Mytour cung cấp Mẫu văn lớp 6: Viết đoạn văn ghi lại suy tưởng về bài thơ lục bát.
Tài liệu gồm dàn ý và 29 mẫu văn, dành cho học sinh lớp 6. Ngoài ra, bạn đọc có thể xem thêm về cách viết đoạn văn cảm nhận về câu thơ, đoạn thơ để biết cách viết đoạn văn tảm tưởng.
Bố cục viết đoạn văn diễn đạt cảm nhận về bài thơ lục bát
1. Bước đầu
Giới thiệu tựa đề bài thơ, tác giả (nếu có), và suy tưởng tổng quát về bài thơ.
2. Phần chính
- Đề cập đến những điểm nổi bật về nội dung hoặc nghệ thuật của bài thơ khiến em cảm thấy yêu thích và phản ánh được nhiều cảm xúc và suy nghĩ. Ví dụ: bài thơ nói về đề tài gia đình ấm áp, về tình thân thương giữa các thành viên trong gia đình...; về hình thức, bài thơ sử dụng thể lục bát phổ biến, gần gũi, có cách sắp xếp câu vần và ngắt nhịp phù hợp với nội dung tình cảm gia đình...
- Liệt kê các lý do khiến em yêu thích bài thơ. Ví dụ: về nội dung, bài thơ gợi lại trong em những kí ức, tình cảm, cảm xúc đặc biệt về ông bà, cha mẹ... ; về nghệ thuật, tác giả đã sử dụng ngôn từ, hình ảnh sống động, hấp dẫn; các kỹ thuật văn chương và cách gieo vần, ngắt nhịp độc đáo của thể lục bát...
3. Phần kết
Tóm tắt lại cảm nhận của em về ý nghĩa của bài thơ.
Viết về cảm nhận về bài thơ lục bát - Ca dao
Mẫu văn số 1
Trong số những bài ca dao tả vẻ đẹp của quê hương, đất nước, có một bài thơ mang lại nhiều cảm xúc cho người đọc:
“Gió đưa cành trúc la đà,
Tiếng chuông Trấn Võ canh gà Thọ Xương.
Mịt mờ khói toả ngàn sương,
Nhịp chày Yên Thái, mặt gương Tây Hồ”
Vẻ đẹp của Thăng Long - mảnh đất văn hiến hàng nghìn năm đã được tác giả dân gian tường thuật trong bốn câu văn ngắn. Bằng ngôn từ sắc sảo, khung cảnh Thăng Long hiện ra như một bức tranh cổ điển lộng lẫy. Tác giả dân gian đã tạo ra những hình ảnh sống động, đậm chất thiên nhiên như cành trúc la đà, khói sương phủ mờ, mặt hồ Tây Hồ. Cảnh vật thiên nhiên hiện lên với sự trữ tình, thơ mộng. Tiếng chuông Trấn Võ kêu vang cùng tiếng gà Thọ Xương canh gà sớm. Tiếng chày Yên Thái nhấp nhô nhắc nhở về nét đẹp truyền thống của làng nghề lâu đời Yên Thái. Và không thể không nhắc đến vẻ đẹp của hồ Tây bên dòng sông với bức màn sương mờ. Vẻ đẹp của cảnh thiên nhiên khiến người đọc xiêu lòng, say mê. Từ đó, chúng ta càng tự hào hơn về quê hương, đất nước của mình.
Mẫu văn số 2
Những câu ca dao đã thể hiện tình yêu sâu đậm đối với thiên nhiên, quê hương của dân tộc. Trong số đó, bài ca dao “Đường lên xứ Lạng bao xa” là một ví dụ điển hình:
“Đường lên xứ Lạng bao xa?
Cách một trái núi với ba quãng đồng.
Ai ơi đứng lại mà trông:
Kìa núi thành Lạng, kìa sông Tam Cờ”
Bắt đầu bằng một câu hỏi tưởng chừng đơn giản, bài ca dao tiếp tục bày tỏ sự thông hiểu dí dỏm. Thông qua đó, hình ảnh về vẻ đẹp của quê hương Lạng Sơn được vạch ra một cách sinh động nhất. Câu hỏi khởi đầu “Đường lên xứ Lạng bao xa?” ban đầu cho thấy con đường như thế nào đó dễ dàng và gần gũi bởi không gian không có vẻ xa cách. Nhưng câu trả lời mới thực sự làm nổi bật ý nghĩa sâu xa của nó. Khi nói về khoảng cách “cách một trái núi với ba quãng đồng”, thể hiện rằng đây là một hành trình dài, đi sâu vào lòng núi rừng. Trên nền thiên nhiên hùng vĩ ấy, con người có thể nhìn ra núi thành Lạng và sông Tam Cờ. Vẻ đẹp của thiên nhiên và con người tạo nên một bức tranh sống động, làm cho mỗi người thêm tự hào về quê hương, đất nước.
Mẫu văn số 3
Trong kho tàng ca dao Việt Nam, có nhiều câu ca ngợi công lao to lớn của những người sinh thành. Một trong những bài ca dao đó là:
“Công cha như núi cao trường trùng
Nghĩa mẹ tựa biển khơi bao la
Đỉnh núi non cao biển rộng mênh mông
Cù lao chín chữ ghi lòng con ơi”
Bài ca dao với cách diễn đạt so sánh sử dụng hình ảnh “công cha” và “nghĩa mẹ” với “núi cao” và “biển khơi” để tôn vinh sự lớn lao, vô tận của tình cha, mẹ. Cù lao chín chữ ghi lòng con là nhắc nhở về công lao của cha mẹ nuôi con dạy dỗ. Mỗi con phải nhớ về công ơn ấy và sống trách nhiệm hơn. Bài ca dao giúp hiểu rõ hơn về lòng hiếu thảo.
Mẫu văn số 4
“Anh em mà xa cách đường dài
Cùng chung bác mẹ, một nhà vơi lòng
Tình anh em như tay chân gắn bó
Hai tâm hòa thuận, vui vầy bên nhau”
Bài ca dao giúp tôi hiểu về mối quan hệ thân thiết giữa các thành viên trong gia đình. Điều đầu tiên là sự gắn bó giữa anh em, cùng chia sẻ với nhau, sống hòa thuận để mang lại hạnh phúc cho gia đình. Thông điệp nhân văn được truyền tải qua bài ca dao là một bài học quý giá cho chúng ta.
Mẫu văn số 5
Trong tủ sách ca dao Việt Nam, em đặc biệt ấn tượng và yêu thích bài:
“Trong đầm nào có vẻ đẹp hơn sen
Lá xanh, hoa trắng, nhụy vàng xen nhau
Nhụy vàng, hoa trắng, lá xanh
Gần bùn vẫn không hôi tanh mùi bùn”
Bài ca dao không chỉ miêu tả vẻ đẹp của hoa sen mà còn ám chỉ đến phẩm chất cao quý của con người. Bắt đầu bằng câu hỏi “Trong đầm nào có vẻ đẹp hơn sen?”, bài thơ khẳng định vẻ đẹp xuất sắc của hoa sen so với mọi loài hoa khác. Mô tả vẻ đẹp của hoa sen thông qua các yếu tố như màu sắc và hình dáng, đồng thời ám chỉ đến tinh thần cao quý, thanh nhã của con người Việt Nam. Dù sống trong môi trường khó khăn nhưng con người vẫn giữ được tâm hồn trong sáng và tốt đẹp. Bài thơ với thể lục bát giàu cảm xúc và ngôn từ mộc mạc, tinh tế thể hiện được cái đẹp của con người Việt Nam.
Mẫu văn số 6
Bài học từ ca dao thường rất sâu sắc, trong đó em thích câu này:
“Ai trong chúng ta cũng là anh em
Cùng cha mẹ, cùng một nhà cùng một mái ấm
Yêu thương nhau như tay và chân
Đoàn kết, hòa thuận, gia đình hạnh phúc vui vầy”
Câu ca dao này nói về mối quan hệ gia đình giữa anh, chị và em. Từ 'anh em' đại diện cho tất cả thành viên trong gia đình. Đầu tiên, nó khẳng định rằng mọi người trong gia đình đều có mối quan hệ mật thiết, không phải người xa lạ. Họ chia sẻ cùng một nguồn gốc và số phận. Hai câu sau nhấn mạnh về tình thương gia đình cần phải như tay và chân, cần phải đoàn kết và hòa thuận. So sánh này nhấn mạnh sự quan trọng của sự hòa thuận và đồng lòng trong gia đình, giống như cách tay và chân làm việc cùng nhau để đảm bảo sự di chuyển và sức khỏe của cơ thể. Bài ca dao này truyền đạt một thông điệp quan trọng về tình thương và đoàn kết trong gia đình.
Mẫu văn số 7
Ca dao thường ca ngợi công lao của cha mẹ, và bài này cũng không ngoại lệ:
“Cha như núi Thái Sơn
Mẹ như dòng nước trong nguồn chảy ra biển
Cùng lòng thương cha kính mẹ
Hiếu nghĩa con tròn trên đạo”
Bài ca dao sử dụng so sánh tinh tế giữa cái trừu tượng và cái cụ thể. 'Công cha' được so sánh với 'núi Thái Sơn', 'nghĩa mẹ' với 'dòng nước trong nguồn chảy ra biển' để thể hiện sự to lớn của công ơn cha mẹ. Họ không chỉ mang lại sự sống mà còn dạy bảo và nuôi dưỡng con chúng ta. Câu 'Cùng lòng thương cha kính mẹ' nhấn mạnh tinh thần hiếu nghĩa, lòng biết ơn cha mẹ. Bằng cách hiểu được những điều này, chúng ta mới thấu hiểu được sự vất vả của cha mẹ và có trách nhiệm sống hiếu thảo. Bài ca dao gửi gắm một bài học ý nghĩa về lòng hiếu thảo.
Đoạn văn mẫu số 8
Trong kho tàng ca dao Việt Nam, có nhiều bài ca ca ngợi công ơn của cha mẹ, nhưng tôi thích nhất là bài này:
“Công cha như núi Thái Sơn
Nghĩa mẹ như dòng nước trong nguồn chảy ra biển
Một lòng thờ cha, kính mẹ
Hiếu nghĩa con, là đạo con”
Qua bài ca dao, tác giả dân gian đã nhấn mạnh công ơn to lớn của cha mẹ và khuyên nhủ con cái phải biết hiếu thảo với họ. Bằng cách so sánh 'công cha' với 'núi Thái Sơn', và 'nghĩa mẹ' với 'nước trong nguồn chảy ra biển', tác giả thể hiện sự lớn lao và hy sinh của cha mẹ. Cha dạy bảo con những điều đúng đắn, hướng dẫn con trở thành người có đạo đức. Mẹ hy sinh vì con, nuôi dưỡng con từng giọt sữa. Bài ca dao đã gửi gắm một bài học sâu sắc về lòng hiếu thảo.
Đoạn văn mẫu số 9
Dân tộc Việt Nam có phẩm chất tốt đẹp, được thể hiện qua bài ca dao:
“Sen trong đầm đẹp nhất
Lá xanh, bông trắng, nhụy vàng
Nhụy vàng, bông trắng, lá xanh
Gần bùn mà không hôi tanh”
Bài ca dao mượn hình ảnh hoa sen để biểu hiện phẩm chất của con người. So sánh 'sen trong đầm' với 'con người trong xã hội', nhấn mạnh sự đặc biệt và cao quý. Hoa sen sống trong môi trường khó khăn nhưng vẫn giữ được sự tinh khiết và thanh cao. Tương tự, con người Việt Nam sống trong hoàn cảnh khó khăn nhưng vẫn giữ được phẩm chất tốt đẹp. Bài ca dao này thể hiện vẻ đẹp và cao quý của con người Việt Nam.
Đoạn văn mẫu số mười
Bài ca dao: “Như trái bần trôi/Mây vờn gió hát ngân nga hồn mình.” giúp người đọc hiểu sâu hơn về số phận của phụ nữ trong xã hội cổ đại. Khoan thai bằng những từ ngữ quen thuộc - “như trái bần trôi” gợi lên sự mềm mại, mong manh và khiêm nhường. Cùng với đó là hình ảnh so sánh với cuộc đời và định mệnh của người phụ nữ. Trái bần có vị vừa chua, vừa chát giống với cuộc sống khó khăn của phụ nữ xưa. Trái bần khi già thường rụng xuống sông ngòi, lênh đênh theo dòng nước. Tiếp đến câu thơ “Mây vờn gió hát ngân nga hồn mình.” là một câu hỏi mang ý thức sâu xa, trách nhiệm nhiều hơn. Nếu như trái bần trôi giữa dòng nước chẳng biết về đâu. Thì cuộc đời của người phụ nữ cũng như vậy. Lễ giáo cổ đại quan niệm nam trọng nữ khiến cho phụ nữ không có quyền kiểm soát số phận của mình. Họ phải sống phụ thuộc vào người khác - không có quyền tự do yêu đương, kết hôn. Bài ca dao giúp chúng ta thêm trân trọng những người phụ nữ hơn.
Đoạn văn mẫu số mười một
Ca dao đã có rất nhiều câu ca ngợi công lao của cha mẹ. Một trong số đó là bài ca dao:
“Công cha như núi thạch thùng
Nghĩa mẹ như dòng sông uốn lượn nơi chân trời xa.”
Núi cao biển rộng thêm vẻ đẹp cho cuộc sống
Lòng con như trang sách viết dấu ấn mãi.”
Trước hết, bài ca dao sử dụng hình ảnh so sánh “công cha” với “núi cao”; “nghĩa mẹ” với “dòng nước ở biển Đông”. Cách so sánh lấy cái trừu tượng của tình phụ tử, mẫu tử để so sánh với cái mênh mông, vĩnh cửu của trời đất, thiên nhiên. Công cha so với núi cao là khẳng định sự lớn lao, nghĩa mẹ so với nước biển Đông là để khẳng định chiều sâu, chiều rộng và sự dồi dào. Còn nhắc tới “cù lao chín chữ” là nhắc đến công lao của cha mẹ nuôi con vất vả nhiều bề. Chín chữ cù lao gồm có sinh (đẻ), cúc (nâng đỡ), phủ (vuốt ve), súc (cho bú, cho ăn), trưởng (nuôi cho lớn), dục (dạy dỗ), cố (trông nom), phục (theo dõi tính tình mà uốn nắn), phúc (che chở). Bởi vậy mà đứa con cần phải ghi nhớ công ơn trời bể đó, cũng như sống có trách nhiệm hơn. Bài ca dao giúp mỗi người hiểu hơn về công ơn của cha mẹ.
Đoạn văn mẫu số mười hai
“Gió khe khẽ đưa cành trúc la đà,
Tiếng chuông chùa Trấn Võ canh gà ở làng Thọ Xương.
Làn khói sương mờ phủ khắp không gian,
Nhịp chày Yên Thái, mặt hồ Tây Hồ trong gương.”
Bài ca dao đã đem đến cho người đọc ấn tượng sâu sắc về vẻ đẹp của khung cảnh hồ Tây. Tác giả dân gian đã vẽ nét một bức tranh đầy thơ mộng, trữ tình. Thiên nhiên hồ Tây hiện lên sinh động, mà lãng mạn. Bầu trời mùa thu trong xanh, khoáng đạt. Những cơn gió khe khẽ đưa làm lay động cành trúc. Âm thanh của tiếng chuông chùa ngân vang hòa cùng tiếng gà gáy báo canh gợi ra một cuộc sống sôi động. Cùng với đó là làn sương khói mờ ảo bao phủ không gian khiến cho khung cảnh thêm thơ mộng. Tiếng chày nhịp nhàng đã gợi ra vẻ đẹp truyền thống của người dân đất Thăng Long xưa với nghề làm giấy ở làng Yên Thái. Cuối cùng là vẻ đẹp của mặt hồ Tây ẩn trong khói sương mịt mù chợt hiện ra như một tấm gương long lanh dưới ánh nắng mai. Những âm thanh nhịp nhàng vang vọng từ tiếng chuông chùa, tiếng gà gáy đến tiếng chày giã giấy cũng báo hiệu cho một ngày mới đã bắt đầu. Sức sống đang trỗi dậy khắp mọi không gian. Bài thơ giúp cho người đọc thêm yêu vẻ đẹp mảnh đất Thăng Long.
Đoạn văn mẫu số mười ba
“Đường lên xứ Lạng dài bao xa?
Một trái núi cách ba đồng lúa.”
Ai đứng lại mà chờ đợi:
Đó là núi thành Lạng, sông Tam Cờ”
Đến với bài ca dao trên, người đọc cảm thấy ấn tượng về mảnh đất xứ Lạng. Mở đầu bài thơ là một câu hỏi tư từ “Đường lên xứ Lạng dài bao xa?” nhưng lại giống như một lời gợi mở. Tưởng rằng con đường lên xứ Lạng dài bao xa. Nhưng thực tế lại “một trái núi cách ba đồng lúa” cho thấy sự xa xôi, cách trở của mảnh đất này. Từ đó, chúng ta thấy được hết sự hùng vĩ, rộng lớn của mảnh đất xứ Lạng. Những địa danh như núi thành Lạng, sông Tam Cờ đều là những địa danh nổi tiếng của vùng đất quê hương này. Khi đọc bài ca dao này, chúng ta càng yêu thêm khung cảnh của mảnh đất xứ Lạng.
Đoạn văn mẫu số mười bốn
“Công cha như núi cao vút trời
Nghĩa mẹ như dòng nước mênh mông biển Đông
Núi cao biển rộng vô cùng
Cù lao chín chữ khắc lòng con ơi”
Bài ca dao được viết theo thể thơ lục bát mang âm điệu trầm bổng tựa như lời ru ngọt ngào của người mẹ. Mượn những hình ảnh thiên nhiên để nói đến công lao to lớn của cha mẹ đối với con cái. Tác giả dân gian đã dùng cái to lớn, vĩ đại của thiên nhiên - đó là “núi”, “biển” để thể hiện công lao sinh thành, dưỡng dục của cha mẹ. Người cha có công sinh thành, dưỡng dục và dạy dỗ cho con nhiều điều hay lẽ phải. Người mẹ mang nặng đẻ đau chín tháng mười ngày. Không chỉ vậy, đứa con sinh ra còn được mẹ chăm sóc, bảo vệ từng miếng ăn, cái mặc. Hình ảnh “cù lao chín chữ” muốn nói về công lao của cha mẹ nuôi con vất vả nhiều bề. Và chín chữ ở đây cù lao gồm có sinh (đẻ), cúc (nâng đỡ), phủ (vuốt ve), súc (cho bú, cho ăn), trưởng (nuôi cho lớn), dục (dạy dỗ), cố (trông nom), phục (theo dõi tính tình mà uốn nắn), phúc (che chở). Câu thơ giống như một lời nhắn nhủ, khuyên bảo con cái phải ghi nhớ công ơn của cha mẹ. Qua bài ca dao, người đọc mới thấu hiểu được công ơn của cha mẹ lớn đến nhường nào.
Đoạn văn ghi lại cảm nghĩ về bài thơ lục bát - Hoa bìm
Đoạn văn mẫu số một
“Hoa bìm” là một bài thơ hay của nhà thơ Nguyễn Đức Mậu viết về vẻ đẹp của làng quê Việt Nam. Tác giả đã tái hiện lại bức tranh thiên nhiên làng quê với những sự vật quen thuộc, gần gũi. Hình ảnh “giậu hoa bìm” có vai trò mở ra trang kí ức về tuổi thơ. Tác giả không chọn những loài hoa cao quý như hoa hồng, hoa mai... mà lại chọn một loại hoa giản dị, nhưng xuất hiện rất nhiều ở các làng quê Việt Nam. Có thể thấy rằng, chúng ta đi tới bất kì một ngõ nào cũng có thể thấy được hoa bìm. Bởi vậy mà loài hoa này giống như chất chứa những kỉ niệm đẹp đẽ của tuổi thơ trong mỗi đứa trẻ nông thôn. Để rồi từ đó, tất cả những hình ảnh bình dị nhất, gần gũi nhất đã hiện về trong kí ức của tác giả. Đó có thể là chú chuồn chuồn ớt lơ ngơ đậu hờ trên nhành gai ươm hồng cả một trời tuổi thơ của trẻ em. Hay là mảnh vườn đầy nắng với cây hồng trĩu quả ngọt ngào ru êm cho buổi trưa mùa hè yên ả. Và cả cánh diều tuổi thơ vẫn bay lượn trên bầu trời. Hay bến nước, con thuyền và những con côn trùng cất bản đồng ca cho tuổi thơ thêm thi vị. Tất cả hiện lên dưới đôi mắt hồn nhiên mà mở đầu là hình ảnh giậu hoa bìm. Đến hai câu thơ cuối cùng, tác giả đã bộc lộ nỗi nhớ về những kỉ niệm tuổi thơ êm đềm về một người bạn đã xa. Câu hỏi tu từ như để gửi gắm nỗi lòng còn chất chứa trong tâm trí của nhà thơ. Một câu hỏi đặt ra nhưng chỉ dội lại những bâng khuâng nơi lòng người hỏi. Câu thơ phảng phất nỗi lòng thương nhớ người bạn thơ ấu, và quê hương của nhà thơ. Có thể khẳng định rằng, bài thơ “Hoa bìm” đã tái hiện vẻ đẹp bình yên của làng quê đồng thời thể hiện tình yêu thầm kín đối với quê hương thôn dã, và sự trân quý với những kỉ niệm bình yên của mình.
Đoạn văn mẫu số hai
Bài thơ “Hoa bìm” của Nguyễn Đức Mậu đã gợi cho tôi cảm nhận về vẻ đẹp của làng quê Việt Nam. Tác giả đã nhắc đến một hình ảnh vô cùng quen thuộc nơi làng quê Việt Nam - giậu hoa bìm. Đây là loài hoa gợi nhắc cho tác giả những kỉ niệm về tuổi thơ. Hình ảnh chú chuồn chuồn ớt lơ ngơ đậu hờ trên nhành gai ươm hồng cả một trời tuổi thơ của trẻ em. Mảnh vườn đầy nắng với cây hồng trĩu quả ngọt ngào ru êm cho buổi trưa mùa hè yên ả. Cánh diều tuổi thơ vẫn bay lượn trên bầu trời. Cả bến nước, con thuyền và những con côn trùng cất bản đồng ca cho tuổi thơ thêm thi vị. Đến hai câu thơ cuối, tác giả đã bộc lộ cảm xúc qua câu hỏi tu từ “Mười năm chốn cũ, em chưa hẹn về…?”. Hỏi đấy mà dường như không có câu trả lời, gợi lên nỗi lòng chất chứa. Câu thơ phảng phất nỗi lòng thương nhớ người bạn thơ ấu, và quê hương của nhà thơ. Đọc bài thơ, chúng ta cảm nhận được vẻ đẹp thật bình dị của làng quê Việt Nam, cũng như nỗi lòng yêu mến quê hương và trân quý những kỉ niệm bình yên của mình.
Đoạn văn mẫu số ba
Một trong những bài thơ mà tôi thích nhất là “Hoa bìm” của Nguyễn Đức Mậu. Khung cảnh của làng quê Việt Nam hiện lên đẹp mơ mộng dưới bút của tác giả. Giậu hoa bìm là hình ảnh đã gợi nhớ về những kỷ niệm thơ ấu. Cảnh chú chuồn chuồn ớt lơ ngơ đậu hờ trên nhành gai ươm hồng cả một trời tuổi thơ. Mảnh vườn nắng đầy cây hồng trĩu quả ngọt ngào ru êm cho buổi trưa mùa hè. Cánh diều tuổi thơ vẫn bay lượn trên bầu trời. Bến nước, con thuyền và những con côn trùng kể bản đồng ca cho tuổi thơ thêm vui. Tất cả hiện lên qua những câu thơ ngắn gọn mà giàu hình ảnh. Ở hai câu cuối, tác giả đặt ra câu hỏi tu từ “Mười năm chốn cũ, em chưa hẹn về…?” nhưng thực ra là bộc lộ tâm trạng. Đó là nỗi lòng nhớ nhung người bạn thơ ấu và quê hương. Bài thơ đã mang lại cho tôi rất nhiều cảm xúc đẹp đẽ.
Đoạn văn ghi lại cảm nghĩ về bài thơ lục bát - Về thăm mẹ
Tìm ý bài thơ về thăm mẹ
Đoạn văn mẫu số một
Khi đọc bài thơ “Về thăm mẹ” của tác giả Đinh Nam Khương, tôi rất cảm động về tình cảm mẹ con thiêng liêng. Vào một chiều đông, người con trở về thăm mẹ, những hình ảnh quen thuộc trong nhà cũ hiện lên trong mắt. Mẹ không có nhà, ngồi ngoài hiên, nhìn căn nhà xưa với những kỉ niệm đậm đà. Chum tương đã đậy, áo tơi lủn củn khoác hờ người rơm, đàn gà mới nở, trái na cuối vụ mẹ dành cho con. Những hình ảnh ẩn dụ này thể hiện sự vất vả, hy sinh của người mẹ. Điều đó khiến người con thêm nghẹn ngào, thương mẹ nhiều hơn. Hình ảnh người mẹ hiện lên với nét đẹp vốn có, làm cho người đọc cảm động và nhớ đến mẹ của mình.
Đoạn văn mẫu số hai
Một trong những bài thơ cảm động viết về người mẹ là “Về thăm mẹ” của Đinh Nam Khương. Bài thơ là tâm sự của người con khi về thăm mẹ vào một chiều đông lạnh giá, lại có mưa. Nhìn căn nhà quen thuộc, nỗi nhớ về mẹ càng trở nên sâu sắc hơn. Mẹ không có nhà, chỉ ngồi ngoài hiên, khói bếp trôi lơ lửng. Những hình ảnh quen thuộc như chum tương, đàn gà, trái na đều gợi nhớ về mẹ. Sự gắn bó của mẹ với những sự vật trong nhà là rất sâu đậm. Người con càng thấu hiểu nỗi vất vả của mẹ, càng thêm xúc động và thương mẹ. Bằng giọng thơ sâu lắng, bài thơ đã thể hiện tình mẫu tử đáng trân trọng. Đọc bài thơ, mỗi người đều cảm nhận được tình cảm mẹ con ấm áp, đẹp đẽ.
Đoạn văn mẫu số ba
Khi đọc bài thơ “Về thăm mẹ” của Đinh Nam Khương, ta sẽ cảm thấy rất xúc động. Nhân vật trong bài là người con về thăm mẹ trong một chiều đông. Mẹ không có nhà, ngồi ngoài hiên, trời mưa. Mọi sự vật trong nhà đều gợi nhớ về mẹ. Từ chum tương, áo mẹ mặc, đàn gà, trái na... tất cả đều gắn bó với hình ảnh của mẹ. Ở hai câu thơ cuối cùng, người con bộc lộ tình cảm dành cho mẹ. Bài thơ giúp ta cảm nhận được tình cảm chân thành, thắm thiết. Có thể nói, đây là một trong những tác phẩm hay viết về tình mẫu tử.
Đoạn văn ghi lại cảm nghĩ về bài thơ lục bát - À ơi tay mẹ
Đoạn văn mẫu số một
Bài thơ “À ơi tay mẹ” của Bình Nguyên là một trong những tác phẩm hay viết về tình mẫu tử thiêng liêng. Tác giả đã sử dụng hình ảnh đôi bàn tay mẹ để nhắc đến tình cảm của mẹ dành cho con. Đôi bàn tay ấy đã che chở, bảo vệ cho con qua mọi gian khó. Mẹ gọi con là “vầng trăng”, “mặt trời bé con” để thể hiện tình cảm yêu thương. Dù biến cố có xảy ra thế nào, đôi bàn tay của mẹ vẫn luôn sẵn sàng ôm con, lời ru của mẹ vẫn cất lên. Tình yêu thương của mẹ không bao giờ thay đổi. Lời ru đó đã đem lại giấc ngủ yên bình cho con, ảnh hưởng đến mọi sự vật trong cuộc sống. Đôi bàn tay của mẹ làm nên những điều kỳ diệu, luôn ở bên con và nâng niu con trên từng bước đường đời. Bài thơ mang lại cảm xúc ngọt ngào, sâu lắng cho người đọc.
Đoạn văn mẫu số hai
Bài thơ “À ơi tay mẹ” của Bình Nguyên là một trong những tác phẩm viết về tình mẫu tử mà tôi rất yêu thích. Tác giả sử dụng hình ảnh “đôi bàn tay” để chỉ người mẹ. Đọc bài thơ, tôi cảm nhận được sức mạnh của đôi bàn tay nhỏ bé ấy. Đó là sức mạnh che chở, bảo vệ con qua mọi gian khó. Lời ru ngọt ngào của mẹ đưa con vào giấc ngủ êm đềm. Đứa con chính là “vầng trăng”, “mặt trời bé con” của mẹ. Dù thời gian trôi qua, đôi bàn tay của mẹ vẫn luôn sẵn sàng ôm con, lời ru của mẹ vẫn cất lên. Đôi bàn tay ấy chứa đựng những phép màu, tình yêu thương vô bờ bến. Đọc bài thơ, tôi hiểu hơn về tình cảm và sự hy sinh của người mẹ.
Đoạn văn mẫu số 3
Trong kho tàng văn học có nhiều tác phẩm viết về tình mẫu tử, nhưng bài thơ “À ơi tay mẹ” của Bình Nguyên là một trong những tác phẩm mà tôi rất yêu thích. Hình ảnh “đôi bàn tay” hoán dụ về người mẹ. Đôi bàn tay ấy dường như chứa đựng sức mạnh phi thường. Nhờ có mẹ, cuộc đời con luôn tràn ngập niềm vui, hạnh phúc. Đôi bàn tay ấy đã bế bồng con từ nhỏ và luôn che chở con qua những gian nan. Lời ru ngọt ngào của mẹ như là bài hát ru, mang lại cảm giác ấm áp và yên bình. Đứa con chính là niềm hy vọng, là “vầng trăng”, “mặt trời bé con” của người mẹ. Đọc bài thơ, tôi cảm nhận được tình cảm yêu thương, sự hi sinh từ người mẹ.
Đoạn văn ghi lại cảm nghĩ về bài thơ lục bát - Chuyện cổ nước mình
Đoạn văn mẫu số 1
Bài thơ “Chuyện cổ nước mình” của Lâm Thị Mỹ Dạ mở ra thế giới của những câu chuyện cổ, mang đến những giá trị nhân văn cao đẹp. Tinh thần tương thân tương ái, tình nghĩa thủy chung son sắc và ở hiền gặp lành được nhà thơ khắc họa qua những hình ảnh quen thuộc như Thạch Sanh, cô Tấm, hay anh chàng đẽo cày giữa đường. Những câu chuyện cổ đã trở thành hành trang quan trọng trong cuộc sống, gửi gắm bài học nhân văn sâu sắc. Bài thơ giúp người đọc nhận ra những bài học ý nghĩa.
Đoạn văn mẫu số 2
Bài thơ “Chuyện cổ nước mình” của Lâm Thị Mỹ Dạ khám phá thế giới của những câu chuyện cổ, thêm sự yêu mến vào kho tàng văn học của dân tộc. Tinh thần tương thân tương ái, tình nghĩa thủy chung son sắc và ở hiền gặp lành được nhà thơ tôn vinh. Các câu chuyện cổ mang lại những giá trị quý báu từ thế hệ này sang thế hệ khác. Bài thơ là một tác phẩm ý nghĩa với lời thơ giản dị, giọng điệu sâu lắng.
Bài thơ “Chuyện cổ nước mình” của Lâm Thị Mỹ Dạ đưa người đọc vào thế giới của những câu chuyện cổ, nhấn mạnh giá trị nhân văn cao đẹp. Tinh thần tương thân tương ái, tình nghĩa thủy chung son sắc hay ở hiền gặp lành được nhà thơ tôn vinh. Những câu chuyện cổ là hành trang quý giá của cuộc sống, chứa đựng bài học nhân văn sâu sắc. Bài thơ giúp người đọc hiểu rõ hơn về quá khứ, đồng thời truyền đạt sức mạnh của những câu chuyện cổ.
Đoạn văn mẫu số 3
Đoạn văn ghi chú về bài thơ lục bát - Việt Nam quê hương ta
Đoạn văn mẫu số 1
Việt Nam quê hương ta là một bài thơ xuất sắc của Nguyễn Đình Thi về đất nước, quê hương. Bốn câu thơ đầu tiên đã mô tả vẻ đẹp mênh mông, hùng vĩ nhưng cũng đầy nghệ thuật và cảm xúc. Nhà thơ đã diễn đạt những hình ảnh biểu tượng cho quê hương, con người Việt Nam như “biển lúa, cánh cò, đỉnh Trường Sơn, áo nâu nhuộm bùn, đất nghèo, hoa thơm quả ngọt”. Đồng thời, tác phẩm còn tôn vinh phẩm chất đẹp của người Việt Nam - sự chăm chỉ, kiên trì và bền bỉ. Nhà thơ cũng nhấn mạnh truyền thống đấu tranh bảo vệ đất nước của dân tộc Việt Nam. Dù phải đối mặt với kẻ thù xâm lược, nhân dân Việt Nam vẫn kiên cường, đoàn kết chống lại chúng. Đây là bài học về tinh thần kiên trì, không khuất phục và lòng yêu nước sâu đậm. Tác phẩm của Nguyễn Đình Thi đã thể hiện lòng tự hào và tình yêu sâu sắc dành cho đất nước và con người Việt Nam.
Đoạn văn mẫu số 2
Bài thơ “Việt Nam quê hương ta” đã gây ấn tượng sâu sắc trong lòng tôi. Nhà thơ đã tái hiện lại một cảnh quan thôn dã, đậm chất Việt Nam. Những hình ảnh của làng quê đã được mô tả sống động trong bài thơ. Cánh đồng lúa bát ngát, những cánh cò trắng bay lượn, và đỉnh núi Trường Sơn vững chãi nổi lên trong sương mờ. Tuy nhiên, để có được điều này, đã có bao thế hệ phải chịu đựng những đau khổ, mất mát từ cuộc chiến tranh. Đất nước đã nuôi dưỡng lên những anh hùng, những người dám hy sinh cho tổ quốc. Mặc cho những gian khổ, dân tộc Việt Nam vẫn kiên cường đấu tranh để bảo vệ tự do và độc lập. Đồng thời, tình nghĩa thủy chung và tài năng của con người Việt Nam cũng được tôn vinh. Mỗi vùng miền đều tự hào với nghề truyền thống, là niềm tự hào của đất nước. Bài thơ đã vẽ lên một bức tranh rõ nét về đất nước Việt Nam, nơi luôn tỏa sáng với vẻ đẹp và sức sống mãnh liệt.
Đoạn văn mẫu số 3
Bài thơ “Việt Nam quê hương ta” là một trong những tác phẩm hay nhất về quê hương của Nguyễn Đình Thi. Người viết đã mô tả cảnh vật và con người Việt Nam một cách sống động. Chúng ta có thể nhìn thấy những hình ảnh quen thuộc như “biển lúa, cánh cò, đỉnh Trường Sơn, áo nâu nhuộm bùn, đất nghèo, hoa thơm quả ngọt”. Đồng thời, bài thơ cũng tôn vinh phẩm chất của con người Việt Nam là sự cần cù, kiên trì. Tiếp theo, tác giả đã nhấn mạnh truyền thống chống giặc và bảo vệ đất nước của dân tộc Việt Nam. Dân tộc ta luôn đoàn kết, đấu tranh chống lại kẻ thù xâm lược. Đặc biệt, lòng thủy chung và giữ gìn giá trị truyền thống cũng được nhà thơ nhấn mạnh. Có thể nói rằng, “Việt Nam quê hương ta” đã giúp chúng ta hiểu và yêu quý đất nước hơn.