Thánh Gióng là một trong những truyền thuyết kể về anh hùng dũng mãnh chống lại quân giặc ngoại xâm. Mytour sẽ giới thiệu cho bạn Bài văn mẫu lớp 6: Tường thuật lại câu chuyện Thánh Gióng theo lời của học sinh.
Nội dung bao gồm 2 dàn ý và 21 mẫu bài văn mẫu lớp 6. Hãy cùng tham khảo để có thêm ý tưởng cho bài văn của bạn.
Kế hoạch trình bày truyện Thánh Gióng bằng lời văn của học sinh
I. Bắt đầu
Giới thiệu về truyền thuyết về Thánh Gióng.
II. Nội dung chính
1. Sự sinh ra đặc biệt của Thánh Gióng
- Trong thời kỳ Vua Hùng thứ sáu, tại làng Gióng, có một cặp vợ chồng già già chăm chỉ làm ăn, được biết đến với đức độ và may mắn, nhưng họ vẫn chưa được phúc đức với một đứa con.
- Một ngày, bà lão đi ra đồng và phát hiện ra một dấu chân to lớn, nên đã ướm vào để xem nó cỡ nào. Không ngờ, sau khi trở về nhà, bà lão lại mang thai và sau mười hai tháng, một đứa bé đã được sinh ra.
- Dù đã ba tuổi, đứa bé vẫn chưa biết nói, chỉ biết cười và đặt đâu là nằm đó.
=> Sự ra đời của đứa bé không giống bất kỳ đứa trẻ nào khác, đây là điều không theo quy luật tự nhiên. Điều này có thể là dấu hiệu của một cuộc sống phi thường đang chờ đợi đứa bé làng Gióng.
2. Sự phát triển phi thường của Gióng
- Trong thời điểm đất nước bị giặc Ân xâm lược, nhà vua quyết định gửi sứ giả đi khắp nơi tìm người tài giỏi để cứu nước.
- Khi nghe thấy tiếng của sứ giả, cậu bé ngay lập tức nói lên: “Mẹ, mời sứ giả vào đây”.
- Gióng yêu cầu sứ giả trở về và nói với nhà vua chuẩn bị “một con ngựa sắt, một cây roi sắt và một tấm áo giáp sắt” với hứa hẹn sẽ đánh bại lũ giặc này.
=> Câu nói đầu tiên của cậu bé chứa đựng lòng mong muốn tham gia vào việc đánh giặc để cứu nước cứu dân. Đó là lời nói của một đứa trẻ mới ba tuổi nhưng đã có tình yêu và trách nhiệm với đất nước và nhân dân.
- Từ khi gặp sứ giả, Gióng phát triển nhanh chóng: “Ăn cơm bao nhiêu cũng không no, áo vừa mới mặc xong đã căng đầy”.
- Vì hai vợ chồng không đủ khả năng nuôi con, họ phải cầu cứu sự giúp đỡ từ bà con hàng xóm. Cả làng đều hân hoan góp gạo để nuôi bé trai, và tất cả đều hy vọng rằng cậu bé sẽ giết giặc và cứu nước.
=> Điều này là minh chứng cho sức mạnh của tinh thần yêu nước và lòng đoàn kết của nhân dân Việt Nam. Gióng lớn lên trong sự chăm sóc và nuôi dưỡng từ cả làng.
3. Gióng chiến đấu với giặc và sự ra đi
a. Gióng chiến đấu với giặc:
- Khi giặc đến gần, Gióng tự nguyện trở thành một chiến sĩ hùng mạnh, vươn vai cao hơn cả trượng, toàn thân oai vệ và mạnh mẽ.
- Gióng sẵn sàng ra trận:
- Được mặc áo giáp và cầm roi, Gióng nhảy lên lưng ngựa.
- Ngựa của Gióng phi thẳng về phía địch, đánh giặc từ lớp này sang lớp khác, khiến chúng chết như rạ.
- Roi sắt của Gióng gãy, anh ta nhổ những cụm tre ven đường đánh vào giặc, khiến chúng tan tác và bỏ chạy.
=> Hình ảnh của một người oai phong, kiên cường, tràn đầy sức mạnh.
=> Chính sự kỳ diệu trong việc sinh ra đã dự báo trước về cuộc đời phi thường của Gióng, người mà trở thành biểu tượng cho sức mạnh của dân tộc Việt Nam.
b. Lời tạm biệt của Gióng:
- Thánh Gióng đơn độc cưỡi ngựa, lên đỉnh núi, tháo áo giáp sắt bỏ lại, sau đó cả người lẫn ngựa bay lên trời.
=> Sự ra đi của một người phi thường như Thánh Gióng cũng trở nên phi thường. Ông trở về với cõi bất tử, là biểu tượng của lòng tôn kính mà nhân dân dành cho một anh hùng góp công với đất nước.
4. Sự ghi nhớ công ơn Thánh Gióng, truyền thuyết về làng Gióng
- Vua tưởng nhớ công lao của Phù Đổng Thiên Vương, và đã lập đền thờ ở quê hương, nay gọi là làng Phù Đổng, hay làng Gióng.
- Những dấu vết còn lại cho đến ngày nay: những cây tre ngà ở huyện Gia Bình bởi dấu chân của ngựa làm mới và vàng óng như thế, những dấu chân ngựa tạo thành những ao hồ liên tiếp, và sự sôi sục của ngựa đã thiêu cháy một làng được gọi là làng Cháy...
=> Sự tin tưởng vững bền của nhân dân vào sức mạnh phi thường của dân tộc.
III. Kết luận
Tôn vinh ý nghĩa của truyền thuyết về Thánh Gióng.
Kể lại câu chuyện về Thánh Gióng bằng lời văn của em
Bài văn mẫu số một
Trong thời kỳ của Vua Hùng thứ sáu, tại làng Gióng, có một cặp vợ chồng sống một cuộc sống hiền lành, hạnh phúc. Dù đã già đến tuổi cao nhưng họ vẫn chưa có con.
Một lần, người vợ đi ra ngoài và phát hiện thấy một dấu vết chân to. Bà quyết định ướm chân vào xem nó thua kém bao nhiêu. Không ngờ, sau khi về nhà, bà thụ thai. Sau mười hai tháng, một cậu bé được sinh ra, với khuôn mặt tuấn tú, phúc hậu. Lạ thay, dù đã ba tuổi, cậu bé vẫn chưa biết nói, biết cười, và thích nằm ở bất cứ đâu.
Khi giặc Ân xâm lược đến bờ cõi nước ta, tình hình trở nên nguy cấp. Nhà vua lo lắng và quyết định sai sứ giả đi khắp nơi tìm kiếm người tài giỏi cứu nước. Khi đến làng Gióng, cậu bé nghe thấy tiếng sứ giả rao tìm người, liền nói với mẹ:
- Mẹ hãy ra mời sứ giả vào nhà cho con!
Sau khi sứ giả vào nhà, cậu bé lên tiếng nói:
- Về tâu với vua đúc cho ta một con ngựa sắt, một cái roi sắt và một tấm áo giáp sắt. Ta sẽ đánh tan lũ giặc này.
Sứ giả nghe xong, vừa kinh ngạc vừa mừng rỡ, vội vã trở về tâu với vua. Nhà vua cho truyền thợ rèn ngày đêm làm gấp những thứ cậu bé yêu cầu. Kể từ hôm gặp sứ giả, cậu bé lớn nhanh như thổi. Hai vợ chồng làm ra bao nhiêu cũng không đủ nuôi cậu bé, phải chạy nhờ bà con làng xóm. Ai cũng vui vẻ giúp đỡ vì mong cậu đánh giặc cứu nước.
Giặc đã đến chân núi Trâu. Thế nước đang lúc lâm nguy. Đúng lúc đó thì sứ giả mang ngựa sắt, roi sắt và áo giáp sắt đến. Cậu bé vùng dậy, vươn vai một cái bỗng biến thành tráng sĩ. Mình cao hơn trượng, oai phong lẫm liệt vô cùng. Tráng sĩ bước lên vỗ vào mông ngựa. Ngựa hí dài mấy tiếng vang dội. Tráng sĩ mặc áo giáp, cầm roi, nhảy lên mình ngựa. Ngựa phun lửa, tráng sĩ cưỡi ngựa phi thẳng đến nơi có giặc, đón đầu chúng đánh giết hết lớp này đến lớp khác. Giặc chết như ngả rạ. Bỗng nhiên, roi sắt gãy, tráng sĩ bèn nhổ những cụm tre cạnh đường quật vào giặc. Giặc tan vỡ, bỏ chạy. Đám tàn quân giẫm đạp lên nhau chạy trốn. Tráng sĩ đuổi đến chân núi Trâu. Đến đây, một mình một ngựa, tráng sĩ lên đỉnh núi, c ởi bỏ áo giáp sắt, cưỡi ngựa bay lên trời.
Vua nhớ công ơn, phong là Phù Đổng Thiên Vương và lập đền thờ tại quê nhà. Những nơi ngựa phi qua để lại ao hồ. Rặng tre bị ngựa phun lửa cháy trở nên vàng óng còn có một làng bị ngựa phun lửa cháy được gọi là làng Cháy.
Bài văn mẫu số 2
Tục truyền đời Hùng Vương thứ sáu, ở làng Gióng có hai vợ chồng nổi tiếng là chăm chỉ, hiền lành và phúc đức. Hai ông bà đã lớn tuổi mà vẫn chưa có con. Một lần, bà ra đồng thấy một vết chân rất to, liền đặt bàn chân lên ướm thử xem thua kém bao nhiêu. Đến khi về nhà, bà lại thụ thai và mười hai tháng sau sinh một cậu bé mặt mũi rất khôi ngô. Hai vợ chồng mừng lắm. Kì lạ là, đứa trẻ lên ba tuổi vẫn chưa biết nói, biết cười, ai đặt đâu thì ngồi đấy.
Lúc bấy giờ, giặc Ân đến xâm lược nước ta. Thế giặc mạnh khiến nhà vua lo sợ. Vua sai sứ giả đi khắp nơi tìm người tài. Đến làng Gióng, cậu bé nghe tiếng sứ giả bỗng cất tiếng nói: “Mẹ ra mời sứ giả vào đây”. Sứ giả vào, cậu liền bảo: “Ông về tâu với nhà vua sắm cho ta một con ngựa sắt, một cái roi sắt và một tấm áo giáp sắt, ta sẽ phá tan lũ giặc này”. Sứ giả vừa ngạc nhiên vừa mừng rỡ, liền vội vàng về tâu với nhà vua.
Kể từ sau hôm gặp sứ giả, cậu bé lớn nhanh như thổi. Cơm ăn bao nhiêu cũng không no. Hai vợ chồng làm ra không đủ để nuôi con, phải nhờ cậy bà con hàng xóm. Ai cũng vui vẻ giúp đỡ vì đều mong cậu bé có thể đánh tan lũ giặc.
Lúc bấy giờ, giặc đã đến chân núi Trâu. Thế nước lúc này rất nguy. Vừa lúc đó, sứ giả đem ngựa sắt, roi sắt, áo giáp sắt đến. Bỗng, chú bé vùng dậy, vươn vai thành tráng sĩ. Tráng sĩ mặc áo giáp, cầm roi, nhảy lên mình ngựa. Ngựa phun lửa, tráng sĩ thúc ngựa phi thẳng đến nơi có giặc. Giặc bị tiêu diệt hết lớp này đến lớp khác. Bỗng roi sắt gãy, tráng sĩ bèn nhổ những cụm tre cạnh đường quật vào giặc. Giặc tan vỡ. Đám tàn quân giẫm lên nhau chạy trốn.
Tráng sĩ một mình một ngựa, lên đỉnh núi, cởi giáp sắt bỏ lại, rồi cả người lẫn ngựa từ từ bay lên trời. Nhà vua nhớ công ơn phong là Phù Đổng Thiên Vương, cho lập đền thờ ở quê nhà.
Hiện nay vẫn tồn tại đền thờ ở làng Phù Đổng, được gọi là làng Gióng. Truyền thuyết kể rằng những cây tre ở huyện Gia Bình, do bị cháy bởi lửa của ngựa, đã chuyển sang màu vàng óng, và những dấu vết của ngựa giờ đây đã hình thành thành các ao hồ liên tiếp. Còn có câu chuyện về ngựa thét ra lửa, khiến một làng bị thiêu cháy, từ đó làng đó được gọi là làng Cháy.
Bài văn mẫu số 3
Đời Hùng Vương thứ sáu, tại làng Gióng có một cặp vợ chồng hiền lành, được biết đến là phúc đức. Họ luôn mong ước có một đứa con.
Một lần nọ, người vợ ra đồng và thấy một vết chân rất to. Bà liền đặt chân vào ướm thử. Về nhà, bà liền mang thai. Mười hai tháng sau sinh ra một cậu bé. Kì lạ, cậu bé lên ba tuổi vẫn không biết nói, biết cười. Ai đặt đâu thì cậu ngồi đấy.
Khi giặc Ân xâm lược nước ta, nhà vua lo lắng. Vua sai sứ giả đi khắp nơi tìm người tài giúp nước. Đến làng Gióng, cậu bé nghe tiếng rao của sứ giả, liền cất tiếng nói đầu tiên, bảo mẹ:
- Mẹ ra mời sứ giả vào đây cho con!
Sứ giả đến, cậu bé liền nói:
- Ông về tâu với nhà vua đúc cho ta một con ngựa sắt, một cái roi sắt và một tấm áo giáp sắt. Ta sẽ đánh tan lũ giặc này.
Sứ giả nghe xong lấy làm lạ, vội về tâu lại với nhà vua. Vua liền sai thợ rèn ngày đêm làm những món đồ cậu bé yêu cầu. Sau khi gặp sứ giả, cậu bé lớn nhanh như cắt, cơm ăn bao nhiêu cũng không no, áo mặc bấy nhiêu cũng không vừa. Hai vợ chồng làm ra bao nhiêu cũng không đủ nuôi, phải nhờ đến sự giúp đỡ của bà con làng xóm.
Khi giặc đã đến chân núi Trâu và thế nước lúc này rất nguy, sứ giả đem ngựa sắt, roi sắt và áo giáp sắt đến. Cậu bé vùng dậy, vươn vai thành tráng sĩ. Tráng sĩ mặc áo giáp sắt, cầm roi sắt, rồi cưỡi lên lưng ngựa.
Ngựa hí dài, vang vọng mấy tiếng, phun lửa vào quân giặc. Giặc hoảng sợ bỏ chạy. Tráng sĩ cưỡi ngựa đến đâu, quân giặc bại trận đến đó. Roi sắt gãy, tráng sĩ nhổ bụi tre đánh tan quân giặc. Thua trận, đám tàn quân đẩy nhau chạy trốn, tráng sĩ đuổi đến chân núi Sóc.
Tráng sĩ cưỡi ngựa lên đỉnh núi. Tại đây, tráng sĩ cởi bỏ áo giáp sắt, cưỡi ngựa bay lên trời. Để tưởng nhớ công ơn, vua Hùng đã phong cho tráng sĩ là Phù Đổng Thiên Vương và lập đền thờ tại quê nhà. Những nơi ngựa đi qua để lại ao hồ. Rặng tre bị ngựa phun lửa cháy trở nên vàng óng, còn có một làng bị ngựa phun lửa cháy được gọi là làng Cháy.
Bài văn mẫu số 4
Từ nhỏ, ta đã nghe bà, mẹ kể về lịch sử hào hùng, về những truyền thuyết ly kỳ. Và có lẽ ai khi ấy cũng mang trong lòng niềm tự hào và ngưỡng mộ những vị anh hùng trong truyền thuyết của dân tộc. Thánh Gióng là một vị anh hùng oai phong như thế.
Đời Hùng Vương thứ sáu, ở làng Gióng, có hai vợ chồng nông dân, vừa chăm chỉ làm ăn lại có tiếng phúc đức nhưng đến lúc sắp về già mà vẫn chưa có con. Một ngày kia, bà vợ ra đồng, thấy một vết chân to, liền đặt chân mình vào ướm thử. Về nhà, bà liền mang thai, nhưng mười hai tháng sau mới sinh ra một cậu bé mặt mũi khôi ngô, đặt tên là Gióng. Điều kỳ lạ nữa là Gióng lên ba tuổi vẫn chẳng biết nói, chẳng biết cười, đặt đâu nằm đó, hai vợ chồng vừa buồn vừa lo lắng.
Thuở đó, quân giặc Ân xâm lược bờ cõi nước ta, gây ra bao tội ác, dân chúng chịu khổ. Thấy thế giặc mạnh, nhà vua sai người đi tìm người tài cứu nước. Sứ giả đi khắp nơi, đi qua làng Gióng. Nghe thấy rao: “Ai có tài, có sức, xin ra giúp vua cứu nước”, Gióng nằm trên giường bỗng phát ngôn đầu tiên:
- Mẹ ơi! Mẹ ra mời sứ giả vào đây cho con.
Thấy vậy, bà mẹ rất vui mừng bất ngờ, vội đi ra mời sứ giả vào nhà. Gióng yêu cầu sứ giả về tới vua, chuẩn bị ngựa sắt, roi sắt, áo giáp sắt để cậu đi đánh giặc.
Kỳ lạ hơn, sau khi sứ giả trở về, Gióng ăn mạnh mẽ và lớn nhanh. Cơm ăn bao nhiêu cũng không đủ, áo vừa mặc đã rách. Mẹ cậu nuôi không đủ, phải nhờ hàng xóm giúp đỡ. Bà con biết chuyện, phấn khởi, tấp nập nấu cơm, đội cà, may vá cho cậu chu đáo. Ai cũng hy vọng Gióng sớm ra giết giặc, giúp nước trừ bạo.
Ngày ấy, giặc đến sát chân núi Trâu, sứ giả cũng kịp mang vũ khí tới. Gióng đứng dậy, trở thành một tráng sĩ, khoác áo giáp, cầm roi sắt, chào mẹ và dân làng, rồi nhảy lên ngựa. Cả người cả ngựa lao vun vút ra trận.
Trên trận địa, Gióng đang diễn ra bạo lực khắp nơi, khiến kẻ thù chết như cỏ gặp gìn. Bất ngờ, cây gậy sắt của Gióng gãy, nhưng anh ta nhanh như chớp lấy tre bên đường làm vũ khí mới. Kẻ địch hoảng sợ chạy trốn, dẫm đạp lên nhau để thoát thân. Khi hết sạch đám giặc, Gióng cưỡi ngựa bay về núi Sóc, tháo áo giáp sắt, cúi đầu tạ mẹ rồi bay lên trời.
Vua truy tôn Gióng là Thánh Gióng, và nhân dân xây đền thờ để tưởng nhớ công lao của Ngài. Nhiều thế hệ sau này, câu chuyện về ngựa sắt phun lửa của Ngài đã thiêu trụi một làng. Đến ngày nay, làng đó được gọi là làng Gióng. Những dấu vết của bàn chân ngựa từ xưa đã biến thành những cái ao và hồ, tạo thành một di sản ghi nhận chiến công vĩ đại của Thánh Gióng.
Mẫu văn số 5
Thời Hùng Vương thứ sáu, tại làng Gióng, có một cặp vợ chồng già hiền lành nhưng vẫn chưa có con. Một ngày, bà đi ra đồng và cảm nhận những dấu vết lạ dưới chân, kết quả là bà mang thai đến mười hai tháng trước khi sinh ra một cậu bé khỏe mạnh. Mặc dù đã ba tuổi, cậu bé vẫn nằm yên, chưa biết đi, chưa biết cười.
Khi giặc Ân đang làm phiền, vua đã sai sứ giả đi tìm kiếm người có tài và lòng hiếu kỳ để đánh giặc cứu dân. Nghe tin, cậu bé ở làng Gióng lên tiếng và yêu cầu mẹ mình mời sứ giả đến. Cậu bé đòi hỏi sứ giả nói với vua để đúc ra một con ngựa sắt, roi sắt, áo giáp sắt để có thể tiêu diệt kẻ thù hung ác. Từ đó, cậu bé lớn lên nhanh chóng và mạnh mẽ đến mức dân làng phải cùng nhau đóng góp thức ăn để nuôi cậu.
Sau khi nhận được lễ vật từ vua, cậu bé trở thành một người hùng mạnh mẽ và uy nghi. Khi đã chuẩn bị xong, cậu bé cưỡi ngựa, vung roi điều khiển. Ngựa phun lửa lao thẳng vào đội quân giặc, khiến chúng ngã như rạ.
Khi roi gãy, người hùng nhặt những cành tre bên đường. Quân địch tan tác, đám sống sót chạy trốn. Người hùng đuổi theo chúng đến chân núi Sóc, cởi bỏ áo giáp và bay lên trời cùng ngựa.
Vua Hùng tôn vinh cậu bé làm Phù Đổng Thiên Vương và cho xây đền thờ tại quê hương của cậu. Mỗi năm vào tháng tư, lễ hội Gióng được tổ chức hoành tráng, thu hút người dân từ khắp nơi về tham dự.
Mẫu văn số 6
Vào thời Hùng Vương thứ sáu, ở làng Gióng có một cặp vợ chồng chăm chỉ làm ăn và được biết đến với lòng hiếu khách, nhưng không có con. Một ngày, bà lão đi ra đồng và phát hiện một vết chân lạ. Tò mò, bà đặt chân mình lên đó để so sánh với vết chân đó. Thời gian trôi qua, bà lão mang thai và mười hai tháng sau đó sinh ra một bé trai khỏe mạnh. Hai vợ chồng vui mừng lắm. Nhưng kỳ lạ thay, đứa bé đã ba tuổi nhưng không biết nói, không biết cười, và không biết đi, chỉ biết ngồi im đó chỗ nào đặt đó.
Khi giặc Ân xâm lược, đất nước ta rơi vào tình hình khốn khó. Vua vô cùng lo lắng và sai sứ giả đi khắp nơi tìm người có tài để cứu nước. Đứa bé nghe thấy tiếng gọi của sứ giả, bất ngờ lên tiếng kêu mẹ ra mời sứ giả vào. Sau khi sứ giả đến, đứa bé yêu cầu vua mua cho mình một con ngựa sắt, một cái roi sắt và một tấm áo giáp sắt để có thể đánh bại quân giặc. Sứ giả kinh ngạc và vui mừng, vội về báo tin với vua. Vua chấp nhận yêu cầu và giao cho người làm việc mệt mỏi ngày đêm để làm đủ những thứ mà đứa bé yêu cầu.
Từ khi gặp sứ giả, đứa bé bỗng lớn lên nhanh chóng. Cậu bé không biết khi nào no bụng, áo quần mới mặc đã quá chật. Hai vợ chồng phải lao động vất vả nhưng vẫn không đủ nuôi sống cậu bé. Thấy vậy, hàng xóm đã đồng lòng giúp đỡ họ.
Khi giặc Ân đến chân núi Trâu, tình hình của đất nước như một sợi tóc treo trên ngàn cân. Mọi người đều lo lắng và sợ hãi. Khi sứ giả mang đến đủ những vật mà đứa bé đã yêu cầu, cậu bé trở nên mạnh mẽ và oai phong ngay lập tức. Cậu bé đánh thức ngựa sắt, ngựa phun lửa lao vào quân giặc, khiến chúng hỗn loạn. Khi roi sắt bị gãy, cậu bé nhặt những cành tre ven đường để đánh quân giặc.
Quân giặc hoảng loạn, tan vỡ. Những kẻ sống sót chạy trốn nhưng bị dẫm đạp lên nhau. Cậu bé đuổi theo đến chân núi Sóc (Sóc Sơn), sau đó cởi bỏ áo giáp sắt để lại ngựa sắt và một mình cùng ngựa bay lên trời. Điều này để tưởng nhớ người anh hùng đã đánh tan quân giặc Ân. Vua tôn phong cậu bé là Phù Đổng Thiên Vương và xây đền thờ tại quê hương của cậu.
Mẫu văn số 7
Thời Hùng Vương thứ sáu, ở làng Gióng có một cặp vợ chồng hiền lành, được biết đến với lòng hiếu khách, nhưng không có con.
Một ngày nọ, người vợ ra đồng và phát hiện một vết chân lớn. Bà liền đặt chân lên đó để kiểm tra. Khi về nhà, bà mang thai. Sau mười hai tháng, một cậu bé sinh ra, mặt mũi tuấn tú. Nhưng mặc dù đã ba tuổi, cậu bé vẫn không biết nói, không biết cười. Cậu ngồi ở đâu là đặt ở đó.
Lúc ấy, giặc Ân xâm lược nước ta, đe dọa sự an lành của đất nước. Nhà vua lo lắng và gửi sứ giả đi tìm người có tài để giúp đỡ. Khi đến làng Gióng, cậu bé nghe thấy tiếng kêu gọi của sứ giả, ngay lập tức cậu nói với mẹ:
- Mẹ hãy ra mời sứ giả đến đây cho con!
Sứ giả đến, cậu bé ngay lập tức nói:
- Ông về báo vua đúc cho ta một con ngựa sắt, một cây roi sắt và một bộ áo giáp sắt. Ta sẽ tiêu diệt lũ giặc này.
Sứ giả vui mừng và vội vàng trở về báo vua. Vua liền giao cho thợ rèn làm những vật mà cậu bé yêu cầu. Từ đó, cậu bé lớn nhanh như thổi. Hai vợ chồng làm việc hết sức mà vẫn không đủ nuôi sống cậu bé, nên phải nhờ bà con trong xóm giúp đỡ.
Không bao lâu sau đó, quân giặc đã đến chân núi Trâu. Tình hình đất nước lúc đó rất nguy cấp. Khi sứ giả mang đến ngựa sắt, roi sắt và áo giáp sắt, cậu bé đã trở thành một tráng sĩ mạnh mẽ. Tráng sĩ mặc áo giáp, cầm roi sắt và cưỡi ngựa. Ngựa hí dài và phun lửa vào quân giặc, khiến chúng hoảng sợ và bỏ chạy toán loạn. Tráng sĩ đi đến đâu, quân giặc bị đánh bại đến đó. Khi roi sắt gãy, tráng sĩ nhổ bụi tre để đánh tan quân giặc. Sau khi thất bại, đám quân đánh nhau bỏ chạy.
Tráng sĩ cưỡi ngựa một mình lên đỉnh núi. Tại đây, tráng sĩ cởi bỏ áo giáp và cưỡi ngựa bay lên trời. Sau này, để tưởng nhớ công lao, Vua Hùng phong trào là Phù Đổng Thiên Vương và xây đền thờ tại quê hương. Những nơi mà ngựa đã qua để lại ao hồ. Rừng tre bị ngựa phun lửa cháy trở nên óng ả và có một làng bị ngựa phun lửa cháy được gọi là làng Cháy.
Viết lại câu chuyện Thánh Gióng bằng lời văn của em ngắn gọn
Bài văn mẫu số 1
Vào thời Hùng Vương thứ sáu, ở làng Gióng, có vợ chồng chăm chỉ làm ăn, lại hiền lành và tốt bụng. Một lần, người vợ ra đồng, thấy một vết chân rất to, lấy làm lạ liền ướm thử vào xem. Không ngờ về nhà bà thụ thai, rồi sau mười hai tháng thai nghén, bà sinh ra một cậu bé. Hai vợ chồng mừng lắm, nhưng cậu bé lên ba tuổi vẫn chưa biết nói biết cười. Lúc bấy giờ, giặc Ân đến xâm lược nước ta. Nhà vua sai người đi khắp nơi để tìm người tài. Đến làng Gióng, khi nghe thấy tiếng sứ giả, cậu bé bỗng cất tiếng nói: “Mẹ ra mời sứ giả vào đây, con xin thưa chuyện”. Sứ giả vào, cậu liền báo với sứ giả: “Ông hãy về tâu với nhà vua sắm cho ta một con ngựa sắt, một cái roi sắt và một tấm áo giáp sắt, ta sẽ đánh tan lũ giặc này”. Sứ giả nghe xong vừa ngạc nhiên, vừa mừng rỡ vì tìm được người cứu nước, liền tức tốc trở về tâu với nhà vua. Sau hôm gặp sứ giả, cậu bé lớn nhanh như thổi, cơm ăn mấy cũng không no, áo mặc mấy cũng không vừa. Hai vợ chồng làm ra bao nhiêu cũng không đủ, đành nhờ dân làng giúp đỡ. Bà con vui lòng góp gạo thóc để nuôi chú bé, ai cũng mong chú giết giặc cứu nước. Lúc này, giặc đã đến chân núi Trâu, vừa lúc đó, sứ giả mang ngựa sắt, roi sắt và áo giáp sắt.Cậu bé bỗng chốc vươn vai biến thành tráng sĩ. Tráng sĩ mặc áo giáp sắt, cưỡi ngựa sắt rồi cầm roi sắt đánh giặc. Giặc chết như ngả rạ. Bỗng roi sắt gãy, tráng sĩ nhổ bụi tre cạnh đường quật vào giặc. Giặc tan vỡ, đám tàn quân giẫm đạp lên nhau mà trốn thoát. Sau đó, tráng sĩ một mình cưỡi ngựa lên đỉnh núi, cởi bỏ áo giáp rồi bay về trời. Vua cho lập đền thờ để tưởng nhớ công ơn, còn phong làm Phù Đổng Thiên Vương. Hiện nay, vẫn còn đền thờ làng Phù Đổng, tục gọi là làng Gióng. Tương truyền, những bụi tre đằng ngà ở huyện Gia Bình vì ngựa phun lửa bị cháy mới ngả màu vàng óng, còn những vết chân ngựa nay thành những ao hồ liên tiếp. Người ta còn bảo khi ngựa thét ra lửa đã thiêu cháy một làng, về sau gọi là làng Cháy.
Đoạn văn mẫu số 2
Thời Hùng Vương thứ sáu, ở làng Gióng, có vợ chồng rất chăm chỉ làm ăn lại hiền lành, tốt bụng. Một lần, người vợ ra đồng, thấy một vết chân rất to hơn vết chân người thường, liền ướm thử. Không ngờ về nhà bà thụ thai, rồi sau mười hai tháng thai nghén, bà sinh ra một em bé. Hai vợ chồng mừng lắm, nhưng chú bé lên ba tuổi vẫn chưa biết nói biết cười. Lúc bấy giờ, giặc Ân đến xâm lược nước ta. Nhà vua sai người đi khắp nơi để tìm người tài. Đến làng Gióng, khi nghe thấy tiếng sứ giả, cậu bé bỗng cất tiếng nói: “Mẹ ra mời sứ giả vào đây, con xin thưa chuyện”. Sứ giả vào, cậu liền xin với sứ giả về tâu với vua sắm cho một con ngựa sắt, một cái roi sắt và một tấm áo giáp sắt với lời hứa sẽ đánh tan lũ giặc này. Sau hôm gặp sứ giả, cậu bé lớn nhanh như thổi, cơm ăn mấy cũng không no, áo mặc mấy cũng không vừa. Hai vợ chồng làm ra bao nhiêu cũng không đủ, phải nhờ đến dân làng. Bà con vui lòng góp gạo thóc để nuôi chú bé, ai cũng mong chú giết giặc cứu nước. Giặc đến, vừa lúc sứ giả mang ngựa sắt, roi sắt và áo giáp sắt đến, cậu bé vươn vai biến thành tráng sĩ đánh giặc. Giặc chết như ngả rạ. Bỗng roi sắt gãy, tráng sĩ liền nhổ bụi tre cạnh đường quật vào giặc. Giặc tan vỡ, đám tàn quân giẫm đạp lên nhau mà trốn thoát. Sau đó, tráng sĩ một mình cưỡi ngựa lên đỉnh núi, cởi bỏ áo giáp rồi bay về trời. Vua cho lập đền thờ để tưởng nhớ công ơn, còn phong làm Phù Đổng Thiên Vương. Hiện nay, vẫn còn đền thờ làng Phù Đổng, tục gọi là làng Gióng. Tương truyền, những bụi tre đằng ngà ở huyện Gia Bình vì ngựa phun lửa bị cháy mới ngả màu vàng óng, còn những vết chân ngựa nay thành những ao hồ liên tiếp. Người ta còn bảo khi ngựa thét ra lửa đã thiêu cháy một làng, về sau gọi là làng Cháy.
Bài văn mẫu số 3
Bài văn mẫu số 1
Đoạn văn mẫu số 2
Đoạn văn mẫu số 3
Bài văn mẫu số 4
Bài văn mẫu số 5
Để kỷ niệm công ơn của Gióng, vua Hùng đã lập đền thờ tại quê nhà và phong Gióng làm Phù Đổng Thiên Vương. Mỗi năm, người dân tổ chức lễ hội để mời khách từ khắp nơi tới tham dự và thờ lạy.
Bài văn mẫu số 4
Truyền thuyết kể rằng: Thời Hùng Vương thứ sáu, có một cặp vợ chồng sống trong một ngôi làng nghèo. Mặc dù đã cao tuổi nhưng họ vẫn chưa có con.
Một ngày nọ, người vợ ra đồng và phát hiện một dấu chân rất lớn. Tò mò, bà ướm thử, không ngờ sau đó bà lại mang thai. Nhưng không may, trước khi đứa bé kịp chào đời, người chồng đã qua đời. Mười hai tháng sau đó, đứa bé được sinh ra, một cậu bé khỏe mạnh và đáng yêu, được đặt tên là Gióng. Đặc biệt, dù đã ba tuổi nhưng Gióng vẫn chưa biết đi, nói hoặc cười, chỉ biết nằm im một chỗ. Người mẹ buồn rầu không biết phải làm sao.
Vào thời điểm đó, quân giặc Ân xâm lược nước ta. Lo lắng vì tình hình, nhà vua đã ra lệnh để tìm kiếm người dũng cảm để cứu nước. Khi đến làng của Gióng, cậu bé nói với mẹ:
- Mẹ ra mời sứ giả vào đây cho con!
Nghe tiếng con, mẹ Gióng rất vui mừng, nhưng lại ngừng lại khi nghe con muốn gặp sứ giả. Sứ giả khi vào nhà chỉ thấy đứa bé ba tuổi nằm trên giường, họ không khỏi ngạc nhiên và thất vọng. Tuy nhiên, Gióng tỏ ra rất quyết đoán:
- Sứ giả hãy trở lại với nhà vua và yêu cầu đúc cho ta một con ngựa sắt, một áo giáp sắt, và một cây roi sắt, để ta có thể đánh bại lũ giặc này.
Sau khi gặp sứ giả, Gióng trở nên khác biệt khi lớn nhanh như cánh bay, cứ cơm bao nhiêu cũng chẳng no được. Dân làng cùng nhau góp sức nuôi Gióng, hy vọng rằng Gióng sẽ lên đường làm việc lớn, cứu dân, cứu nước. Khi giặc xâm lược, Gióng đứng lên, nhảy lên ngựa sắt, nhổ một bụi tre làm vũ khí và đánh tan đám giặc. Sau khi giết hết giặc, Gióng cưỡi ngựa bay lên trời. Để tưởng nhớ công ơn to lớn đã giúp diệt giặc cứu nước, người ta đã xây dựng đền thờ và phong Gióng làm Phù Đổng Thiên Vương.
Bài văn mẫu số 5
Ngày xưa, có một cặp vợ chồng nông dân nghèo khó nhưng hiền lành. Dù đã cao tuổi nhưng họ vẫn chưa có con nào.
Một ngày, khi bà ra đồng, bà thấy một dấu chân rất lớn, bà đặt chân vào và sau đó bà đã có thai. Bà sinh được một bé trai và đặt tên là Gióng. Bé lên ba tháng biết lăn, bảy tháng biết bò. Giờ Gióng đã ba tuổi nhưng vẫn chưa biết nói biết cười. Lúc ấy, giặc Ân sang xâm lược nước ta. Vua Hùng sai sứ giả đi khắp nơi tìm người tài. Khi nghe tiếng rao của sứ giả, Gióng nói với mẹ:
- Mẹ ơi, con muốn gặp sứ giả.
Quá bất ngờ, nhưng khi thấy con nói và cười gọi mẹ, bà rất vui và vội chạy ra gọi sứ giả đến. Gặp sứ giả, cậu Gióng ngồi dậy và truyền bảo:
- Hãy về tới đức vua và yêu cầu đúc cho một con ngựa sắt, một cây kiếm sắt, một roi sắt và một chiếc nón sắt để Gióng ta đi dẹp giặc.
Nhận tin sứ giả tới, vua liền giao cho làm những vật dụng mà Gióng yêu cầu. Rồi sứ giả đến gặp Gióng.
Tiếp tục về câu chuyện của cậu bé Gióng. Từ khi gặp sứ giả, Gióng bảo mẹ và dân làng chỉ cần lo cho cậu no là đủ để cậu lớn lên và đánh giặc. Bà mẹ cùng dân làng rất nỗ lực trong việc chuẩn bị thức ăn cho Gióng. Khi ăn đến mười nồng cơm, ba nồng cà, mỗi lần ăn xong một nồng, Gióng lại vươn vai và lớn nhanh như thổi. Dân làng đã mang đến rất nhiều vải để may quần áo cho Gióng nhưng vẫn không đủ. Khi giặc tấn công, Gióng trở thành một tráng sĩ đi đánh giặc. Sau khi giặc tan, Gióng cưỡi ngựa bay về trời, để lại áo giáp sắt.
Ngày nay, đền thờ vẫn tồn tại ở làng Phù Đổng, được gọi là làng Gióng. Mỗi năm, vào tháng tư, làng tổ chức hội lớn. Truyền thuyết kể rằng những cây tre ở huyện Gia Bình đã bị cháy thành màu vàng óng khi bị lửa từ ngựa phun. Những vết chân ngựa đã trở thành những hồ ao. Người ta còn kể rằng khi ngựa phun lửa, đã thiêu cháy một làng, từ đó làng đó được gọi là Làng Cháy.
Bài văn mẫu số 6
Trong chương trình Văn học lớp 6, em đã học được rất nhiều truyện cổ tích và truyền thuyết. Nhưng em thích nhất câu chuyện về Thánh Gióng, một anh hùng giúp đất nước đánh giặc.
Trong thời Hùng Vương thứ sáu, ở làng Gióng sống một cặp ông bà già nghèo. Dù họ làm việc chăm chỉ nhưng không có con. Tuổi đã cao mà vẫn chưa có một đứa con nào. Một ngày nọ, khi bà ra đồng, bà phát hiện một dấu chân to lớn, bà quyết định ướm thử. Không ngờ, sau khi ướm, bà thụ thai. Vào tháng mười hai, bà sinh được một cậu bé mặt mũi khôi ngô, tuấn tú. Hai ông bà vô cùng vui mừng và đặt tên cho đứa bé là Gióng. Tuy nhiên, niềm vui của họ biến thành lo lắng khi thấy Gióng đã ba tuổi mà vẫn chưa biết nói, biết cười, và thường lúc nào cũng nằm yên.
Khi nghe tin sứ giả đi rao tìm người tài, vua cảm thấy rất lo lắng và đã giao nhiệm vụ đó cho sứ giả. Khi nghe thấy tin sứ giả đi, chú bé Gióng bỗng cất tiếng nói muốn gặp sứ giả. Mẹ Gióng rất vui khi thấy con mình có khả năng nói, và ngay lập tức chạy đi mời sứ giả tới. Khi gặp sứ giả, Gióng đưa ra yêu cầu về những vật dụng mà mình muốn. Vua rất vui mừng và giao cho thợ làm ngay lập tức.
Kỳ lạ hơn, từ sau khi gặp sứ giả, chú bé Gióng lớn nhanh như thổi. Dù ăn bao nhiêu cũng không thấy no. Cả làng cùng nhau góp gạo nuôi Gióng. Mọi người đều mong chú bé lớn lên nhanh chóng và mạnh mẽ để có thể giúp vua đánh giặc cứu nước. Khi giặc xâm lược, mọi người gửi những vật dụng mà Gióng yêu cầu đến. Chú bé đứng dậy, trở thành một anh hùng, nhảy lên lưng ngựa. Ngựa phát ra tiếng hí dài, phun lửa, và lao thẳng vào đám giặc. Quân giặc hoảng sợ. Anh hùng đuổi theo, dẹp tan quân giặc. Roi sắt gãy, Gióng nhổ tre làm vũ khí. Lũ giặc chạy tán loạn. Anh hùng đuổi đến chân núi Sóc. Ở đó, một mình trên một con ngựa, anh hùng cởi bỏ áo giáp, cả anh và ngựa bay về trời.
Vua nhớ công ơn, phong Gióng làm Phù Đổng Thiên Vương và lập đền thờ tại quê nhà. Những nơi ngựa đi qua để lại ao hồ. Rừng tre bị ngựa phun lửa cháy trở nên vàng óng còn có một làng bị lửa từ ngựa phun cháy được gọi là làng Cháy.
Bài văn mẫu số 7
Trong xưa kia, vào thời kỳ của vua Hùng Vương thứ mười sáu, có một cặp ông bà già dù đã cao tuổi nhưng vẫn chưa có một đứa con. Hai ông bà là những người hiền lành và đôn hậu nổi tiếng ở làng Gióng, nhưng họ lại phải chịu sự không may mắn như vậy.
Một ngày nọ, khi bà lão ra đồng, bà nhìn thấy một dấu chân to lớn. Lấy làm ngạc nhiên, bà đặt chân vào ướm thử để xem dấu vết chân đó to đến đâu. Thời gian trôi đi, bà quên mất về vết chân đó, nhưng một ngày nào đó bà bất ngờ thụ thai. Hai ông bà vô cùng vui mừng khi sinh được một cậu bé khôi ngô, tuấn tú. Tuy nhiên, đứa trẻ từ khi sinh ra đã không biết nói, cũng không biết cười, không biết đi, chỉ biết nằm yên.
Vào thời điểm đó, giặc Ân xâm lược nước ta. Cuộc sống của nhân dân trở nên vô cùng khổ cực, và tình hình đất nước lúc đó như là 'nghìn cân treo sợi tóc'. Vua đã sai sứ giả đi rao tin khắp nơi, tìm kiếm người tài giỏi đứng lên cứu nước. Sứ giả cuối cùng đã đến làng Gióng. Nghe thấy tiếng sứ giả, cậu bé bỗng nhiên cất tiếng gọi mẹ: 'Mẹ ơi, mẹ hãy mời sứ giả vào đây cho con'. Hai ông bà vô cùng mừng khi thấy đứa con mình, suốt bao ngày tháng không nói, không cười, bỗng nay lại cất tiếng gọi mẹ, và liền mời sứ giả vào.
Khi sứ giả đến nhà, cậu bé ngay lập tức yêu cầu sứ giả hãy về chuẩn bị đủ vũ khí để đi đánh giặc: Ngựa sắt, áo sắt, và giáp sắt để phá tan lũ giặc xâm lược. Sứ giả mừng rỡ vội về chuẩn bị cho nhà vua. Vua cũng đồng ý theo lời của cậu bé. Càng kỳ lạ hơn, từ sau khi gặp được sứ giả của nhà vua, Thánh Gióng lớn nhanh như thổi, cơm cha mẹ thổi bao nhiêu cậu ăn cũng không đủ no, và quần áo chẳng mấy chốc đã chật hết.
Chẳng mấy lâu sau đó, nhà mua đã đem đến đủ những thứ mà Gióng yêu cầu. Thánh Gióng lập tức lên đường đánh giặc. Cậu đi đến đâu, đánh bại quân giặc đến đấy. Khi kiếm gãy, Gióng lập tức nhổ một bụi cỏ bên đường, quật ngã bọn giặc ngoại xâm. Sau một hồi, ngựa của Thánh Gióng đã đến chân núi Sóc Sơn, Thánh Gióng liền cởi bộ giáp sắt đang mặc trên người ra và bay thẳng lên trời.
Để tưởng nhớ công lao của Thánh Gióng, vua đã cho xây dựng đền thờ tướng quân này tại quê nhà, làng Gióng. Cho đến ngày nay, vẫn còn rất nhiều dấu vết của thời gian cũ và hàng năm vào tháng 4, mọi người vẫn thường đến đền thờ Phù Đổng Thiên Vương để nhớ đến ông.
Mẫu văn số 8
Vào thời vua Hùng Vương thứ sáu, ở làng Gióng có một cặp vợ chồng nghèo. Họ chăm chỉ làm việc mệt mỏi nhưng tuổi đã cao mà vẫn chưa có một đứa con. Một ngày, bà lão ra đồng thì bắt gặp một dấu chân to. Bà liền đặt chân vào ướm thử. Khi về nhà, bà phát hiện mình mang thai. Bà mang thai đến mười hai tháng mới sinh ra một cậu bé khỏe mạnh. Nhưng dù đã ba tuổi, cậu bé vẫn chưa biết nói hay cười.
Khi giặc Ân xâm lược, vua muốn tìm người dũng cảm để cứu nước nên đã sai sứ giả đi rao truyền thông tin khắp nơi. Khi sứ giả đến làng Gióng, có một sự kỳ lạ: cậu bé bỗng nói:
- Mẹ hãy mời sứ giả vào đây cho con!
Khi sứ giả đến, cậu bé liền yêu cầu sứ giả về chuẩn bị cho vua một con ngựa sắt, một cây roi sắt và một tấm áo giáp sắt để đánh giặc. Từ đó, cậu bé lớn nhanh như cơn gió, ăn không bao giờ đủ no, mặc không bao giờ vừa. Hai ông bà làm bao nhiêu cũng không đủ, phải nhờ đến sự giúp đỡ của bà con, hàng xóm. Cả làng đều vui mừng góp gạo để nuôi cậu bé, mọi người đều hy vọng cậu bé sẽ giết giặc cứu nước.
Khi quân giặc đến, và cũng là lúc sứ giả mang ngựa sắt, roi sắt và áo giáp sắt đến, cậu bé bất ngờ biến thành một tráng sĩ. Ngựa rống lên, phát ra tiếng hí dài, rồi bắn lửa vào đám giặc. Quân giặc hoảng sợ bỏ chạy. Tráng sĩ đi đến đâu, quân giặc đi đến đó. Khi cây roi sắt gãy, tráng sĩ nhổ cỏ để làm vũ khí. Quân giặc chết đều như chuối rớt.
Sau khi đánh giặc xong, tráng sĩ cởi bỏ áo giáp sắt, cưỡi ngựa bay lên trời. Vua nhớ công lao của Phù Đổng Thiên Vương và cho xây đền thờ tại quê hương. Những nơi mà ngựa đi qua để lại những hồ ao. Rừng tre bị ngựa phun lửa cháy trở nên óng ánh và còn một làng bị ngựa phun lửa cháy được gọi là làng Cháy.
Mẫu văn số 9
Vào thời vua Hùng Vương thứ sáu, ở làng Gióng có một cặp vợ chồng nghèo. Họ chăm chỉ và hiền lành nhưng vẫn chưa có con.
Một ngày kia, khi bà lão ra đồng, bà bắt gặp một dấu chân lạ. Bà quyết định đặt chân vào ướm thử, và sau khi trở về nhà, bà phát hiện mình mang thai. Mười hai tháng sau, bà sinh ra một cậu bé khỏe mạnh. Mặc dù đã ba tuổi nhưng cậu bé vẫn chưa biết nói, chỉ biết ngồi im.
Vào thời điểm đó, quân giặc Ân xâm lược nước ta. Nhà vua muốn tìm ra người tài để giúp đất nước, liền sai sứ giả đi rao tin khắp nơi. Khi sứ giả đến làng Gióng, cậu bé nghe thấy tiếng sứ giả và nhanh chóng nói với mẹ:
- Mẹ ơi, hãy mời sứ giả vào đây cho con!
Cậu bé ngay lập tức yêu cầu sứ giả trở lại tới cung điện của vua và yêu cầu rèn cho mình một con ngựa sắt, một bộ áo giáp sắt và một thanh gươm sắt. Từ đó, cậu bé lớn nhanh như cơn gió, cứ ăn mà không no, mặc mà không vừa. Hai ông bà làm bao nhiêu cũng không đủ, phải nhờ đến sự giúp đỡ của bà con, hàng xóm. Cả làng vui lòng góp gạo để nuôi cậu bé, mọi người đều hy vọng cậu bé sẽ giết giặc cứu nước.
Khi quân giặc tới, cũng chính là lúc sứ giả mang ngựa sắt, roi sắt và áo giáp sắt đến. Gióng vươn vai trở thành một tráng sĩ. Tiếng ngựa kêu vang lên, rồi phun lửa vào đám quân giặc. Quân giặc hoảng sợ bỏ chạy. Tráng sĩ cưỡi ngựa phi đến đâu, quân giặc đến đó. Khi thanh gươm gãy, tráng sĩ nhổ cỏ để làm vũ khí. Quân giặc chết như rơi xuống dốc.
Sau khi quân giặc tan, tráng sĩ cưỡi một mình một con ngựa lên đỉnh núi Sóc Sơn rồi bay thẳng lên trời. Nhân dân xây đền thờ để tưởng nhớ công lao của tráng sĩ. Những nơi mà ngựa đã đi qua để lại những ao hồ. Rặng tre bị ngựa phun lửa cháy trở thành màu vàng óng, còn có một làng bị ngựa phun lửa cháy được gọi là làng Cháy.
Bài văn mẫu số 10
Vào thời Hùng Vương thứ sáu, ở làng Gióng có hai vợ chồng được biết đến là người chăm chỉ, phúc đức. Hai ông bà mong muốn có một đứa con. Một ngày, người vợ ra đồng thấy một dấu chân rất lớn. Bà quyết định đặt chân vào ướm thử xem dấu vết đó to đến đâu. Không ngờ khi về nhà lại mang thai. Mười hai tháng sau, bà sinh ra một cậu bé. Nhưng điều kì lạ là cậu bé đã ba tuổi nhưng vẫn chưa biết nói, chưa biết cười, chỉ biết nằm im.
Lúc đó, quân giặc Ân xâm lược nước ta. Nhà vua lo lắng, muốn tìm người tài giúp đất nước, liền sai sứ giả đi rao tin khắp nơi. Khi sứ giả đến làng Gióng, đứa bé nghe tiếng sứ giả và bất ngờ cất tiếng nói:
- Mẹ ơi, hãy ra mời sứ giả vào đây cho con!
Sau khi sứ giả vào, cậu bé nói với ông:
- Ông về tìm nhà vua yêu cầu rèn cho một con ngựa sắt, một cái roi sắt và một tấm áo giáp sắt, ta sẽ đánh bại đám giặc này.
Kỳ lạ hơn, từ sau ngày đó, cậu bé lớn nhanh như cơn gió, cơm ăn mấy cũng không no, áo mặc mấy cũng không vừa. Hai ông bà làm ra bao nhiêu cũng không đủ, phải nhờ đến sự giúp đỡ của hàng xóm. Ai cũng vui vẻ giúp đỡ vì muốn thấy cậu bé đánh bại quân giặc cứu nước.
Quân giặc đến chân núi Trâu. Tình hình nước rất nguy cấp, lúc sứ giả mang ngựa sắt, roi sắt và áo giáp sắt đến. Cậu bé tỉnh dậy, trở thành tráng sĩ. Tráng sĩ đạp vào bụng ngựa. Ngựa hí dài mấy tiếng vang dội, sau đó phun lửa vào đám giặc. Giặc hoảng sợ bỏ chạy. Tráng sĩ trên ngựa đánh đuổi, dẹp tan quân giặc. Rồi roi sắt gãy, tráng sĩ nhổ một bụi cỏ đặt vào đường quật vào quân giặc. Quân giặc tan tác, đám tàn quân chạy trốn, tráng sĩ đuổi đến chân núi Sóc.
Đến lúc này, tráng sĩ một mình cưỡi ngựa lên đỉnh núi. Tráng sĩ cởi bỏ áo giáp sắt, cưỡi ngựa bay lên trời. Vua tưởng nhớ công lao của Phù Đổng Thiên Vương và cho xây đền thờ tại quê nhà. Hiện nay vẫn còn đền thờ tại làng Phù Đổng, còn được biết đến là làng Gióng. Những nơi mà ngựa bay qua để lại những ao hồ. Rặng tre bị ngựa phun lửa cháy trở thành màu vàng óng, còn có một làng bị ngựa phun lửa cháy được gọi là làng Cháy.
........ Hãy xem thêm trong tài liệu tải ở phía dưới........