Hai khổ thơ đầu của bài thơ Ông đồ mang đến 7 ví dụ cụ thể, kèm theo 2 mẫu dàn ý chi tiết. Nhờ đó, học sinh lớp 8 có thể hiểu rõ hơn ý nghĩa của hai khổ thơ này và hoàn thiện bài văn của mình một cách nhanh chóng.
Hai khổ thơ đầu của bài thơ Ông đồ của Vũ Đình Liên cho chúng ta thấy rõ hình ảnh của ông đồ thời xưa. Điều này phản ánh nét văn hóa truyền thống từ lâu đời của người Việt mỗi khi tết đến và xuân về. Hãy cùng theo dõi để hiểu sâu hơn về bài văn này và cải thiện kỹ năng viết văn của bạn.
Đề bài: Nhận định về hai khổ thơ đầu của bài thơ Ông đồ của Vũ Đình Liên
Kế hoạch Cảm nhận hai khổ thơ đầu của bài thơ Ông đồ
Bản dàn ý số 1
1. Khởi đầu
Giới thiệu về tác giả Vũ Đình Liên, bài thơ Ông đồ và hai khổ thơ đầu.
Lưu ý: Học sinh có thể lựa chọn việc bắt đầu mở bài trực tiếp hoặc gián tiếp tùy thuộc vào khả năng của mình.
2. Nội dung chính
a. Khung cảnh
Mô tả về mùa xuân đang đến, hoa đào nở rộ, và hình ảnh ông đồ đứng bày mực tàu giấy đỏ trên phố đông đúc.
Cụm từ “Mỗi, lại” thể hiện sự lặp đi lặp lại, như một phần không thể thiếu trong cuộc sống hàng ngày.
→ Điều này thể hiện nét văn hóa truyền thống của người Việt, được giữ gìn và trân trọng mỗi khi tết đến xuân về. Trước sự sôi động của không gian ngày tết, hình ảnh của ông đồ và việc viết chữ trở thành một phần không thể thiếu.
→ Sự quan trọng của nhân vật ông đồ trong văn hóa hàng ngày của mọi người mỗi khi tết đến và xuân về.
b. Tiếp theo trong bài thơ
- “Bao nhiêu người thuê viết”: thể hiện sự đông đúc, náo nhiệt của con người trước cảnh viết chữ của ông đồ.
- Mọi người kính trọng và ngưỡng mộ tài năng viết của ông đồ. Khung cảnh việc viết chữ trở nên sôi động, hào hứng và vui vẻ.
- Nét chữ của ông đồ được mọi người khen ngợi như “phương múa rồng bay”, thể hiện niềm tin và hy vọng vào một năm mới an lành và thịnh vượng.
→ Khổ thơ này miêu tả sự ngưỡng mộ và kính phục của con người đối với tài năng viết của ông đồ, đồng thời bày tỏ hy vọng vào một năm mới tốt lành.
3. Tổng kết
Tóm tắt giá trị nghệ thuật và ý nghĩa của hai đoạn thơ, cũng như đưa ra bài học và áp dụng vào thực tế.
Kế hoạch 2
1. Khởi đầu
- Giới thiệu về tác giả Vũ Đình Liên và tác phẩm Ông đồ.
- Hai đoạn thơ đầu tiên mô tả về ông đồ thời Nho học và sự tôn trọng dành cho ông.
2. Nội dung chính
- Hình ảnh ông đồ hiện hữu kèm theo hoa đào là biểu tượng của sự trở lại của mùa xuân.
- Ông đồ và hoa đào luôn liên kết với nhau, tượng trưng cho sự khởi đầu của một năm mới
- Cụm từ 'Mỗi năm ... lại': thể hiện sự quen thuộc, lặp đi lặp lại như một truyền thống hàng năm, đối với cả ông đồ và mọi người.
- Hình ảnh của ông đồ cùng với giấy đỏ và mực tàu: là một hình ảnh quen thuộc và sâu sắc trong tâm trí mỗi khi tết đến và xuân về.
=> Hình ảnh đẹp nhất, giản dị và yên bình giữa sự tấp nập của đường phố vào thời điểm chuyển mùa.
=> Hình ảnh của ông đồ đã thấm sâu vào tiềm thức của người Việt.
- Trong thời kỳ này, hình ảnh của ông đồ trở thành trung tâm thu hút sự chú ý của mọi người:
- Dù chỉ im lặng ngồi ven đường, nhưng ông đồ vẫn thu hút sự chú ý của mọi người.
- 'Bao nhiêu người thuê viết': Mọi người đều muốn sở hữu nét chữ của ông đồ để trưng bày trong nhà, để ngắm nhìn bút phúc tài của ông.
- Khả năng viết của ông đồ được mọi người đánh giá cao bằng lời khen ngợi của họ
- Mỗi nét bút trên tờ giấy đỏ khiến mọi người không ngừng vỗ tay khen ngợi,
- Bút viết bay như 'rồng múa phượng bay' => tuyệt vời không tì vết.
=> Khổ thơ thứ hai được tạo ra để chứng minh tài năng và khẳng định sự tài ba của ông đồ.
- Trong thời kỳ này, ông đồ trở thành một phần không thể thiếu trong văn hóa của người Việt Nam. Đây chính là thời kỳ hoàng kim của những người ông đồ viết chữ thuê.
3. Tóm lại
- Nhấn mạnh lại vấn đề.
Cảm nhận hai khổ thơ đầu của bài thơ Ông đồ - Mẫu 1
Bài thơ được viết vào năm 1936 và được công bố trên tạp chí “Tinh Hoa”. Nó ra đời trong bối cảnh mà văn học Hán ngữ đang dần mất đi vị thế của mình do ảnh hưởng từ văn hóa phương Tây. Đồng thời, đây cũng là thời điểm mà sự trọng vọng dành cho các ông đồ đã giảm đi do thay đổi của thời đại. Tiêu đề của bài thơ gợi lại một trang đẹp đã qua, kèm theo một sự tiếc thương sâu sắc. Khi nhắc đến ông đồ, chúng ta cũng nhớ đến những người thầy dạy chữ Nho trong quá khứ. Mỗi khi tết đến và xuân về, hình ảnh của ông đồ thường hiện lên trên đường phố, viết những câu đối đỏ như thế này:
“Mỗi năm hoa đào nở
Lại thấy ông đồ già
Bày mực tàu giấy đỏ
Bên phố đông người qua”.
Hình ảnh này đã trở nên quen thuộc vì mỗi dịp Tết, ông đồ già luôn xuất hiện với mực tàu và giấy đỏ. Đó là thời kỳ đắc ý, thời kỳ vàng son của ông. Như một chu trình của thời gian, mỗi khi chuyển giao giữa năm cũ và năm mới, khi những cành đào hồng tươi nở rộ thì ông đồ cũng hiện hình. Nơi làm việc của ông là bên đường phố.
Hãy tưởng tượng dưới hàng hoa đào và bầu trời se lạnh có một ông đồ già đang viết những nét chữ tinh tế, cùng với sự náo nhiệt của những bước chân qua lại tạo nên một bức tranh vô cùng vui tươi. Từ “mỗi”, “lại” đã phần nào thể hiện nhịp điệu đều đặn ấy.
Hoa đào và ông đồ đã đi đôi với nhau, cùng nhau tôn thêm vẻ đẹp của ngày Tết. Màu hồng của hoa đào, màu đen của mực, màu đỏ của giấy đã tạo ra một bức tranh sinh động. Tài năng viết chữ của ông đồ được mọi người ngợi khen, thán phục:
“Bao nhiêu người thuê viết
Tấm tắc ngợi khen tài
Hoa tay thảo những nét
Như phượng múa rồng bay”.
Rất nhiều người thuê ông viết chữ, họ không chỉ trân trọng những nét chữ của ông mà còn dành cho ông lòng kính trọng. Ông đã thể hiện tài năng của mình qua những câu đối đỏ, qua những nét chữ tinh xảo. Chỉ có người hiểu biết về Hán học, chữ Nho thì ông đồ mới có thể viết ra những nét chữ tài hoa đến như vậy. So sánh “như phượng múa rồng bay” thể hiện lòng ngưỡng mộ, sự tôn trọng của Vũ Đình Liên và của nhân dân đối với ông đồ.
Điều này cũng thể hiện lòng trân trọng đối với những giá trị văn hóa truyền thống của dân tộc. Chơi chữ không chỉ là một thú vui, mà còn là biểu hiện của phẩm chất cao quý của người thưởng thức nó. Người viết chữ cũng được xem như một nghệ sĩ tài ba vì nét chữ là bản thể của tâm hồn, tinh thần của người sáng tạo. Ông không chỉ viết đẹp mà còn viết nhanh, điều này thực sự đáng kính ngưỡng.
Những nét chữ uốn lượn một cách tài tình dưới đôi tay của một người có kiến thức làm cho mọi người đều muốn thuê ông viết cho câu đối đỏ. Có thể nói, vào thời kỳ đắc ý, ông đồ rất được nhiều người mến mộ, họ đến với ông vì sự ngưỡng mộ nét chữ tự do. Người viết chữ và người chơi chữ như có một liên kết sâu sắc bởi vì họ đều là những người biết trân trọng và đánh giá cái đẹp.
Cảm nhận về hai khổ thơ đầu của bài thơ Ông đồ - Mẫu 2
Sự xuất hiện của ông đồ gắn liền với sự luân phiên của thời gian, không gì có thể thay đổi được điều đó:
Mỗi năm hoa đào nở
Lại thấy ông đồ già
Bày mực tàu giấy đỏ
Bên phố đông người qua.
Bao nhiêu người thuê viết
Tấm tắc ngợi khen tài
“Hoa tay thảo những nét
Như phượng múa, rồng bay”.
Thời gian được đếm bằng hoa đào nở, tín hiệu của sự chuyển giao sang mùa xuân, sắc màu của cuộc sống được tạo ra từ sắc đỏ tươi thắm của giấy, sự sầm uất của phố phường được biểu hiện qua nhịp sống của những người qua lại, và tình cảm của con người được thể hiện qua hình ảnh của người thuê viết và sự tán thưởng về tài năng.
Nổi bật trên phông nền rực rỡ, tươi vui đó là hình ảnh của ông đồ, một nghệ sỹ nhận được sự ngưỡng mộ, sự thán phục từ mọi người.
Hoa tay thảo những nét
Như phượng múa, rồng bay.
Hoa đào đã nhường chỗ cho hoa tay, biểu tượng cho tài hoa của ông đồ, mà mỗi nét chữ từ tay ông như một phép màu, so sánh như phượng múa và rồng bay. Đây là một hình ảnh so sánh tuyệt vời, giàu giá trị nghệ thuật, thể hiện sự thăng hoa trong ngôn ngữ của Vũ Đình Liên khi miêu tả nét chữ mềm mại và linh thiêng của ông đồ.
Chúng ta có thể nhớ đến câu chuyện về cây bút thần của Lê Mã Lương trong văn học Trung Quốc cổ, khi mỗi nét bút cất lên, vạn vật như sống dậy, tạo ra một thế giới sống động. Ông đồ đã gửi gắm tâm huyết và tài năng của mình vào những nét chữ tài hoa. Đây là thời kỳ đắc ý nhất của ông, khi cái đẹp và tài năng của ông được trân trọng.
Trải lòng về những khổ đau trong hai bài thơ Ông đồ - Mẫu 3
Đây là phần thứ hai của bài thơ 'Ông đồ' của Vũ Đình Liên, một tác phẩm nổi bật trong trào lưu Thơ mới trước năm 1945. Hình ảnh và lối diễn đạt của thơ gợi lên một cảm giác buồn lặng lẽ, thấm vào lòng người.
Nhiều năm đã trôi qua. Mất đi những mùa xuân sôi động, không còn những ngày háo hức bên đường phố nữa, khi ông đồ 'Hoa tay thảo những nét - Như phượng múa rồng bay”. Một thời hoa lệ đã qua, để lại một hiện tại cô đơn, trống vắng. Câu hỏi nhẹ nhàng nảy lên như một hơi thở dài uất ức. Tiếc nuối cho sự thay đổi của thế giới, cho sự lạnh nhạt của con người. Thời gian trôi qua buồn thảm, càng làm cho cuộc sống trở nên vô vị hơn:
'Nhưng mỗi năm mỗi trống trải
Bóng dáng người thuê viết ở đâu?'
Vũ Đình Liên đã sử dụng sự hình tượng của vật để miêu tả tâm hồn con người, tình cảm con người sâu lắng:
'Giấy đỏ u ám không còn tươi sáng;
Mực đọng trong nghiên buồn thâm'...
'Giấy đỏ' biểu hiện sự u ám của người, màu sắc đã phai màu, nhạt nhòa như 'buồn không còn tươi sáng'. Mực trong bút, ngày xưa thơm mùi mực Tàu đen, nay trở thành “nghiên buồn thâm' đáng thương; mực đã khô, đã chết, đã đọng lại một cách buồn thảm. Giấy đỏ, bút mực trở thành biểu tượng của nỗi buồn cô đơn của một tầng lớp tài năng bị bất phùng thời trong thời đại loạn lạc, thời kỳ 'Thời có ra gì cái chữ Nho' - khi chữ Hán đã mất dần!
Những mùa hoa đào trôi qua... Giữa không gian se lạnh, chỉ còn hình ảnh của một ông đồ già trơ trọi đáng thương:
'Ông đồ vẫn ngồi đó
Qua đời không ai nhớ'.
Ba từ 'vẫn ngồi đó' mô tả một hình tượng đứng im, không cảm xúc và vô hồn. Bị bỏ quên trong tâm trí của mọi người và trong cuộc sống, không ai còn chú ý đến ông đồ nữa: 'Qua đời không ai nhớ'! Hình ảnh trong bài thơ là toàn bộ một cảm xúc đắng cay, đau lòng!
Bài thơ 'Chợ Đồng' của Tam Nguyên Yên Đổ ghi lại những khung cảnh buồn thảm của phiên chợ Tết ở làng quê trong những năm đầu của thế kỷ trước. Người đi chợ về lẻ loi, lạc lõng trong một không gian 'Dở trời mưa bụi còn hơi rét', chỉ cảm nhận một nỗi buồn cô đơn 'xáo xác' mà thôi:
'Hàng quán vắng vẻ, nghe tiếng xáo xác,
Nợ nần năm nào cũng hỏi lung tung'.
Một lần nữa, chúng ta gặp lại hình ảnh của cơn mưa bụi trong bài thơ 'ông đồ'. Một cuộc sống hiện tại đầy buồn bã và đáng thương, đầy tiếc nuối và xót xa:
'Lá vàng rơi trên tờ giấy;
Ngoài trời mưa bụi tung bay...
Tại sao tờ giấy đỏ lại phủ đầy lá vàng mà không 'buồn không thắm'? Màu vàng tàn tạ của lá rụng, cơn mưa bụi tiết đông cuối cùng, như một lớp phủ mờ đất trời, làm đau lòng, làm tê tái tâm hồn của người đọc. 'Lá vàng', 'mưa bụi tung bay' là những biểu tượng của sự tàn phá để lại nhiều nỗi đau thương. Hình ảnh của ông đồ già đứng im như một bức tượng cổ, dần mờ, dần phai trên nền 'vàng' của lá rụng, trong màu trắng đục, trắng mờ của cơn 'mưa bụi tung bay' cuối đông.
Thơ luôn để lại dấu ấn, gợi nhớ điều gì đó trong lòng người. Cảm xúc thương xót là điều nhân văn, là chất liệu của đoạn thơ này đã ảnh hưởng sâu sắc tới tâm hồn ta. Hình tượng thơ mang ý nghĩa tượng trưng mạnh mẽ, gợi lên cảm xúc sâu xa. Thương cảm ông đồ già, thương cảm cho một tầng lớp tài năng, ta lại tiếc thương cho bản sắc văn hóa truyền thống của quê hương đã phai nhạt. Nghiên sầu của ông đồ già vẫn mãi ám ảnh không dứt.
Ông đồ già 'Những người vĩnh hằng cổ xưa - Hồn ở nơi đâu bây giờ?
Cảm nhận về những khổ thơ trong bài 'Ông đồ' - Mẫu 4
Xuất hiện trong trào lưu Thơ mới như một làn gió mới, Vũ Đình Liên đã để lại ấn tượng sâu sắc với người đọc qua bài thơ 'Ông đồ' - một tác phẩm về sự hoài niệm, hồi tưởng về những giá trị truyền thống của dân tộc. Đọc bài thơ, chúng ta không thể không thương cảm với hình ảnh của những ông đồ 'những dấu tích tiều tụy đáng thương của một thời xa xưa' đã qua đi. Và hai khổ thơ đầu tiên của bài thơ là biểu tượng của ông đồ già trong thời kỳ truyền thống của Việt Nam:
'Mỗi năm hoa đào lại nở
Lại thấy ông đồ già
Bày mực Tàu, giấy đỏ
Trong đám đông qua lại phố
Bao nhiêu người thuê viết
Tấm tắc ngợi khen tài
Hoa tay thảo những nét
Như rồng múa phượng bay'
Những người ông đồ thường là những người thi cử không đỗ nên trở về quê dạy chữ cho trẻ thơ. Mặc dù không thành danh, nhưng họ vẫn là những con người tài năng, có lòng nhân văn, nên được mọi người vô cùng kính trọng và yêu mến.
Hình ảnh của ông đồ trong thơ Vũ Đình Liên đi kèm với hình ảnh của những đóa 'hoa đào nở', đây là một hình ảnh quen thuộc với những con người của thế kỷ trước, nó sâu vào tiềm thức của con người, là điều gì tự nhiên, thân thuộc nhất. Hoa đào xuất hiện báo hiệu thời khắc chuyển giao của năm mới, và chính lúc đó, ông đồ cũng xuất hiện cùng với giấy đỏ, bút lông và nghiên mực giữa dòng người tấp nập đi mua sắm. Ông xuất hiện như một quy luật theo vòng xoay của thời gian, là một nét rất đặc trưng của dân tộc Việt mỗi khi Tết đến xuân về. 'Mỗi năm - lại' - đó là quy luật không thay đổi với sự xuất hiện của người thầy đồ già trên con phố, điều này rất thân thuộc, an lành nhất trong mỗi khoảnh khắc giao mùa thiêng liêng. Sự xuất hiện của ông là điều hiển nhiên, quen thuộc quá, trầm lặng giữa sự hối hả của phố phường ấy vậy mà không làm mất đi sức hút với mọi người:
'Bao nhiêu người muốn thuê viết
Tấm tắc khen ngợi tài'
Vũ Đình Liên đã vẽ lên một bức tranh sinh động với hình ảnh người thầy đồ là trung tâm và xung quanh là biết bao người đang đứng ngắm nhìn từng dòng chữ trên giấy đỏ, Những con chữ bay bổng với những điều tốt lành có lẽ là hình ảnh đẹp nhất trong kí ức mùa xuân xưa. Ai cũng muốn có một bộ đôi câu đối đỏ treo trong nhà ngày Tết, để tự hào, cũng như để thêm may mắn. Mọi người tranh nhau xin những dòng chữ, cái đẹp từ người thầy đồ già ấy. Điều đó khiến cho người thầy đồ cảm thấy được sự quan trọng, ý nghĩa của cuộc sống của mình. Mỗi lời khen tấm tắc, mỗi câu 'ngợi khen tài' khiến cho ông đồ già càng thêm ấm lòng, càng thêm động lực để từng con chữ bay bổng hơn 'như rồng múa phượng bay'. Mỗi người đến với ông đồ để xin chữ đều là những con người trọng chữ nghĩa, yêu mến cái tài hoa của ông. Có thể nói, thời kì này, ông đồ là trung tâm của mọi sự chú ý. Để làm được điều đó, ông đồ phải là một con người tài hoa với những nét chữ xuất sắc và Vũ Đình Liên đã dùng hai câu thơ để minh họa cho tài năng của người thầy đồ ấy:
'Hoa tay thảo những nét
Như rồng múa phượng bay'
Với những người hiểu biết về thư pháp, Nho học, mỗi chữ là một bức tranh, là một tác phẩm nghệ thuật mà không phải ai cũng có thể sáng tạo ra mà cần kiến thức uyên bác và sự khéo léo của đôi bàn tay. Hình ảnh người thầy đồ cẩn thận viết từng chữ múa lượn trên giấy đỏ, những nét thanh, nét đậm, nét sổ vừa bay bổng lại vừa dứt khoát đẹp đẽ khiến ai cũng phải thán phục. Từng nét chữ không chỉ chứa đựng sự tài hoa của thầy đồ mà còn chứa đựng những tâm tư, tinh hoa, khát vọng, lý tưởng của ông.
Ông đồ thời kỳ này trở thành biểu tượng văn hóa đặc sắc trong lòng người dân Việt Nam, khi mà Nho học vẫn đang phát triển mạnh mẽ. Đó là thời kỳ mà mỗi người viết chữ, người nhận chữ đều trân trọng giá trị văn hóa Nho học, thể hiện cái nét thanh cao, đẹp đẽ của văn hóa đó.
Hai khổ thơ đầu của bài thơ Ông đồ của Vũ Đình Liên như một lời khen ngợi, như một niềm hoài cổ với những giá trị truyền thống của văn hóa Việt Nam. Bây giờ, dù hình ảnh ông đồ đã không còn, nhưng qua hai khổ thơ đầu ấy, chúng ta - những thế hệ sau như được sống lại trong bức tranh của dịp Tết đến xuân về với hình ảnh người thầy đồ ngồi viết chữ cùng giấy đỏ, bút lông, nghiên mực, bình dị giữa phố xá tấp nập người qua.
Nhận xét về hai khổ thơ 1 và 2 của bài thơ Ông đồ - Mẫu 5
Ông đồ là hình ảnh quen thuộc trong mỗi dịp Tết xưa, nhiệm vụ của ông trong mỗi dịp Tết là viết câu đối chúc Tết để trang trí nhà cửa, mong một năm mới may mắn, an lành cho mọi người. Vị trí của ông đồ thường là tầng lớp trí thức được nhiều người tôn trọng.
Hình ảnh ông đồ hiện lên như một quy luật tự nhiên:
Mỗi năm đào nở
Lại thấy ông đồ ngựa già
Bày mực đỏ trên giấy
Trên phố đông người qua.
Sự hiện diện của ông đồ là dấu hiệu của mùa xuân, liên kết với vòng quay của thời gian luôn lặp lại, từ “mỗi” cho thấy hình ảnh này là quen thuộc với mọi người, màu đỏ của giấy, màu đen của mực cùng với sự đông đúc của phố xá trước Tết khiến không khí trở nên phấn khích hơn. Thơ nhẹ nhàng nhưng vẫn phản ánh được niềm vui của không gian xuân đang lan tỏa, trong đó hình ảnh ông đồ là trung tâm.
Ông đồ thảo những nét rồng múa phượng bay cho mọi người:
Bao người thuê viết
Tấm tắc khen ngợi tài
“Hoa tay vẽ nét đẹp
Như phượng bay, rồng múa”.
Với tài năng của mình, ông được rất nhiều người thuê viết, họ đều thể hiện sự kính trọng, yêu mến. Có thể nói ông chính là trung tâm thu hút chú ý của mọi người. Nét chữ đẹp của ông được so sánh với những gì tinh túy và đẹp nhất “như phượng múa rồng bay”. Tác giả sử dụng hình ảnh so sánh đẹp, có giá trị tạo hình, mô tả hết những nét chữ đẹp, tao nhã. Với hình ảnh so sánh đó, tác giả đã ca ngợi ông đồ là một người tài năng và hết lòng vì nghệ thuật.
Trong khổ thơ 1 và 2, đó chính là hình ảnh của ông đồ thời xưa. Ông xuất hiện để viết câu đối cho mọi người mỗi dịp tết, và tài năng nghệ thuật đó được nhiều người quý trọng. Đây chính là nét đẹp của ông đồ thời xưa.
Cảm nhận về khổ thơ 1 và 2 của bài thơ Ông đồ - Mẫu 6
Sự suy tàn của nền Nho học đã kéo theo một lớp người trở thành nạn nhân đau khổ. Ông đồ của Vũ Đình Liên là một chứng tích cho một vẻ đẹp không bao giờ trở lại. Là hình ảnh đã ăn sâu vào tiềm thức mọi người và vì thế chưa mất đi hoàn toàn, nhất là đối với những con người có tâm trạng hoài niệm về vẻ đẹp quá khứ như Vũ Đình Liên. Khi mà chữ nghĩa thánh hiền cao quý không còn vị trí, phải ra tận vỉa hè, đường phố, đã trở thành một món hàng… con người ta mới thảng thốt, giật mình, xót xa cho ánh hào quang rực rỡ một thời. Tâm sự ấy đã được thể hiện trong bài thơ tạo nên sự giao thoa đồng cảm giữa nhân vật trữ tình và chủ thể trữ tình:
Mỗi năm hoa đào nở
Lại thấy ông đồ già
Bày mực đỏ trên giấy
Trên phố đông người qua.
Ở đó là những hình ảnh, ấn tượng đã in sâu trong kí ức của chàng trai trẻ. Là sự lặp lại của hoa đào, của ông đồ, của mực tàu, giấy đỏ tạo nên một nét đặc trưng thiêng liêng của văn hoá dân tộc khi Tết đến, xuân về. Nhưng ta không thể không cảm thấy thương cảnh ông đồ phải sống vật vã trên con đường kiếm sống của mình. Vẻ già nua đáng thương hay là đạo hạnh sắp suy tàn? Trớ trêu thay, nơi ông có thể bảo tồn văn hoá, nơi ông có thể kiếm sống lại là “bên phố đông người qua”. Hình bóng cô đơn, lẻ loi của con người như bất lực trước hiện thực khắc nghiệt. Trong cuộc sống bận rộn, hiện lên hình ảnh ông đồ đang gõ từng con chữ tài năng và tâm huyết của một đời người ngay giữa chợ đời:
Bao nhiêu người thuê viết
Tấm tắc ngợi khen tài
Hoa tay thảo những nét
Như phượng múa rồng bay.
Đó là dư vang của một thời, nhưng cũng là hình ảnh đáng buồn trong sự đấu tranh vô vọng, như một ánh nắng cuối ngày rực rỡ, sáng lên khi ngày đã gần kết thúc. Cảnh hỗn tạp, chật chội để mua một câu đối, một đôi chữ Nho mới làm sao chịu nổi. Trong số những người đó, có ai thực sự cảm thấy đau lòng vì sự suy tàn thảm hại của chữ Thánh Hiền – một giá trị tinh thần được đặt lên ngang hàng với giá trị vật chất?
Cảm nhận về 2 khổ đầu bài thơ Ông đồ
Ông đồ, một hình ảnh rất quen thuộc trong xã hội Việt Nam thời xưa. Đó là biểu tượng của những nhà nho không đỗ đạt làm quan, thường đi dạy học. Sau khi chế độ khoa cử của Nho học bị bãi bỏ, ông đồ bị đẩy ra ngoài xã hội và phải tìm cách kiếm sống bằng việc viết chữ thuê trong những ngày tết đến.
Thời gian trôi qua, mọi thứ đều thay đổi, hình ảnh của ông đồ cũng dần phai nhạt đi, chỉ còn lại như một biểu tượng buồn của quá khứ. Với bút pháp tài hoa và sắc bén, Vũ Đình Liên đã thể hiện sự thương cảm của mình trước sự suy tàn của Nho học thông qua bài thơ về ông đồ. Bài thơ mở đầu bằng hình ảnh quen thuộc của “ông đồ”.
Mỗi năm hoa đào nở
Lại thấy ông đồ già
Bày mực tàu giấy đỏ
Bên phố đông người qua.
Trong không khí rộn ràng của ngày Tết, ông đồ già với bút mực tàu và giấy đỏ ngồi bên lề đường, chờ đợi có người đến thuê viết thơ, đối. Trước đây, mọi người thường tặng chữ, chứ không ai bán chữ. Nhưng giờ đây, ông đồ phải bán chữ. Tiếng thơ u uất tạo ra một không khí u buồn, làm rung động lòng người. Nhưng vào lúc này, ông đồ cũng cảm thấy an ủi bởi mọi người vẫn thích những nét chữ hình tượng đó để trang trí trong những ngày Tết. Và từ đó đã có:
Bao nhiêu người thuê viết
Tấm tắc ngợi khen tài
Hoa tay thảo những nét
Như phượng múa rồng bay.
Với sự so sánh tài tình, nhà thơ đã tổng kết được sự tài hoa, khéo léo trên từng nét chữ của ông đồ. Những nét thảo mạ cứ như phượng múa rồng bay. Chúng đẹp không chỉ về màu sắc mà còn về hình thức. Mọi người đều khen ngợi tài năng. Vào thời điểm đó, ai cũng muốn có câu đối đỏ để trang trí trong những ngày xuân tươi đẹp.
Những lời khen dù hào phóng, nhưng cân nhắc thì đó chỉ là những lời khen từ người ngoài giới văn chương. Việc viết câu đối thuê đã là nỗi lận đận, là bước thất thế của người theo nghiệp học vấn. Đỗ các thành quan nghèo, quan thám, đỗ thấp thì cũng còn là điều tốt, chứ ông đó không đạt được gì, công danh chưa thành, danh tiếng chưa đạt, phải về quê dạy học, thư giãn, hay xem bói ở thành thị như có lần Tản Đà đã làm.
Ngày tết, mài mực bán chữ ngoài vỉa hè cũng là việc không may của người theo nghề học vấn. Chữ thì để cho, ai lại bán. Bán chữ là điều cực hình của người sĩ từ xưa đến nay. Bà con yêu mến và ngưỡng mộ cái nghề văn chương mà họ không hiểu, hoặc chỉ coi thường, nên mới ca ngợi như vậy. Lời khen này không làm tăng vinh quang cho ông đồ, có thể ông còn đau lòng hơn, nhưng nó là tình cảm của người đời vào thời khắc khó khăn của ông.
Tác giả giới thiệu: cùng với hoa đào, mỗi năm lại có một lần, giấy đỏ, mực tàu, chữ nghĩa thánh hiền được bày bán trên vỉa hè. Đừng suy nghĩ về nghề học vấn, hãy xem xét về vai trò của người bán, vì đó là hai đoạn thơ vui vì nó thể hiện được sự cần mua, ông đồ vẫn còn sống, có thể tồn tại trong xã hội đang thay đổi này.