đồng ý ngả trâu đánh chén.
Tôi cùng với đứa bé bước vào hoàng cung để tìm đến đức vua. Khi đến, đứa bé bảo tôi đứng ở ngoài, còn nó thì lẻn vào sân rồng và khóc lên. Tôi lo lắng nhưng không biết phải làm gì ngoài việc đứng đợi bên ngoài. Sau khi ra ngoài, khi nghe đứa bé kể, tôi mới hiểu mọi chuyện. Sau khi vào trong, nhà vua hỏi đứa bé:
- Bạn kia, có gì mà phải khóc oan ức, làm ầm ĩ cả hoàng cung?
Đứa bé bình tĩnh trả lời:
- Con mất mẹ từ nhỏ và cha không chịu tái hôn để có em bé cho con chơi, nên con đã khóc. Mong vua sẽ phán bảo cho cha con cho con có được em bạn.
Nghe lời đứa bé, vua và triều thần đều bật cười. Vua phán:
- Để có em, ông phải tìm vợ khác, vì ông là con đực, không thể sinh em được!
Nó tiếp tục nói:
- Vậy sao vua lại ra lệnh cho làng chúng tôi nuôi ba con trâu đực để sinh ra chín con, khi mà trâu đực không thể sinh con được!
Vua cười và nói:
- Đó chỉ là thử thách mà thôi! Liệu làng chúng mày không biết cách giết trâu để ăn sao?
Thằng bé vui vẻ trả lời:
- Đức vua ạ, khi làng chúng con nhận được trâu và gạo nếp, mọi người biết đó là lời phúc của vua, nên đã tổ chức một buổi ăn mừng cùng nhau.
Vua rất hài lòng và thưởng cho thằng bé, sau đó cho người dẫn hai cha con tôi về quán trọ. Ngày hôm sau, hai cha con tôi đang ăn tại quán trọ thì có sứ giả mang đến một con chim sẻ và yêu cầu họ phải chuẩn bị ba bàn ăn. Không chần chừ, thằng bé nhanh chóng nghĩ ra một ý tưởng, yêu cầu tôi lấy một cái kim may đưa cho sứ giả và nói:
- Xin ông mang cái này đến cho vua, xin vua rèn cho tôi thành một chiếc dao để chế biến thịt chim.
Ngay lập tức, vua mời cả hai cha con tôi vào, và ban thưởng rất lớn. Trong khi đó, có nước láng giềng liên tục đe dọa xâm lược đất nước của chúng ta. Họ đã gửi một viên sứ giả đến để thử lòng dũng cảm và trí tuệ của dân ta. Viên sứ giả mang theo một con ốc vặn dài, hai đầu trống rỗng và một sợi chỉ nhỏ, và đặt ra câu đố làm thế nào để xâu sợi chỉ qua ruột của con ốc. Mọi người đã cố gắng từ miệng hút đến bôi sáp vào chỉ, nhưng không thành công. Vua quyết định mời sứ giả ở lại và kéo dài thời gian để tìm kiếm ý kiến của con trai tôi. Lúc đó, tôi đang bận rộn trong bếp, còn thằng bé đang vui chơi ngoài sân với bạn bè. Nghe tin, nó chỉ hát một câu:
“Tang tính tang, tính tình tang
Bắt con kiến càng, buộc chỉ ngang lưng
Bên thời lấy giấy mà bưng
Bên thời bôi mỡ, kiến mừng kiến sang
Tang tình tang, tính tình tang!”
Viên quan hiểu được, vui mừng quay về báo cáo với nhà vua. Ngay sau đó, nhà vua cho người đến đón hai cha con tôi vào cung. Thằng bé được phong làm trạng nguyên, và cũng được giao nhiệm vụ xây dựng một lâu đài ngay trong khuôn viên hoàng cung để tiện việc thăm hỏi.