Mytour sẽ cung cấp Bài văn mẫu lớp 7: Phân tích bài ca dao Thương thay thân phận con tằm.
Hy vọng với dàn ý và 9 mẫu văn lớp 7, các bạn học sinh sẽ có thêm ý tưởng để hoàn thiện bài viết của mình.
Kế hoạch phân tích bài 'Thương thay thân phận con tằm'
1. Bắt đầu
Dẫn dắt, giới thiệu và trích dẫn bài ca dao “Thương thay”.
2. Nội dung chính
a. Đề cập đến nội dung: Bài ca dao nói về việc than thở về số phận của con người trong xã hội ngày xưa.
b. Nghệ thuật và kỹ thuật:
- Biểu tượng của 'thương thay': nhấn mạnh sự thương xót, đồng cảm đối với số phận khốn khổ của những người dân trong xã hội cũ.
- Hình ảnh ẩn dụ:
- Con tằm: biểu tượng cho những người lao động bị bóc lột.
- Lũ kiến li ti: biểu tượng cho những người dân nhỏ bé, phải làm việc vất vả mỗi ngày mà vẫn phải chịu đựng nhiều khổ cực.
- Hạc lánh đường mây: biểu tượng cho những người phiêu bạt, lang thang kiếm sống khắp nơi.
- Con cuốc giữa trời: biểu tượng cho những người bị bỏ rơi, không được coi trọng trong xã hội.
=> Những hình ảnh ẩn dụ này tượng trưng cho số phận của người dân nông thôn trong xã hội phong kiến.
3. Kết luận
Đánh giá về giá trị và ý nghĩa của bài ca dao nói trên.
Phân tích bài 'Thương thay thân phận con tằm' - Mẫu 1
Một trong những bài ca dao nổi tiếng nói về số phận của con người trong xã hội xưa là “thương thay thân phận con tằm”.
Bài ca dao “thương thay thân phận con tằm” được viết dưới dạng thơ lục bát. Âm điệu của bài ca dao êm dịu. Câu chữ mộc mạc, giản dị đã khiến bài ca dao trở nên phổ biến trong dân gian Việt Nam:
“Thương thay thân phận con tằm,
Kiếm ăn được mấy phải nằm nhả tơ.
Thương thay lũ kiến li ti,
Kiếm ăn được mấy phải đi tìm mồi”
Hình ảnh 'con tằm' và 'con kiến' trong bốn câu thơ đầu của bài ca dao là biểu tượng cho những thân phận 'bé nhỏ' trong xã hội cũ. Họ là những người có địa vị thấp kém phải làm việc vất vả và chịu đựng sự áp đặt của những người có địa vị cao trong xã hội. Thân phận con tằm bé nhỏ, chỉ được ăn lá dâu nhưng lại phải nhả tơ - tơ vàng óng ánh dùng để dệt thành vải, lụa và tạo ra những sản phẩm có giá trị. Sau khi nhả tơ, con tằm cũng hết giá trị và cuộc đời của nó cũng kết thúc. Hình ảnh này tượng trưng cho những người lao động trong xã hội cũ, họ bị bóc lột sức lao động để tạo ra của cải cho những người có địa vị, khi sức lao động yếu đi họ cũng sẽ bị sa thải hoặc bị đối xử tệ bạc và tàn ác.
Hình ảnh con kiến li ti khiến ta cảm thấy thật bé nhỏ, những chú kiến mải miết tìm kiếm mồi. Chúng cũng giống như những người nông dân ngày ngày lao động vất vả, sống trong cảnh khó khăn.
“Thương thay hạc lánh đường mây
Chim bay mỏi cánh biết ngày nào thôi
Thương thay con cuốc giữa trời
Dầu kêu ra máu có người nào nghe”
Hình ảnh 'cánh chim, con hạc, con cuốc' là vô cùng quen thuộc trong ca dao. Có lẽ những người nông dân thấy sự đồng điệu giữa hình ảnh gầy guộc, lầm lũi của con vật với bản thân mình. Những chú chim mải miết tìm kiếm ăn, bay đến khi mỏi cánh mà không biết ngày nào sẽ kết thúc cuộc hành trình, cũng giống như cuộc đời phiêu bạt lận đận của người lao động. Những con người nhỏ bé ấy phải cố gắng kiếm sống mỗi ngày mà không biết khi nào cuộc sống ấy mới chấm dứt, không biết bao giờ mới hết khổ.
Ở hai câu thơ cuối, hình ảnh của 'con cuốc' thật đáng thương. Con cuốc bé nhỏ giữa bầu trời rộng lớn dẫu có kêu gào đến mức nào cũng không có ai thấu hiểu, không có ai lắng nghe. Con cuốc ấy cũng là biểu tượng của những người lao động thấp cổ bé họng, dù họ có kêu lên bằng bao nhiêu âm thanh thì cũng không ai hiểu cho nỗi khổ của họ, không ai có thể giúp đỡ họ thoát khỏi cuộc sống đau khổ, khốn cùng. Họ hoàn toàn không được sự đồng cảm của mọi người, đặc biệt là của tầng lớp thống trị xã hội lúc bấy giờ, vì vậy tiếng kêu than của họ cũng trở nên vô vọng.
Những người lao động xưa thường cảm thấy đồng cảm khi nhìn thấy những con vật nhỏ bé tội nghiệp, vì chính họ cũng nhỏ bé, tội nghiệp như những con vật ấy. Từ 'thương thay' được lặp đi lặp lại trong suốt bài ca dao đã nhấn mạnh sự xót xa vô tận, nỗi thương cảm vô biên của người lao động đối với những con vật nhỏ bé và cũng chính là sự đồng cảm với chính họ.
Xã hội phong kiến giống như một địa ngục trần gian đối với những người lao động, cuộc sống đầy cảnh đau khổ khiến họ phải kêu ca qua những bài ca dao. Những bài ca dao ấy vẫn còn tồn tại cho đến ngày nay và chúng là một kho tàng văn hóa dân gian vô giá của dân tộc Việt Nam. Mỗi người dân Việt Nam đều có trách nhiệm bảo tồn, phát huy những giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc, biết quý trọng hiện tại và hiến dâng hết mình cho Tổ Quốc.
Phân tích bài 'Thương thay thân phận con tằm' - Mẫu 2
Ca dao, dân ca không chỉ là những giai điệu về tình cảm gia đình, tình yêu quê hương đất nước mà còn là những tiếng kêu than thân trách phận của những cuộc sống, những cảnh ngộ bất hạnh, đắng cay. Và chúng ta đã biết đến một bài ca dao như thế:
'Thương thay thân phận con tằm,
Kiếm ăn được mấy phải nằm nhả tơ.
Thương thay lũ kiến li ti,
Kiếm ăn được mấy phải đi tìm mồi.
Thương thay hạc lánh đường mây
Chim bay mỏi cánh biết ngày nào thôi.
Thương thay con cuốc giữa trời
Dầu kêu ra máu có người nào nghe”
Người lao động xưa thường cảm thấy đồng cảm tự nhiên khi nhìn thấy những con vật nhỏ bé tội nghiệp và thường vận vào thân phận của mình. Chính vì thế, toàn bộ bài ca dao là những hình ảnh ẩn dụ đặc sắc về số phận hẩm hiu, khốn khổ.
Con tằm bé nhỏ nhưng lại rất có ích. Chúng nhả ra những sợi tơ vàng óng ánh để dệt thành vải, lụa phục vụ cho nhu cầu may mặc của con người. Tuy nhiên, chúng chỉ được ăn lá dâu - thứ lá tầm thường nơi bãi sông đồng ruộng. Sau khi giúp con người lấy được thứ cần thiết, thỏa mãn nhu cầu của con người thì tằm cũng chết. Cuộc đời tằm thật đáng thương, sống thì chẳng ăn được nhiều mà cống hiến cho tới lúc lìa đời. Cuộc đời như thế giống như cuộc đời của người lao động xưa kia, suốt đời bị kẻ khác bóc lột sức lao động. Họ bỏ ra quá nhiều nhưng chẳng hề được hưởng thụ dù chỉ là một chút thành quả lao động của mình. Đó chính là nguyên nhân của nghèo đói, của vất vả khó khăn và kéo dài trong bất công vô vọng.
Nhỏ hơn cả tằm là lũ kiến li li. Kiến sống thành đàn, đoàn kết hỗ trợ và giúp đỡ nhau. Ấy thế mà cả đời vẫn chỉ ngược xuôi tất bật. Người lao động trước đây cũng vậy, suốt đời vất vả ngược xuôi, cần cù làm lụng mà vẫn cơ cực nghèo khổ. Họ quanh năm bán mặt cho đất, bán lưng cho trời, một nắng hai sương với đồng ruộng cây lúa mà nghèo vẫn hoàn nghèo.
Hình ảnh của con cò, con vạc là hình ảnh vô cùng quen thuộc trong ca dao. Người lao động nhìn thấy sự gần gũi thân thiết giữa hình dáng lũ nghêu gầy guộc, cái dáng lầm lũi một mình lặn lội của chúng với thân phận hẩm hiu bé nhỏ của mình. Thương thay hạc lánh đường mây,Chim bay mỏi cánh biết ngày nào thôi là thương cho cuộc đời phiêu bạt lận đận và những cố gắng vô vọng kiếm sống qua ngày mà người lao động đang trải qua. Hơn thế, con đường mưu sinh thật lắm gian truân, bất trắc, lực lượng vất vả đã đành, họ còn bị bao hiểm nguy rình rập. Quả là kiếp sống tội nghiệp đáng thương.
Có thể, đáng thương nhất vẫn là tiếng kêu sầu thảm, tiếng kêu rên cảm động, tiếng kêu đầy máu của con cuốc giữa bầu trời. Dù ý thơ lấy từ câu chuyện vua Thục Đế của dân tộc, lòng hận mãi mà chết, biến thành con chim cuốc kêu đau đớn suốt cả mùa hè đến khi đầy máu họng, nhưng những người lao động xưa vẫn dùng thân phận bần hàn của mình để kêu lên sự bất công và oan ức. Tuy nhiên, những người bé nhỏ, yếu đuối dù kêu rên đến mức nào thì cũng không làm rung động lòng bọn thống trị lạnh lùng, tàn ác. Họ không nhận được sự đồng cảm, sự công bằng dành cho mình. Như con cuốc vẫn khắc khoải vất vả mà vô ích.
Những người lao động xưa phải chịu đựng nhiều khổ cực và tiếng kêu, tiếng than ai oán của họ thực sự làm xúc động người đọc cảm thông. Trước mỗi hình ảnh đau thương, đáng thương là mẫu tục thường gặp trong ca dao: mẫu tục thương thay. Điều này được thể hiện qua tám câu thơ liên tiếp miêu tả sự đau xót không lối thoát, lòng thương cảm dâng trào như cơn sóng ập vào tâm hồn của người nghe. Đọc xong bài ca dao, ta nhận ra rằng, tác giả dân gian không chỉ thương xót, mà còn là người cảm thông, chia sẻ với những số phận bất hạnh, đau buồn, đáng thương của mình.
Thực tế u tối, tương lai mịt mùng khiến người lao động xưa phải thốt lên tiếng kêu than, tiếng than oan. Ngày nay, cuộc sống của chúng ta ấm no, hạnh phúc vì có ánh sáng của Đảng, Cách mạng dẫn đường. Nhưng đọc những câu ca dao của thời xa xưa, chúng ta càng hiểu và đồng cảm với cha ông, biết quý trọng quá khứ, biết trân trọng cuộc sống hiện tại.
Phân tích bài ca dao Thương thay thân phận con tằm - Mẫu 3
Ca dao, dân ca là gương phản chiếu chân thực về cuộc sống đa dạng, phong phú của nhân dân ta. Đó là cuộc sống cần cù, giản dị, chân thành, chất phác, đậm đà bản sắc dân tộc nhưng cũng là cuộc sống gặp nhiều khó khăn, bất công, bất hạnh trong một xã hội phức tạp, rối ren. Và những lúc như vậy, nhân dân ta chỉ biết thốt lên những lời than thở, than vãn của mình trong những bài ca.
Trong dân ca Việt Nam, có nhiều câu chuyện về những số phận bất hạnh. Nhân vật thường là những người nông dân, người đi ở, người đi phu, lính, phụ nữ. Và thân phận bé nhỏ, nhỏ bé của họ thường được so sánh với các loài vật khốn khổ trong cuộc sống:
Bài ca dao này thể hiện sự thương cảm đến bốn đối tượng khác nhau. Thương con tằm, chỉ biết ăn lá dâu suốt đời và cuối cùng phải rút ruột để tạo thành tơ quý. Thương con kiến, loài vật nhỏ bé nhất, phải đi kiếm mồi mỗi ngày; còn con hạc, con chim thì cuộc đời phiêu bạt không dứt và nỗ lực vô vọng để kiếm mồi. Tác giả cũng thương cho thân phận con cuốc, nhỏ bé, cô độc giữa không gian bao la, suốt đời bị kẻ khác bòn rút sức lực.
Tác giả thương cho những con vật bé mọn kia cũng là thương cho chính bản thân người lao động. Đó là thương cho nỗi khổ chung của những thân phận nhỏ nhoi, suốt đời vất vả làm lụng mà vẫn nghèo khổ. Dù họ cố gắng như thế nào đi nữa thì cũng vô ích vì xã hội cũ là một xã hội bất công.
Câu 'thương thay' được lặp lại bốn lần để diễn tả sự thương cảm, nỗi đau của người lao động trong xã hội cũ. Họ thường vận dụng hình ảnh của thiên nhiên và các loài vật để thể hiện thân phận, nỗi khổ của mình. Hình ảnh của những con vật nhỏ nhắn như cò, kiến, hạc, cuốc thường gần gũi với cuộc sống khốn khổ, đau buồn, và vất vả của họ. Tác giả thông cảm với nỗi khổ của người lao động và phê phán xã hội bất công đã gây ra sự bất công này.
Từ “thương thay” được lặp lại bốn lần. Mỗi lần 'thương thay' cất lên là diễn tả một nỗi thương, nỗi khổ nhiều bề của người dân thường trong xã hội cũ. Người lao động ngày xưa rất gần gũi với thiên nhiên, nên họ có cái nhìn tinh tế, thường mượn thiên nhiên để thể hiện tâm trạng, mượn hình ảnh những con vật để diễn tả thân phận cuộc đời mình. Tác giả đồng cảm với nỗi khổ trăm bề của người lao động trong xã hội cũ đồng thời lên tiếng tố cáo xã hội bất công đã khiến cho cuộc đời họ trở nên bất công như vậy.
Tóm lại, chùm ca dao về những số phận nhỏ bé có số lượng khá lớn và những bài hát tiêu biểu trong kho tàng ca dao – dân ca Việt Nam. Các bài ca thuộc chủ đề này đã phản ánh một cách chân thực, sinh động cuộc sống của người lao động trong xã hội xưa; thay họ lên tiếng tố cáo hiện thực bất công, ngang trái.
Phân tích bài Thương thay thân phận con tằm - Mẫu 4
“Con tằm” và “lũ kiến là hai ẩn dụ nói về những số phận “nhỏ bé” sống âm thầm dưới đáy xã hội cũ. Thật đáng “thương thay”, thương xót cho những kiếp người phải làm đầu tắt mặt tối mà chẳng được ăn, được hưởng một tí gì! Khác nào một kiếp tằm, một kiếp kiến!
“Thương thay thân phận con tằm,
Kiếm ăn được mấy phải nằm nhả tơ.
Thương thay lũ kiến li ti,
Kiểm ăn được mấy phải đi tìm mồi”
Kiếp tằm “phải nằm nhả tơ”,kiếp kiến “phải đi tìm mồi”,nhưng “kiếm ăn được mấy”.Điệp ngữ “kiếm ăn được mấy”cất lên hai lần đã tố cáo và phản kháng xã hội cũ bất công, kẻ thì “ngồi mát hưởng bát vàng”, “kẻ ăn không hết, người lần không ra”.
Hạc, chim, con cuốc, là ba ẩn dụ nói về những số phận, số mệnh đầy bi kịch cuộc đời. “Hạc” mong muốn tìm đến mọi chân trời, muốn “lánh đường mây” để được tự do, phiêu bạt. “Chim” mong muốn bay cao, bay xa, tung hoành giữa bầu trời, nhưng chỉ “mỏi cánh” mà thôi. Đó là những cuộc đời phiêu bạt, những nỗ lực vô ích của người lao động trong xã hội cũ, thật “đáng thương”!
“Thương thay hạc lánh đường mây,
Chim bay mỏi cánh biết ngày nào thôi”
Thân phận con cuốc càng đáng “thương thay”! Nó đã “kêu ra máu” giữa trời mà “có người nào nghe”, chẳng được sự đồng cảm, sự chia sẻ. “Con cuốc” trong bức tranh này biểu hiện cho nỗi oan trái, cho nỗi đau khổ của nhân dân lao động không được công bằng nào soi tỏ. Càng kêu máu càng chảy, càng đau đớn tuyệt vọng:
“Thương thay con cuốc giữa trời,
Dầu kêu ra máu cố người nào nghe”
Ngoài cách sử dụng điều ngữ và ẩn dụ, những câu hát thương thân này còn được diễn tả dưới hình thức câu hỏi tu từ: “kiếm ăn được mấy”, “biết ngày nào thôi”, “có người nào nghe”. Giá trị phản kháng và tố cáo càng trở nên sâu sắc, mạnh mẽ.
Phân tích bài Thương thay thân phận con tằm - Mẫu 5
Ca dao là tiếng lòng của người lao động trong xã hội xưa. Trong tiếng lòng ấy, ta nghe thấy lời tâm tình về tình yêu quê hương đất nước, lời tâm tình của lòng cha mẹ yêu con, lời của người con hiếu thảo, lời tha thiết nồng nàn của đôi lứa và cả những lời than cho kiếp người bị xã hội dập vùi. Một trong những lời than thân ấy là bài ca dao:
“Thương thay thân phận con tằm
Kiếm ăn được mấy phải nằm nhả tơ
Thương thay lũ kiến li ti
Kiếm ăn được mấy phải đi tìm mồi
Thương thay hạc lánh đường mây
Chim bay mỏi cánh biết ngày nào thôi
Thương thay con cuốc giữa trời
Dầu kêu ra máu có người nào nghe”
Đúc kết và dồn nén. Lời than đã chắt lọc những gì tiêu biểu nhất để rồi dùng một vài hình ảnh, từ ngữ giàu sức biểu đạt. Tập hợp hình ảnh bốn con vật: tằm, hạc, kiến, cuốc, mỗi con vật một số phận một dáng vẻ riêng là những ẩn dụ về con người, kiếp người trong xã hội cũ với nỗi khổ vì thiếu thốn vật chất và đè nén về tinh thần.
Bắt đầu từ thân phận con tằm:
“Thương thay thân phận con tằm
Kiếm mấy phải nằm nhả tơ”
Sinh ra để làm tơ, nhả tơ, con tằm vắt ruột mình để tạo ra sợi tơ lấp lánh. Khi vắt cạn ruột, con tằm chấm dứt cuộc đời mình, chỉ còn lại một xác nhỏn nhặt không hồn. Để làm đẹp cho người, tằm phải hi sinh bản thân. Một nắm lá dâu, một cốc máu, tằm trao đi để lấy lại sợi tơ quý giá. Và khi tơ đã được lấy ra, con tằm bị bỏ rơi, bị lãng quên bên lề cuộc sống. Người lao động xưa cũng như vậy, họ cống hiến sức lao động của mình cho bọn địa chủ, quan lại để rồi chết mà không nhận được chút lòng thương. Con tằm cũ được vứt bỏ, một thế hệ mới lại tiếp tục nuôi dưỡng để đóng góp sợi tơ. Cuộc sống con người cũng thế, cha nối tiếp con, đời sau tiếp đời trao đi sức mạnh, mồ hôi, vất vả để xây dựng sự giàu có cho người khác, trong khi thân xác dần chết, cõi lòng ngày càng trống vắng như con tằm bị tách tơ. Sử dụng hình ảnh của con tằm và sự hi sinh tận cùng, bài ca dao thông qua ẩn dụ đã làm nổi lên nỗi thương cảm về số phận của con người trong xã hội nô lệ. Chúng ta thầm hy vọng cho một cuộc cách mạng cho đất nước và cho mỗi con người.
Từ việc con tằm vắt ruột để tạo ra sợi tơ rồi chết trong cảnh cô đơn, ta đến với hình ảnh con kiến, cũng đáng thương như con tằm. Con kiến bé nhỏ, mặc dù không ít lần bị coi thường. Nhưng mỗi khi nhìn thấy con kiến, ta thấy họ luôn cần cù, không ngừng nghỉ. Họ kiếm mồi để nuôi sống cả cộng đồng. Loại kiến to hơn chỉ nằm trong hang chờ kiến thợ mang mồi về. Trong hình ảnh ẩn dụ này, 'lũ kiến bé tí ti' chính là chúng ta, những người làm việc vất vả. Chúng ta làm việc không ngừng, nhưng phần lớn thành quả lại dành cho những người có quyền lực, cho những người chỉ biết tận hưởng, không phải làm việc. Điều này không hiếm trong xã hội nông thôn xưa.
Cũng đáng thương không kém là hình ảnh chim hạc gầy gò. Cánh mỏi rã rời mà vẫn phải tiếp tục bay. Không có điểm dừng, không biết khi nào nghỉ. Con chim hạc ấy bay mãi, kiên nhẫn, chịu đựng. Cuộc sống con người cũng như vậy, khổ đau và nghèo khó, làm việc liên tục mà tương lai vẫn mơ hồ, nỗ lực mà vô vọng cả hạc và con người trong câu chuyện đều tạo ra cảm giác tiếc nuối. Hình ảnh chim hạc gầy làm ta cảm thấy thương hạc, phận người nghèo đáng thương và ước mơ một điểm dừng cho hạc, một chút hi vọng cho con người.
Cuối cùng, là hình ảnh con cuốc, thân xác gầy gò, tiếng kêu cay đắng, thấm đẫm nỗi đau mà chẳng ai chịu nghe. Tiếng kêu ấy vọng lên trong gió, tan vào không gian, tan vào cuộc sống và lòng người vô cảm. Một ẩn dụ sâu sắc về con người. 'Thấp cổ bé họng' là cách mà xã hội gọi những người nghèo khổ nhất, vì vậy tiếng kêu của họ cũng bị phủ lấp, bị hờ hững. Như tiếng kêu của con cuốc, ai nghe, ai thấu, ai chia sẻ ?
Kết thúc bài ca dao là tiếng than khóc của dân tộc. Tiếng than đó đọng sâu trong lòng chúng ta. Cuộc sống của tằm, kiến, hạc, cuốc đã là quá khứ trong bài ca dao. Cách mạng và sự thay đổi đã mang lại cho chúng ta cuộc sống mới, nhưng khi đọc những lời than thân ấy của cha ông, ta càng hiểu sâu, càng thương sâu hơn quá khứ đau thương của dân tộc và trân trọng cuộc sống đầy đủ mà mỗi ngày chúng ta đang được sống.
Phân tích bài Thương thay thân phận con tằm - Mẫu 6
Ca dao gửi gắm lời than thân của nhiều tầng lớp trong xã hội. Một trong số đó là:
“Thương thay thân phận con tằm
Kiếm mấy phải nằm nhả tơ
Thương thay lũ kiến li ti
Kiếm mấy phải đi tìm mồi
Thương thay hạc lánh đường mây
Chim bay mỏi cánh biết ngày nào thôi
Thương thay con cuốc giữa trời
Dầu kêu ra máu có người nào nghe”
Đây là bài hát nói về những số phận khó khăn, bất hạnh. Từ điều ngữ “Thương thay” được lặp lại bốn lần, thể hiện sự thương cảm, xót xa không biên giới. Thương thay là thương cho số phận của chính mình và của những người cùng cảnh ngộ.
Thương thay thân phận con tằm, Kiếm ăn được mấy phải nằm nhả tơ, thương cho những người lao động nghèo khổ suốt đời bị kẻ khác bòn rút sức lực, công lao. Thương thay lũ kiến li ti, Kiếm ăn được mấy phải đi tìm mồi, thương cho nỗi khổ chung của những thân phận nhỏ nhoi, suốt đời xuôi ngược vất vả làm lụng mà vẫn cơ cực, nghèo khổ. Thương thay hạc lánh đường mây, Chim bay mỏi cánh biết ngày nào thôi, thương cho những cuộc đời phiêu bạt, lận đận để kiếm sống qua ngày. Thương thay con cuốc giữa trời, Dầu kêu ra máu có người nào nghe, thương cho những thân phận thấp cổ bé họng, suốt đời ôm khổ đau oan trái, không được ánh sáng công lý soi tỏ.
Bốn câu ca dao là bốn nỗi xót thương. Sự lặp đi lặp lại ấy tô đậm mối cảm thông và xót xa cho những cuộc đời cay đắng nhiều bề của người dân nghèo trong xã hội cũ. Sự lặp lại còn có ý nghĩa kết nối, mở ra những niềm thương xót khác nhau và mỗi lần lặp lại, tình ý của bài ca lại được phát triển và nâng cao thêm.
Trong ca dao, người xưa có thói quen khi nhìn nhận sự vật thường hay liên hệ đến cảnh ngộ của mình, vận vào thân phận mình. Họ đồng cảm với những con vật bé nhỏ, tội nghiệp (con sâu, cái kiến, con cò, con vạc, con hạc giữa trời, con hạc đầu đình, con cuốc kêu sương, con cuốc kêu ra máu,... ) bởi nghĩ rằng chúng cũng có số kiếp, thân phận khốn khổ như mình. Những hình ảnh có tính chất ẩn dụ trong các câu hát kết hợp với bút pháp miêu tả chân thực khiên cho những cảnh ngộ thương tâm gây xúc động thấm thía.
Tằm ăn lá dâu, nhả ra tơ để con người lấy tơ dệt thành lụa, lĩnh, gấm, vóc... những mặt hàng may mặc quý giá phục vụ cho tầng lớp thượng lưu giàu có. Đã là kiếp tằm thì chỉ ăn lá dâu, thứ lá tầm thường mọc nơi đồng ruộng, bãi sông. Mà con tằm bé nhỏ lia ăn được là bao?! Mượn hình ảnh ấy, người lao động ngụ ý nói đến sự bóc lột quá đáng của giai cấp thống trị đối với họ. Công sức họ bỏ ra quá nhiều mà hưởng thụ dường như chẳng là mấy. Điều ấy dẫn đến kiếp sống nhọc nhằn, nghèo đói kéo dài, tưởng như không thể tìm ra lối thoát.
Cách mở đầu mỗi câu đều bằng từ cảm thán tạo ra âm điệu ngậm ngùi, mang đậm nỗi sầu thương thân, trách phận. Khe khẽ ngâm nga, ta sẽ thấy bài ca dao trên giống như một tiếng thở dài hờn tủi và tuyệt vọng.
Phân tích bài Thương thay thân phận con tằm - Mẫu 7
Ca dao không chỉ thể hiện tình yêu quê hương đất nước, mà còn truyền đạt lời than thân, trách phận. Một trong số đó là bài ca dao:
“Thương thay thân phận con tằm
Kiếm ăn được mấy phải nằm nhả tơ
Thương thay lũ kiến li ti
Kiếm ăn được mấy phải đi tìm mồi
Thương thay hạc lánh đường mây
Chim bay mỏi cánh biết ngày nào thôi
Thương thay con cuốc giữa trời
Dầu kêu ra máu có người nào nghe”
Bài ca dao gồm tám câu lục bát, chia thành bốn cặp. Tác giả dân gian đã sử dụng hình ảnh quen thuộc như “con kiến”, “con tằm”, “con hạc”, “con cuốc” để chỉ các kiếp người trong xã hội xưa. Mỗi cặp câu lục bát mở đầu bằng từ “thương thay”, nhấn mạnh nỗi xót xa, thương cảm đối với những số phận ấy.
“Thương thay thân phận con tằm
Kiếm ăn được mấy phải nằm nhả tơ”
Con tằm có nhiệm vụ chính là nhả tơ. Suốt cuộc đời ngắn ngủi, chỉ biết 'rút ruột mình' để rồi cuối cùng chỉ còn lại là vỏ nhộng vô hồn, xấu xí. Người lao động trong xã hội xưa cũng vậy. Họ bị vắt kiệt sức lao động của mình, sống cuộc sống khổ sai, bị bóc lột để phục vụ cho bọn địa chủ chỉ biết hưởng lợi. Hình ảnh con tằm bị rút ruột đã làm cho người đọc hiểu được nỗi vất vả, cay đắng mà con người phải chịu đựng trong xã hội phong kiến.
“Thương thay lũ kiến li ti
Kiếm ăn được mấy phải đi tìm mồi”
Con kiến vốn bé nhỏ, sống theo bầy đàn. Nó kiếm ăn không ngừng nghỉ và thực chất là để nuôi những con kiến chúa chỉ biết nằm sẵn trong hang chờ ăn. Con người cũng vậy. Cuộc đời họ làm lụng, kiếm sống, 'bán mặt cho đất, bán lưng cho trời' rồi cuối cùng cũng là để phục vụ kẻ khác - những kẻ chỉ biết 'ngồi mát ăn bát vàng'.
''Thương thay hạc lánh đường mây
Chim bay mỏi cánh biết ngày nào thôi
Thương thay con cuốc giữa trời
Dầu kêu ra máu có người nào nghe”
Bốn dòng thơ sau của bài ca dao cũng đáng thương chẳng kém với hình ảnh 'con hạc', 'con cuốc'. Hình ảnh cánh chim hạc gầy gò, cứ mải miết, mải miết bay trên bầu trời cao rộng lớn không biết khi nào sẽ dừng, không có điểm dừng. Đó là thân phận của những người phiêu bạt, lang thang kiếm sống khắp nơi. Kết thúc bài ca dao là hình ảnh than cuốc cùng tiếng kêu khắc khoải. Hình ảnh đó gợi ra thân phận của những người thấp cổ bé họng, không có tiếng nói trong xã hội.
Như vậy, bài ca dao trên là lời than thân trách phận về số phận các kiếp người trong xã hội xưa.
Phân tích bài Thương thay thân phận con tằm - Mẫu 8
Ca dao đã gửi gắm những lời than thân, trách phận. Một trong số đó phải kể đến bài ca dao:
“Thương thay thân phận con tằm
Kiếm ăn được mấy phải nằm nhả tơ
Thương thay lũ kiến li ti
Kiếm ăn được mấy phải đi tìm mồi
Thương thay hạc lánh đường mây
Chim bay mỏi cánh biết ngày nào thôi
Thương thay con cuốc giữa trời
Dầu kêu ra máu có người nào nghe”
Bài ca dao gồm tám câu, chia làm bốn cặp. Mở đầu mỗi cặp lại bắt đầu bằng cụm từ “thương thay” nhằm nhấn mạnh nỗi niềm thương cảm dành cho những kiếp người trong xã hội xưa, thể hiện sự đồng cảm sâu sắc với những số phận ấy. Các hình ảnh “con kiến”, “con tằm”, “con hạc”, “con cuốc” được tác giả sử dụng để chỉ những kiếp người nhỏ bé trong xã hội phong kiến.
“Thương thay thân phận con tằm
Kiếm ăn được mấy phải nằm nhả tơ”
Đầu tiên là hình ảnh của con tằm. Cả cuộc đời ngắn ngủi chỉ biết “rút hết ruột mình” để nhả tơ. Cũng giống như những người lao động trong cuộc sống. Họ bị vắt kiệt sức lao động của mình, trong khi bọn địa chủ chỉ biết hưởng lợi. Hình ảnh này đã khiến người đọc hiểu được bao nỗi vất vả, cay đắng bị dồn nén.
“Thương thay lũ kiến li ti
Kiếm ăn được mấy phải đi tìm mồi”
Tiếp theo là hình ảnh của con kiến. Cả cuộc đời làm việc cần mẫn, kiếm ăn không ngừng nghỉ. Con người cũng giống như vậy. Họ làm lụng, kiếm sống, “bán mặt cho đất, bán lưng cho trời” rồi cuối cùng cũng là để phục vụ kẻ khác - những kẻ chỉ biết “ngồi mát ăn bát vàng”.
'Thương thay hạc lánh đường mây
Chim bay mỏi cánh biết ngày nào thôi'
Hình ảnh cánh chim hạc gầy gò, cứ mải miết, mải miết bay trên bầu trời cao rộng lớn không biết khi nào sẽ dừng, không có điểm dừng. Đó là thân phận những người phiêu bạt, lang thang kiếm sống khắp nơi.
'Thương thay con cuốc giữa trời
Dầu kêu ra máu có người nào nghe”
Kết thúc bài ca dao là hình ảnh than cuốc cùng tiếng kêu khắc khoải. Hình ảnh gợi ra thân phận những người thấp cổ bé họng, không có tiếng nói trong xã hội. Có thể thấy rằng bốn hình ảnh khác nhau nhưng đều có một điểm chung là nói về sự khổ cực của con người. Vậy mới thấy nhân dân lao động bần hàn ấy, họ đã phải chịu bao nhiêu khổ cực, bao nhiêu cay đắng mới có thể thốt ra những lời than ai oán, xót xa đến vậy.
Như vậy, với bài ca dao này, chúng ta càng hiểu và đồng cảm hơn với cuộc sống của ông cha ta trong xã hội xưa, từ đó trân trọng hơn cuộc sống ở hiện tại.
Phân tích bài Thương thay thân phận con tằm - Mẫu 9
Những bài ca dao truyền đạt những bài học quan trọng trong cuộc sống. Một trong số đó là bài ca dao:
“Thương thay thân phận con tằm
Kiếm ăn được mấy phải nằm nhả tơ
Thương thay lũ kiến li ti
Kiếm ăn được mấy phải đi tìm mồi
Thương thay hạc lánh đường mây
Chim bay mỏi cánh biết ngày nào thôi
Thương thay con cuốc giữa trời
Dầu kêu ra máu có người nào nghe”
Bài ca dao là lời than thân trách phận về số phận các kiếp người trong xã hội xưa. Bài ca dao gồm có tám câu, được chia làm bốn cặp. Tác giả dân gian đã sử dụng biện pháp tu từ điệp ngữ “thương thay” ở đầu mỗi cặp câu nhằm nhấn mạnh nỗi xót xa, thương cảm. Ở mỗi cặp câu, hình ảnh ẩn dụ - “con kiến”, “con tằm”, “con hạc”, “con cuốc” nhằm sử dụng những kiếp người trong xã hội phong kiến.
“Con tằm” và “lũ kiến” là hai hình ảnh ẩn dụ cho những con người nhỏ bé, bị bóc lột trong xã hội xưa :
“Thương thay thân phận con tằm
Kiếm ăn được mấy phải nằm nhả tơ
Thương thay lũ kiến li ti
Kiếm ăn được mấy phải đi tìm mồi”
Trong thực tế, con tằm được sinh ra với nhiệm vụ nhả tơ. Cuộc đời của chúng ngắn ngủ, chúng 'rút hết ruột mình' để tạo ra những sợi tơ đẹp đẽ, rồi chết với vỏ xấu xí. Con kiến nhỏ bé cũng vậy, chăm chỉ làm việc, kiếm ăn không ngừng nghỉ. Thật đáng thương, cũng như những con người. Họ làm việc vất vả, bị bóc lột sức lao động cho đến xương tủy.
“Thương thay hạc lánh đường mây
Chim bay mỏi cánh biết ngày nào thôi”
Hình ảnh cánh hạc mệt mỏi bay trên bầu trời gợi liên tưởng đến những người phiêu bạt, lang thang kiếm sống khắp nơi. Cuộc đời của họ cũng không hạnh phúc hơn. Rời xa quê hương để kiếm sống, nhưng vẫn phải chịu khổ cực.
Cuối cùng, bài ca dao kết thúc bằng tiếng kêu khắc khoải của con cuốc giữa trời mà không ai nghe thấu:
“Thương thay con cuốc giữa trời
Dầu kêu ra máu có người nào nghe”
'Con cuốc' là biểu tượng cho những người thấp cổ, bé họng, không có tiếng nói trong xã hội. Cuộc đời của họ luôn phải chịu những uất ức mà trời đất không nghe, không thấu.
Bốn hình ảnh 'tằm, kiến, hạc, cuốc' khác nhau nhưng đều nói về thân phận vất vả, khổ cực của người nông dân trong xã hội xưa. Từ đó, ông cha ta muốn tố cáo xã hội phong kiến bất công đã đẩy con người vào hoàn cảnh bất hạnh.
Với bài ca dao này, ông cha ta đã truyền đạt những bài học quý giá đến thế hệ sau. Từ đó, mỗi người càng trân trọng hơn cuộc sống hiện tại.