TOP 12 Bài Cảm Nhận Vẻ Đẹp Tâm Hồn Bác qua Bài Thơ Ngắm Trăng, Kèm Theo 3 Dàn Ý Chi Tiết và Sơ Đồ Tư Duy, Giúp Các Em Học Sinh Lớp 8 Thấy Rõ Phong Thái Ung Dung, Tinh Thần Lạc Quan của Bác Trong Những Năm Tháng Tù Đày.
Bài Thơ Ngắm Trăng Đã Khắc Họa Thành Công Bức Chân Dung Tâm Hồn Người Chiến Sĩ Cộng Sản Yêu Thiên Nhiên, Với Tinh Thần Lạc Quan, Mạnh Mẽ. Chi Tiết Mời Các Em Cùng Theo Dõi Bài Viết, Để Có Thêm Nhiều Vốn Từ, Ngày Càng Học Tốt Môn Văn 8.
Sơ Đồ Tư Duy: Vẻ Đẹp Tâm Hồn của Bác Qua Bài Thơ Ngắm Trăng
Dàn Ý: Vẻ Đẹp Tâm Hồn Của Bác Qua Bài Thơ Ngắm Trăng
Dàn Ý Thứ Nhất
1. Khai Mạc:
- Hồ Chí Minh - Vị Lãnh Đạo Kính Yêu Của Dân Tộc Việt Nam Và Một Nhà Thơ Vĩ Đại.
- 'Nhật Ký Trong Tù' - Tập Nhật Ký Thơ Của Ngài.
- Bài Thơ 'Ngắm Trăng' Trong Tập Thơ Đó Minh Chứng Cho Vẻ Đẹp Tâm Hồn Của Bác Hồ Chí Minh.
2. Phần Thân Bài:
a. Bối Cảnh Sáng Tác:
- Vào những năm 1942, khi Bác bị bắt và giam giữ tại Trung Quốc.
- Trong nhà tù, Bác đã viết tập thơ 'Nhật Ký Trong Tù' bằng chữ Hán, gồm 133 bài thơ, đa số là thơ tứ tuyệt.
- Bài thơ 'Ngắm Trăng' ra đời trong tình huống đó.
b. Tâm Hồn Thi Sĩ Và Tình Yêu Thiên Nhiên Sâu Sắc Của Bác:
- Bối Cảnh: 'Trong Nhà Tù Không Rượu, Không Hoa':
- Rượu và hoa đều là những yếu tố làm tăng thêm sự hấp dẫn khi ngắm trăng.
- Tuy nhiên, Bác đang bị giam giữ trong nhà tù, không có cơ hội để thưởng trăng với rượu và hoa như những thi nhân khác.
- Lời thơ truyền đạt một cách tự nhiên như là một câu chuyện được kể ra.
- Từ 'diệc' - cũng làm tăng thêm cảm giác thiếu thốn của người tù.
- Câu hỏi đầy nỗi lo lắng: 'Với cái mục đích sinh hoạt hàng ngày mà còn gặp khó khăn vậy?':
- Câu thơ được xây dựng bằng các vần bằng, tạo ra sự hứng khởi của thi nhân.
- Với tình yêu thiên nhiên sâu sắc, Bác không muốn bỏ lỡ cơ hội thưởng thức cảnh đẹp này, và từ đó, Bác tự đặt ra câu hỏi trong lòng.
- Trong tâm trạng vượt ngục tinh thần để hoà mình với thiên nhiên: 'Nhìn theo hướng cửa sổ, Bác thấy mặt trăng lên cao/ Mặt trăng như đang nhìn chăm chú vào nhà thơ':
- Các cặp từ 'nhân - nguyệt', 'hướng - tòng' lần lượt được sử dụng: thể hiện sự giao hòa giữa con người và trăng.
- Khi thi nhân ngắm trăng, trăng cũng nhìn lại nhà thơ qua khe cửa.
- Cánh cửa sắt không thể ngăn cản được tâm hồn yêu thiên nhiên đang hoà mình vào ánh trăng.
- Bài thơ thể hiện tình yêu mãnh liệt của Hồ Chí Minh dành cho thiên nhiên, ngay cả khi Người ở trong ngục tối, vẫn hướng về ánh trăng và thưởng thức nó một cách trọn vẹn.
=> Tâm hồn yêu thiên nhiên, hoà mình tuyệt đối với tự nhiên.
c. Thái độ thản nhiên và lạc quan của Người giữa những ngày tù đày:
- Dù ở trong môi trường khắc nghiệt của nhà tù, Hồ Chí Minh vẫn coi đó là điều bình thường, tự nhiên.
- Ngay cả khi bị giam giữ, Người không than trách mà luôn nhìn về phía cái đẹp.
- Trong tình trạng không tự do, Người vẫn có thể tìm thấy niềm vui trong việc thưởng thức ánh trăng.
=> Ngục tù có thể giam giữ thân xác của Bác, nhưng không thể kiềm chế được tinh thần của Người.
d. Đánh giá về nội dung và nghệ thuật:
- Về nội dung: Bài thơ đã thể hiện:
- Tình yêu thiên nhiên và tâm hồn của Bác Hồ, một nhà thơ đích thực.
- Tinh thần lạc quan và sự ung dung của người lính cách mạng trước mọi thử thách.
- Về nghệ thuật:
- Sử dụng thể thơ thất ngôn tứ tuyệt.
- Hình ảnh thơ sống động và ngôn từ giàu hình ảnh.
1. Tóm tắt cuối cùng:
- Đây là bài thơ thể hiện sự cao quý trong tâm hồn của Người.
Dàn ý thứ 2
1. Khởi đầu: Giới thiệu tổng quan
2. Nội dung chính
* Tổng quan về hoàn cảnh của Bác trong bài thơ: bị giam giữ trong tình cảnh tù ngục, cảm thấy thiếu thốn về cả vật chất lẫn tinh thần,…
* Vẻ đẹp tinh thần của Bác
- Tâm hồn phong phú của nghệ sĩ Bác, sâu lắng, mênh mông yêu thiên nhiên:
- Tình yêu với thiên nhiên: lòng yêu thương vẻ đẹp luôn hiện hữu trong trái tim Bác, bởi Bác là nhà thơ, là người nghệ sĩ biết trân trọng và sáng tạo vẻ đẹp. Vẻ đẹp của ánh trăng đã khiến Bác suy tư, đắn đo
- Đối diện với vẻ đẹp của ánh trăng, tâm hồn Bác đã bay cao và trở thành một thi sĩ hòa mình, cảm nhận đặc biệt với ánh trăng
- Tâm hồn nghệ sĩ mang dáng vẻ tự do, lạc quan, ham muốn cách mạng và mong ước tự do rực cháy.
- Vượt lên trên mọi khó khăn, giam giữ, tra tấn tại địa phương giam giữ, Bác không bao giờ mất lòng tin, thậm chí vẫn tự do, sảng khoái, hướng tới vẻ đẹp của ánh trăng.
- Những bức tường sắt của nhà tù không thể kiềm chế được khao khát tự do mãnh liệt trong Bác, Bác đã vượt qua tình trạng giam giữ bằng bản thơ.
=> Sự kiên cường của người lính trong Bác là đến từ tình yêu quê hương và lòng thương dân sâu sắc.
=> Vẻ đẹp tinh thần của Bác là sự hòa quyện hoàn hảo giữa người lính và nhà thơ.
3. Tóm tắt cuối cùng: Tổng kết vấn đề
Dàn ý thứ 3
A. Khởi đầu:
- Giới thiệu về tác giả, tác phẩm: Trải qua hàng thế kỷ, ánh trăng vẫn là nguồn cảm hứng vô tận, là nguồn tinh thần mãnh liệt cho các nhà văn, nhà thơ. Đặc biệt, đối với Hồ Chí Minh, ánh trăng như một người bạn đồng hành, tri kỷ, luôn đi kèm với Người trong cuộc hành trình cứu nước gian khổ.
- Đánh giá giá trị: Bài thơ “Ngắm trăng” đã phản ánh mối quan hệ đặc biệt giữa thi nhân và ánh trăng, qua đó thể hiện phẩm chất cao đẹp của người chiến sĩ cách mạng.
B. Nội dung chính:
1. Luận điểm 1: Nguồn cội và lịch sử
- Trích từ tập “Nhật ký trong tù” viết vào năm 1942, khi Bác bị giam giữ tại nhà tù Tưởng Giới Thạch, Trung Quốc.
- Tập “Nhật ký trong tù” nói chung và bài thơ “Ngắm trăng” nói riêng đã thể hiện tâm hồn cao quý của thi nhân, ý chí kiên cường của một người chiến sĩ cách mạng, cùng nghệ thuật thơ ca đặc sắc.
2. Nhận định về nội dung
* Trong bài thơ “Ngắm trăng”, thể hiện tình yêu thiên nhiên, tình yêu trăng, và tâm hồn lãng mạn, cao đẹp của Hồ Chí Minh
- Hoàn cảnh đặc biệt khi ngắm trăng: “Trong tù không có rượu, không có hoa”. Người xưa uống rượu, thưởng hoa, ngắm trăng, đối thơ, còn Bác ngắm trăng trong tù, nơi không có “rượu”, không có “hoa”, chỉ có xiềng xích và bóng tối.
- Tình yêu thiên nhiên, sự “cảm” đối với vẻ đẹp của thiên nhiên:
- Thậm chí trong nhà tù, Bác vẫn cảm nhận được vẻ đẹp tuyệt vời của thiên nhiên, của ánh trăng. Xiềng xích nhà tù có thể giam giữ thân thể Bác nhưng không thể kìm hãm tâm hồn thi nhân bay đến với thiên nhiên rộng lớn.
- Hai câu thơ 3 và 4 tương phản nhau: Mỗi câu thơ chia thành 3 phần, một bên là “người” (chỉ thi nhân), một bên là “trăng”, và ở giữa là sự phân ly của nhà tù. Cấu trúc này đã tái hiện thực tế (nhà tù chia cắt giữa người và trăng), nhưng từ đó, người đọc cũng nhìn thấy sự giao thoa, sự hòa quyện giữa thi nhân và ánh trăng, với thiên nhiên trong mọi tình huống. Điều này thể hiện mối quan hệ tri kỉ, đầy xúc động giữa nhà thơ và trăng.
* Trong bài thơ “Ngắm trăng”, cũng thể hiện ý chí, lòng quyết tâm kiên cường của người chiến sĩ cách mạng.
- Trong hoàn cảnh tối tăm của nhà tù, Bác Hồ vẫn thể hiện được ý chí, quyết tâm phi thường. Phong thái tự do, bình tĩnh, không bị vướng bận bởi vật chất. Bác vẫn ngắm trăng, vẫn hoà mình vào thiên nhiên dù tay chân bị kẹp bởi xiềng xích.
- Hình ảnh Bác nhìn về ánh trăng qua lưới sắt nhà tù đã cho thấy rằng, trong mọi tình huống, Bác luôn hướng về bầu trời tự do, về tương lai sáng sủa của đất nước. Ánh trăng ấy chính là nguồn sáng hy vọng mạnh mẽ của một người chiến sĩ cách mạng, một người luôn khao khát giải phóng dân tộc.
3. Nhận định về nghệ thuật
- Thể thơ thất ngôn tứ tuyệt ngắn gọn, súc tích, trực tiếp thể hiện tâm trạng của nhân vật trữ tình.
- Nghệ thuật đối được sử dụng một cách tinh tế, thể hiện giá trị tư tưởng của bài thơ.
C. Tóm tắt cuối cùng:
- Đánh giá tổng quát: Bài thơ “Ngắm trăng” đã thể hiện tình yêu thiên nhiên, tâm hồn cao quý của nhà thơ cách mạng Hồ Chí Minh cùng với thái độ tự do, kiên cường không khuất phục trước số phận.
- Liên hệ: Nhà phê bình Hoài Thanh đã đưa ra nhận định chính xác: “Thơ của Bác như trăng tỏa sáng”.
Đoạn văn đánh giá vẻ đẹp tâm hồn của Bác qua bài thơ Ngắm trăng
Qua bài thơ Ngắm trăng, chúng ta thấy được sâu sắc vẻ đẹp tâm hồn của Bác. Trong hoàn cảnh khắc nghiệt của nhà tù, việc Bác ngắm trăng trở thành một buổi tiệc thiếu thốn, thiếu vắng nhiều yếu tố của cuộc ngắm trăng truyền thống. Bác yên lặng, say mê ngắm ánh trăng qua cửa sổ. Tường nhà tù hẹp chật không thể giam giữ được cảm xúc mênh mông, Bác hòa mình vào ánh trăng và truyền tải vào đó khát vọng tự do sâu sắc của mình. Thân thể bị giam giữ nhưng tinh thần của Bác vẫn bay bổng với thiên nhiên. Điều này được giải thích bởi tình yêu của Bác đối với thiên nhiên và bởi một tinh thần bất khuất không chịu khuất phục bởi sự khó khăn, gian khổ. Trăng sáng, tâm hồn cũng sáng sủa, do đó giữa trăng và con người đã có sự hòa hợp tuyệt vời: Trong hoàn cảnh đó, người ta thường chỉ chú ý đến nỗi đau, nỗi khốn khó và sự căm thù. Nhưng Hồ Chí Minh, với tình yêu thiên nhiên tha thiết, Người lại nhìn về ánh trăng sáng sủa, hiền hòa. Phong thái tự do của Bác trong hoàn cảnh khó khăn, phong thái này không phải là điều dễ dàng, phải là người có tầm nhìn lớn, luôn lạc quan mới có thể giữ cho mình một trái tim trong sáng trong chốn lao tù như thế.
Đoạn văn đánh giá vẻ đẹp tâm hồn của Bác qua bài thơ Ngắm trăng
Hồ Chí Minh, lãnh tụ yêu dấu của dân tộc, cũng là một thi sĩ tài năng với những bài thơ sâu sắc, ý nghĩa. Bài thơ 'Ngắm trăng' đã phản ánh một cách rõ ràng vẻ đẹp tâm hồn của Người.
Vào tháng 8 năm 1942, Hồ Chí Minh rời Pác Bó, Cao Bằng để tới Trung Quốc, với hy vọng tận dụng sự hỗ trợ quốc tế. Tuy nhiên, tại thị trấn Túc Vinh, Trung Quốc, Người đã gặp phải sự bắt giữ và giam giữ từ phía chính quyền địa phương. Hồ Chí Minh phải chịu án tù đày kéo dài hơn một năm, được chuyển từ một nhà lao này sang một nhà lao khác tại 13 huyện tỉnh của Quảng Tây - Trung Quốc. Trong những ngày đó, Người đã sáng tác tập thơ 'Nhật ký trong tù' với 133 bài thơ viết bằng chữ Hán, chủ yếu là thơ tứ tuyệt, nhằm thể hiện hoàn cảnh giam cầm của mình. Bên cạnh đó, 'Nhật ký trong tù' cũng là minh chứng cho tâm hồn cao quý, ý chí cách mạng phi thường và tài năng thơ ca tuyệt vời của Người. Bài thơ 'Ngắm trăng' cũng ra đời trong thời kỳ ấy, khi Hồ Chí Minh đang giam giữ và chiêm ngưỡng ánh trăng qua khung cửa sổ nhỏ.
Bài thơ 'Ngắm trăng' tuy bắt nguồn từ hoàn cảnh tù đày, nhưng trong đó, ta có thể nhìn thấy một thi sĩ với tâm hồn sâu lắng yêu thiên nhiên. Trong triết lý của thi nhân xưa, trăng luôn là một nguồn cảm hứng bất tận, và Hồ Chí Minh cũng không là ngoại lệ. Người có một tình yêu trăng sâu đậm, vì vậy khi thấy ánh trăng chiếu sáng qua cửa sổ, Người đã không ngần ngại bày tỏ:
'Ngục trung vô tửu diệc vô hoa'
(Trong tù không có rượu cũng không có hoa)
Trong truyền thống văn hóa, khi thưởng trăng, thi nhân thường sẽ có rượu, có hoa bên cạnh. Bởi vì rượu và hoa làm cho trăng trở nên thú vị hơn, và con người không còn cảm thấy cô đơn dưới ánh trăng. Tuy nhiên, Hồ Chí Minh lại mở bài thơ của mình với câu chuyện 'không rượu cũng không hoa', bởi vì Người đang phải giam giữ trong ngục. Sự sắp xếp từ 'diệc' (cũng) ở giữa câu thơ mang lại sự thiếu thốn cực độ của người tù cách mạng. Tuy nhiên, câu thơ không phản ánh sự phàn nàn, tức giận về hoàn cảnh hiện tại mà thể hiện sự bình tĩnh, bình thản của Người đối diện với sự hiện hữu của nó.
Câu thứ hai trong bài thơ thể hiện sự phân vân của nhà thơ trước vẻ đẹp:
'Cảnh đêm hôm nay khó lòng phủ nhận?'
(Khó lòng không ngưỡng mộ cảnh đẹp đêm nay)
Câu thơ này được xây dựng bằng nhịp điệu đều đặn của các vần thơ, thể hiện tâm trạng xốn xang khó diễn tả của thi nhân. Với tâm hồn say mê thiên nhiên và cái đẹp, không có lý do gì để Bác không muốn thưởng ngoạn cảnh trăng sáng như đêm nay. Nhưng trong bối cảnh thiếu thốn, trong ngục tù, việc thưởng trăng một cách trọn vẹn là điều khó khăn. Do đó, Người cảm thấy bối rối, tiếc nuối và tự hỏi lòng.
Tuy nhiên, với tình yêu thiên nhiên mãnh liệt, Người đã vượt qua khó khăn. Không thể thưởng trăng bên ngoài, Người đã lựa chọn một cách ngắm trăng đặc biệt - thực hiện một cuộc 'vượt ngục tinh thần':
'Ngắm trăng soi qua khung cửa sổ
Trăng nhìn qua khe cửa ngắm nhà thơ)
(Người ngắm trăng qua cửa sổ
Trăng nhìn qua khe cửa để ngắm nhà thơ)
Có thể bữa tiệc ngắm trăng của Bác không có rượu, không có hoa, nhưng lại có một tâm hồn say mê cái đẹp hơn hết thảy, chỉ cần vậy là đủ cho bữa tiệc này. Những phép đối được Bác sử dụng liên tiếp 'nhân - nguyệt', 'hướng - tòng',... thể hiện sự đồng điệu, giao hoà giữa người và trăng, người và trăng trở thành một đôi bạn tri kỷ. 'Nhân' - người hướng ra ngoài cửa sổ ngắm trắng. Đáp lại, 'nguyệt' - trăng cũng qua khe cửa mà ngắm lại nhà thơ. Giữa người và trăng cách nhau bởi song sắt nhà tù thế nhưng song cửa sắt ấy lại chẳng thể thắng nổi mối tương giao giữa hai chủ thể đó. Song sắt nhà tù ngăn chặn bước chân của người, thế nhưng chẳng thể chặn nổi một tâm hồn yêu thiên nhiên đang tự do bay bổng với ánh trăng tuyệt đẹp.
Bài thơ đã thể hiện một tâm hồn thi sĩ, yêu thiên nhiên hết mực của Hồ Chí Minh. Dù trong hoàn cảnh tù đày thiếu thốn, thế nhưng, Người vẫn có thể hoà mình vào cùng với ánh trăng và thưởng thức nó một cách trọn vẹn. Với tình yêu thiên nhiên dạt dào của mình thì không một rào cản nào có thể khiến người chiến sĩ cách mạng bỏ lỡ một cảnh sắc tuyệt vời như ánh trăng!
Thế nhưng, ta không chỉ cảm nhận được một tâm hồn thi sĩ, trái tim yêu thiên nhiên hết mực của Bác mà còn cảm nhận được phong thái ung dung, lạc quan dù ở chốn tù đày tối tăm. Nhà tù khiến cho con người ta sợ hãi không chỉ bởi sự thiếu thốn vật chất:
'Thân gầy đen như quỷ đói
Thân ghẻ lở mọc đầy thân'
Mà còn là sự nao núng về tinh thần khi bị giam cầm trong một nơi chật hẹp và tối tăm. Thế nhưng ở Hồ Chí Minh, qua bài thơ 'Ngắm trăng' của Người, ta cảm thấy ở Bác chứa đựng một sự ung dung, lạc quan trước hoàn cảnh đến lạ thường. Trong ngục, thiếu thốn nhưng Người vẫn chỉ thản nhiên chấp nhận, coi đó là chuyện đương nhiên. Không chỉ vậy, giữa nhà tù hôi hám, bẩn thỉu, Người vẫn luôn hướng về ánh trăng, hướng về vẻ đẹp vĩnh cửu của vũ trụ mà thưởng thức, mà giao hoà như những người tri kỷ. Và hơn thế, ta còn cảm nhận được một tâm hồn tự do hết thảy đang bay bổng, thoát khỏi buồng giam tối tăm này để bay lên cùng ánh trăng tuyệt vời.
Bài thơ được sáng tác bằng thể thơ thất ngôn tứ tuyệt, một dạng thơ của thời Đường, với chủ đề quen thuộc là ánh trăng. Tuy nhiên, nó được viết bởi một tâm hồn đầy yêu thiên nhiên, tràn đầy niềm tin và sự yêu đời của Hồ Chí Minh. Nhịp thơ từ từ kết hợp với hình ảnh sống động, giàu ý nghĩa đã cho thấy tâm hồn cao thượng của một người chiến sĩ cách mạng, dù trong những ngày tù đày tăm tối.
Hoài Thanh từng nhận xét rằng 'thơ của Bác đầy trăng', và đúng vậy, với Bác, ánh trăng là nguồn cảm hứng không ngừng. Tuy nhiên, qua bài thơ 'Ngắm trăng', chúng ta không chỉ thấy được vẻ đẹp của thiên nhiên mà còn nhìn thấy bức chân dung tinh thần của Hồ Chí Minh. Bài thơ xứng đáng trở thành một tác phẩm vĩ đại của Người.
Vẻ đẹp tâm hồn của Bác qua bài thơ Ngắm trăng - Mẫu 1
Trong suốt cuộc đời, Bác Hồ luôn tập trung vào công việc cách mạng của đất nước, Người không mơ thành một nhà thơ, nhưng như đã từng viết:
'Ngâm thơ ta không mơ
Nhưng ngồi trong ngục biết làm sao đây?'
Hoàn cảnh 'rỗi rãi' đã dẫn dắt Người đến với thơ ca như một sự kì duyên. Trong những năm tháng bị giam giữ tại nhà lao Tưởng Giới Thạch, Bác đã sáng tác một bài thơ tuyệt vời: 'Vọng nguyệt'.
'Ngục trung không rượu cũng không hoa
Trong tình cảnh đêm đẹp như hôm nay khó lòng rời bỏ
Người nhìn trăng từ ngoài cửa sổ
Trăng ngó qua khe cửa nhìn nhà thơ'
Bài thơ này đã được dịch là 'Ngắm trăng':
'Trong tù không có rượu cũng không có hoa
Cảnh đẹp của đêm nay khó lòng phủ nhận
Người ngắm trăng từ bên ngoài cửa sổ
Trăng chăm chú nhìn vào khe cửa ngắm nhà thơ'
Chủ đề của bài thơ là 'Vọng nguyệt' - 'Ngắm trăng'. Người xưa thường ngắm trăng trên các lầu vọng nguyệt, trong những vườn hoa, cùng với bạn bè, bên cạnh những bộ thơ, ly rượu.. Nhưng ngày nay, Bác ngắm trăng trong một hoàn cảnh đặc biệt:
'Trong ngục không có rượu cũng không có hoa'
Câu thơ mở đầu hé lộ nhiều điều bất ngờ. Người ngắm trăng là một tù nhân không có tự do 'trong ngục'. Trong tình huống đó, con người thường chỉ vướng vào cảm giác đói, đau đớn và oán giận. Nhưng Hồ Chí Minh, với trái tim yêu thiên nhiên mãnh liệt, lại hướng về ánh trăng thanh bình, dịu dàng. Không chỉ thế, trong ngục tối tăm đó 'không có rượu cũng không có hoa'. Từ 'diệc' trong văn bản gốc chữ Hán (nghĩa là 'cũng') nhấn mạnh những điều kiện khó khăn, thiếu thốn trong việc 'ngắm trăng' của Bác.
Không tự do, không có rượu, không hoa nhưng 'Đối mặt với ánh trăng sáng ta biết phải làm sao?' - Đối diện với vẻ đẹp sáng sủa của ánh trăng, ta phải làm thế nào? Nguyên văn chữ Hán là một câu hỏi đầy lo lắng, phân vân của tâm hồn thi nhân trước vẻ đẹp tinh khiết, tròn đầy của ánh trăng. Không có điều kiện vật chất tối thiểu, không tự do nhưng ở Hồ Chí Minh đã có một cuộc 'vượt ngục tinh thần' độc đáo như Bác đã từng thổ lộ:
'Thân thể bị giam cầm trong nhà tù
Tinh thần tự do bay bổng ngoài kia'
Thân thể bị giam cầm nhưng tinh thần của Bác vẫn bay bổng cùng thiên nhiên. Điều đó được giải thích bởi tình yêu của Bác đối với thiên nhiên và cũng bởi một tinh thần 'thép' không chịu khuất phục trước điều xấu xa, ác ôn. Trăng trong sáng, trái tim cũng trong sáng, giữa trăng và con người đã có một sự hòa mình tuyệt vời:
'Ngắm trăng soi ra ngoài khung cửa sổ
Trăng ngó qua khe cửa ngắm nhà thơ'
Phiên bản dịch thơ:
'Trong nhà lao, không có rượu cũng không có hoa'
Cảnh đẹp của đêm nay khó lòng phủ nhận
Trong bản gốc chữ Hán, nhà thơ tạo ra sự kết hợp giữa hai cặp từ đối lập như 'nhân' - 'nguyệt', 'hướng' - 'tòng', 'song tiền' - 'song khích', 'minh nguyệt' - 'thi gia'. Điều này thể hiện sự hòa hợp, đồng âm giữa con người và trăng, biến trăng và con người thành một cặp bạn tri âm tri kỷ. 'Nhân' không màng đến cuộc sống giam cầm mà 'hướng ra ngoài khung cửa sổ ngắm trắng'. Trong tiếng Hán, 'khán' có nghĩa là xem, thưởng thức. Đáp lại trái tim của người tù - thi nhân, vầng trăng cũng 'ngó qua khe cửa ngắm nhà thơ'. Trong tiếng Hán, 'tòng' là theo; trăng theo song cửa để vào nhà lao 'ngắm' nhà thơ. Đó là một trải nghiệm vô cùng độc đáo. Vầng trăng là biểu tượng cho vẻ đẹp vĩnh cửu của vũ trụ, là niềm khao khát mãi mãi của các nhà thơ. Vậy mà bây giờ, trăng lặn qua song cửa chật hẹp, đặt chân vào chốn lao tù ẩm ướt hôi hám để chiêm ngưỡng nhà thơ hay chính là tâm hồn nhà thơ ấy. Điều đó đã khẳng định vẻ đẹp trong con người Hồ Chí Minh.
'Ngắm trăng' được sáng tác trong khoảng thời gian từ năm 1942 - 1943 khi Bác Hồ bị giam trong nhà lao Tưởng Giới Thạch. Bài thơ thể hiện sự ung dung, phớt lờ đối với những hiểm nguy, gian khổ. Dù ở bất kỳ hoàn cảnh nào, Người cũng hướng về thiên nhiên, bộc lộ tấm lòng ưu ái sâu rộng với thiên nhiên. Đó là một trong những biểu hiện quan trọng của tinh thần thép Hồ Chí Minh.
'Vọng nguyệt' không chỉ là một bài thơ mô tả cảnh vật đơn giản. Thi phẩm còn là một bức tranh tinh thần tự họa của Hồ Chí Minh. Và như vậy, bài thơ thực sự là một tác phẩm đáng trân trọng trong kho tàng thi ca Việt Nam.
Vẻ đẹp tinh thần của Bác qua bài thơ Ngắm trăng - Mẫu 2
Tình yêu trăng mãnh liệt và bản lĩnh thép của người cộng sản đã tạo ra cuộc vượt ngục tinh thần đầy ấn tượng. Sự kết hợp giữa tình yêu và sức mạnh thép, cùng với nghệ thuật đối chiếu và nhân hóa đã tạo nên vẻ đẹp độc đáo của bài thơ.
Ngắm trăng bắt đầu với sự bối rối của người tù - nhà thơ trước vẻ đẹp của trăng. Bởi đây là cảnh ngắm trăng đặc biệt - ngắm trăng trong tù. Trong tù không có rượu, không có hoa là điều dĩ nhiên, Người hiểu điều đó nhưng vẫn nhấn mạnh với từ 'vô' (không) như lời tạ lỗi cùng trăng - người bạn tri âm, tri kỷ. Đó là một chút bối rối rất nghệ sĩ. Bởi chỉ có những nghệ sĩ thực sự mới biết yêu thương sâu sắc và cảm nhận tinh tế trước vẻ đẹp của thiên nhiên.
Với bài thơ này, bên cạnh hiện thực khắc nghiệt của nhà tù, sự lo lắng của nghệ sĩ càng thể hiện bản lĩnh vững vàng của người tù, vượt qua và vượt lên trên hoàn cảnh hiện thực để giữ vững tâm hồn nhạy cảm, luôn biết trân trọng và bị rung động trước vẻ đẹp của thiên nhiên và cuộc sống.
Sau khoảnh khắc suy tư, sự bối rối, đó là khoảnh khắc giao hòa tuyệt vời giữa con người và trăng, thi nhân và bạn tâm tình.
Đó là một sự hòa quyện tĩnh lặng mà tha thiết, sâu sắc. Không có gì cả, chỉ có trái tim của hai người bạn tâm giao hòa vào một từ 'ngắm'. Hai câu thơ sử dụng phép đối trong luật thơ Đường: nhân hướng - nguyệt tòng; minh nguyệt - thi gia (câu trên và câu dưới).
Một lần nữa, đối với từ đầu và cuối mỗi câu thơ: nhăn - nguyệt; nguyệt - thi gia. Thể hiện sự quấn quýt, tâm giao giữa con người và trăng. Hình thức và cấu trúc của câu thơ rõ ràng miêu tả cảnh ngắm trăng trong tù: hai câu đầu là con người và trăng, xen vào đó là sự kiên cường của những chiếc cửa sắt của nhà tù ngăn cách một cách tàn bạo. Nhưng bất chấp cái cửa sắt lạnh lẽo, ghê rợn đó, con người vẫn đến với trăng, vẫn đắm chìm trong việc ngắm trăng và trăng cũng đến với con người một cách dịu dàng. Câu thơ là sự đột phá của luật đối thơ Đường: song - song, khán - khán. Hai chữ 'song - song' như một bức tường của nhà tù ngăn cách con người và trăng thì ngay lập tức đã có 'khán - khán' đối đáp lại. Đó là chiến thắng của tình người, tình yêu thiên nhiên, tình yêu trăng tha thiết của Bác. Khoảnh khắc giao hòa diệu kỳ đã đến. Hình như nhà tù mất đi một cách nhanh chóng, cái cửa sắt lạnh lẽo biến mất, chỉ còn thi nhân và vầng trăng tri âm. Hoàn cảnh là sự ràng buộc, giam cầm, nhưng sức sống của con người là không giới hạn. Và ở trong tù, với Hồ Chí Minh, hướng đến ánh trăng sáng (minh nguyệt) chính là hướng tới tự do - khao khát cháy bỏng của Người:
Ngày dài ngâm ngợi cho khuây,
Vừa ngâm vừa đợi đến ngày tự do....
Vẻ đẹp tâm hồn của Bác qua bài thơ Ngắm trăng - Mẫu 3
'Thơ của Bác rực rỡ dưới ánh trăng' - câu này không sai. Bác đã ngắm trăng và viết nhiều bài thơ về trăng. Có nhiều bài thơ trăng đặc sắc trong tập thơ của Bác: 'trăng lồng cổ thụ', 'Trăng vào cửa sổ đòi thơ', 'Khuya về bát ngát trăng ngân đầy thuyền'. Trăng thường xuất hiện trong thơ của Bác vì Bác yêu thiên nhiên và yêu quê hương. Bài thơ 'Ngắm trăng' là một tác phẩm tuyệt vời, mang phong cách của thơ Đường. Bài thơ này ghi lại cảnh ngắm trăng trong nhà tù, thể hiện tình yêu trăng và thiên nhiên của Bác:
Trong tù không rượu cũng không hoa,
Cảnh đẹp đêm nay khó hững hờ;
Người ngắm trăng soi ngoài cửa sổ,
Trăng nhòm khe cửa ngắm nhà thơ.
Hai câu thơ đầu chứa đựng một nụ cười nhẹ nhàng. Cảm hứng thơ được gợi lên từ rượu và hoa. Những người thơ thường ngồi ngắm trăng, thưởng thức rượu và hoa. Nhưng ở trong tù, chỉ có Bác và trăng, tạo ra vẻ đẹp đặc biệt, gần gũi. Với tình yêu thiên nhiên và tinh thần ung dung, mặc dù không có rượu hoa và trong môi trường tù giam khắc nghiệt, Bác vẫn giữ tinh thần tự do, thưởng thức vẻ đẹp của trăng. Trong tình thế khó khăn, Bác vẫn cảm thấy xúc động, thổn thức khi thấy vầng trăng xuất hiện trước cửa nhà tù. Bác vẫn cảm thấy rung động trước vẻ đẹp của đêm trăng. Đêm nay, dù không có rượu hoa, tâm hồn Bác vẫn say mê vẻ đẹp hữu tình của thiên nhiên. Câu thơ bình dị nhưng chứa đựng nhiều cảm xúc. Bác vừa băn khoăn, vừa xúc động trước trăng, một cảm xúc mãnh liệt và sâu lắng.
Ở hai câu thơ tiếp theo, nhà thơ vẽ ra bức tranh của hai người bạn tri kỷ đang trò chuyện: Người tù và Trăng. Mặc dù có sự cách biệt giữa Bác và trăng bởi bức tường của nhà tù, nhưng điều này chỉ cho thấy tình yêu thiên nhiên của Bác. Qua bức tường nhà tù, Bác ngắm vầng trăng đẹp. Người tù ngắm trăng với tình yêu trăng, với một tâm thế “vượt ngục”. Từ góc nhìn của phòng giam tăm tối, Bác hướng về vầng trăng, ngắm về ánh sáng, thư thái tâm hồn.
Song sắt nhà tù không thể tách biệt Bác và vầng trăng! Người tù là một thi nhân, một chiến sĩ vĩ đại, dù “thân thể ở trong lao” nhưng “tinh thần ở ngoài lao”. Bác yêu trăng và tương tác với trăng. Phút giao cảm giữa thiên nhiên và con người hiện lên một cách kỳ diệu: “Tù nhân” đã trở thành thi sĩ. Lời thơ đẹp ý nghĩa. Đó là biểu hiện của một tâm hồn tự do, lạc quan, yêu tự do. Trong cảnh khốn khó của nhà tù, tâm hồn Bác vẫn có những khoảnh khắc thảnh thơi, tự do ngắm trăng. Song sắt nhà tù không thể kìm hãm tinh thần phi thường của Bác: Bác yêu thiên nhiên, kết tinh của tâm hồn chiến sĩ và nhà thơ.
Ngắm trăng là một bài thơ đặc biệt về tình yêu thiên nhiên và sức mạnh tinh thần của người chiến sĩ cách mạng. Đối với Bác Hồ, ngắm trăng là biểu hiện của tâm hồn yêu đời và khao khát tự do. Bài thơ không cần nhắc đến từ 'thép' nhưng vẫn phản ánh sức mạnh vững chắc như thép. Đó thực sự là một kiệt tác vĩ đại của bậc vĩ nhân.
Vẻ đẹp tâm hồn của Bác qua bài thơ Ngắm trăng - Mẫu 4
Khi nhớ đến Bác Hồ, chúng ta không chỉ nhớ về lãnh tụ cách mạng mà còn nhớ về phong thái lạc quan, ung dung của Người. Điều đó thể hiện rõ trong tập 'Nhật kí trong tù', đặc biệt là bài thơ 'Ngắm trăng' viết vào tháng 8 năm 1942:
'Trong tù không rượu cũng không hoa,
Cảnh đẹp đêm nay, khó hững hờ;
Người ngắm trăng soi ngoài cửa sổ,
Trăng nhòm khe cửa ngắm nhà thơ'.
Trong thời gian bị chính quyền Tưởng Giới Thạch giam giữ, Bác đã viết tập thơ 'Nhật kí trong tù' để tìm sự thoải mái. Dù bị giam cầm khắc nghiệt, Bác không quên tận hưởng vẻ đẹp của thiên nhiên. Đó chính là tính cách của một người yêu thiên nhiên không thể chối từ.
'Trong tù không có rượu, không có hoa,
Cảnh đẹp đêm nay khó lòng không say sưa';
Bức tranh về Bác Hồ hiện lên rõ nét qua tình yêu trăng, yêu thiên nhiên và tình yêu với cái đẹp sâu sắc. Mặc dù hoàn cảnh có thể khắc nghiệt, nhưng Bác vẫn đề cao vẻ đẹp của môi trường xung quanh. Dù không có hoa và rượu, Bác vẫn coi trọng việc thưởng ngoạn vẻ đẹp của trăng. Điều đó cho thấy tính cách của một người yêu thiên nhiên không thể nào thay đổi.
Nếu không phải là một người yêu thiên nhiên, Bác đã không quan tâm đến cảnh đẹp như vậy. Mặc dù không có hoa và rượu, Bác vẫn cảm thấy bối rối trước vẻ đẹp của trăng. Xiềng xích và dây trói chỉ có thể giam cầm thân thể của Bác mà không thể kìm hãm tinh thần chiến sĩ cách mạng.
Làm sao Bác có thể bỏ qua vẻ đẹp của người bạn trung thành này? Bất kể hoàn cảnh, Bác vẫn thưởng ngoạn ánh trăng bằng mọi cách có thể. Đó là biểu hiện của sự lạc quan và niềm tin vào sứ mệnh cách mạng của mình:
'Người nhìn trăng từ ngoại cửa sổ,
Trăng dòm qua khe cửa ngắm nhà thơ'.
Chúng ta không chỉ thấy được hình ảnh của Bác Hồ với tình yêu thiên nhiên sâu sắc mà còn thấy được hình ảnh của một người chiến sĩ cách mạng vượt lên trên những gông cùm, xiềng xích, và dây trói để hòa mình vào thiên nhiên, ánh trăng. Bác hướng đến ánh trăng cũng là hướng đến ánh sáng của tự do, của lý tưởng cộng sản. Bài thơ của Người cũng thể hiện một tinh thần 'thép' trong hoàn cảnh vô cùng khắc nghiệt. Chính tình yêu thiên nhiên đã làm nên chất 'thép' ngời sáng với sức mạnh chiến thắng mọi khó khăn. Chất 'thép' trong thơ Bác còn là tinh thần chiến đấu vì Tổ quốc, vì nhân dân. Đó cũng là sự lạc quan, tin tưởng vào tương lai cách mạng, vào con đường giải phóng dân tộc. Tinh thần ấy cũng được Bác thể hiện trong bài thơ 'Tự khuyên mình':
'Nếu không có cảnh đông tàn,
Thì chẳng thể có cảnh huy hoàng ngày xuân.
Khi gặp khó khăn trong cuộc sống,
Tai ương sẽ là bài học, tinh thần sẽ được rèn luyện thêm hăng'.
Mặc dù bị ngăn cách bởi những hàng rào của nhà tù nhưng người và trăng vẫn hướng về nhau, vượt qua mọi khoảng cách và rào cản để đồng điệu cùng nhau. Trăng đã 'nhòm' tận vào khe cửa để 'ngắm nhà thơ' thì vì lý do gì mà người nghệ sĩ sẽ từ chối khoảnh khắc đó. Ánh trăng chiếu sáng cả không gian, đó cũng là tượng trưng cho ánh sáng cách mạng đưa dân tộc thoát khỏi cuộc sống nô lệ. Sự đối lập giữa hai hình ảnh của người và trăng cùng với biện pháp nhân hóa 'trăng - nhòm khe cửa - ngắm nhà thơ' đã giúp tạo ra sự thành công trong việc mô tả hình ảnh của Bác Hồ. Màu sắc cổ điển kết hợp với màu sắc hiện đại đã tạo ra một phong cách thơ độc đáo. Bài thơ có một kết thúc đầy bất ngờ nhưng lại rất hợp lý. Bắt đầu từ từ 'ngục trung' và kết thúc bằng từ 'thi gia' đã giúp người đọc thấy hình ảnh của Bác vượt lên trên hoàn cảnh để có được phong thái ung dung, thư thái ngắm trăng và ẩn đằng sau tình yêu thiên nhiên ấy là một tinh thần 'thép' đáng kính trọng.
Vẻ đẹp tâm hồn của Bác qua bài thơ Ngắm trăng - Mẫu 5
Với bài thơ Ngắm trăng, Hồ Chí Minh đã thể hiện tình yêu say đắm với ánh trăng trong đêm tăm tối của nhà tù, dù Người đang trong tình trạng khó khăn. Trong suốt nhiều thế hệ, trăng đã đến với nhà thơ như một người bạn tâm giao, chia sẻ mọi nỗi buồn của thi nhân. Bài thơ mở ra với không gian hạn chế, tù túng của nhà tù – nơi giam giữ những chiến sĩ cách mạng yêu nước.
Sử dụng phương pháp liệt kê, Người đã mô tả cuộc sống thiếu thốn ở đây: không có rượu, không có hoa. Hoa là biểu tượng của vẻ đẹp, còn rượu là chất men say mê hoặc tâm hồn trong đêm tĩnh lặng. Thiếu sự hiện diện của vẻ đẹp kiêu sa, trang trọng trong buổi ngắm trăng thật sự là một sự thiếu vắng lớn.
Tuy nhiên, với Bác, được thưởng ngoạn vẻ đẹp của trăng đêm nay đã là một điều quý báu. Câu thơ thể hiện tinh thần lạc quan, dù đang đối mặt với nguy hiểm nhưng tâm hồn Bác vẫn chìm đắm trong vẻ đẹp, hướng thân thể ra ngoài lao với ánh trăng tự do trên bầu trời cao rộng. Vượt lên sự thiếu thốn về vật chất, Bác đã thưởng ngoạn ánh trăng bằng một phong thái ung dung và tinh thần lạc quan, tin tưởng vào sứ mệnh cách mạng của dân tộc.
Trăng và Bác đối diện nhau: Bác ngắm trăng, trăng 'nhòm' khe cửa, hai thể thống nhất. Ánh trăng phải 'nhòm' qua hàng rào chật hẹp để nhìn rõ hơn khuôn mặt của thi sĩ, để cảm thông, chia sẻ với hoàn cảnh khó khăn hiện tại của người chiến sĩ. Bác đã vượt lên trên hàng gông cùm, xiềng xích, dây trói để hòa mình vào thiên nhiên. Trăng không còn là vật vô tri mà như hóa thân, có tâm hồn và tình yêu như con người.
Bác hướng đến ánh trăng cũng là hướng đến ánh sáng của tự do, của lý tưởng cộng sản. Bài thơ không chỉ thể hiện tình yêu, sự si mê thiên nhiên mà còn thể hiện một tinh thần “thép” trong hoàn cảnh khó khăn vô cùng. Vậy nên, hàng rào và xiềng xích của nhà tù chỉ có thể giam cầm thân thể mà không thể kìm hãm được tinh thần và lý tưởng cộng sản bừng cháy trong con người ấy.
Vẻ đẹp tâm hồn của Bác qua bài thơ Ngắm trăng - Mẫu 6
Trong thơ ca, trăng từ lâu đã trở thành một nguồn cảm hứng vô cùng quen thuộc và lãng mạn. Dường như mọi nhà thơ đều yêu thích người bạn trung thành của mình, trăng, và chia sẻ những cảm xúc của mình qua những bức tranh văn tả bóng trăng. Dường như tâm hồn yêu trăng đã trở thành nguồn cảm hứng cho Bác Hồ khi Người viết những bài thơ sống động, đẫy cảm giác dù trong tù tối tăm.
Chân dung của Bác hiện ra trong một hoàn cảnh không mấy lãng mạn:
Trong tù không có rượu cũng không có hoa,
Đối mặt với nghèo đói, liệu ta phải làm thế nào?
(Trong tù không có rượu cũng không có hoa,
Cảnh đẹp đêm nay khó lòng bỏ qua)
Câu thơ mở đầu mô tả hoàn cảnh hiện tại của Bác, đó là trong ngục tù, nơi mà 'không có rượu, không có hoa'. Câu thơ được diễn tả một cách thản nhiên nhưng đầy ý nghĩa. Trong tù, không có điều kiện cho sự thưởng thức, thậm chí cả việc uống nước hay rửa mặt đều phải tự mình làm, thế nên làm sao có thể có rượu hoặc hoa. Nhưng khi đối diện với cảnh đẹp của thiên nhiên, 'khó lòng bỏ qua'. Có lẽ những thiếu thốn vật chất không làm mất đi niềm vui trước vẻ đẹp thiên nhiên của người tù, đặc biệt với Bác - một người có tâm hồn thi sĩ nhạy cảm, không thể làm ngơ trước vẻ đẹp của đêm đó. Điều gì khiến đêm đó trở nên hấp dẫn đến thế? Câu trả lời là vì có sự xuất hiện của ánh trăng:
Nguyệt tựa cửa sổ sáng soi,
Trăng kỳ ngắm nhà thơ hiện thân
(Người ngắm trăng soi ngoài cửa sổ,
Trăng nhòm khe cửa ngắm nhà thơ)
Ngày xưa, tạo hóa đã dành thú vui tao nhã cho những người trí thức là thưởng trăng, tạo thơ. Dù trong hoàn cảnh không có rượu, Bác vẫn say mê thưởng trăng, viết thơ. Hai câu thơ cuối tạo nên sự đối chiếu cho ý thơ. Người ngồi trong nhà tăm tối, 'hướng' trí óc và tâm hồn của mình về bầu trời ngoài cửa sổ qua lưới sắt nhỏ để ngắm vẻ đẹp của ánh sáng trăng, trong khi trăng thì được nhân hóa như một con người biết suy nghĩ, biết ghé qua khe cửa để ngắm nhìn nhà thơ. Điều này khiến ta cảm thấy trăng và người như hai thể nhưng một tâm, như những người bạn tri âm tri kỷ dù có khoảng cách về địa lý nhưng tinh thần của họ vẫn có thể kết nối dễ dàng. Lưới sắt của nhà tù chỉ có thể giam giữ, tách biệt thân thể của Người với thế giới bên ngoài bằng hình thức nhưng không thể giam giữ được tinh thần của Người. Tinh thần lạc quan, nhạy cảm, của một người chiến sĩ cách mạng vẫn tràn đầy niềm tin vào cuộc sống, có lẽ chính niềm tin đó khiến trăng muốn tìm đến soi sáng góc tối của nhà tù, làm rạng rỡ hình ảnh của một nhà thơ chân chính. Khi ấy, Người không còn là một tù nhân nữa mà trở thành một nhà thơ. Bài thơ chính là biểu hiện của một tâm hồn lạc quan, yêu thiên nhiên, yêu trăng, một tâm hồn thi sĩ vô cùng tinh tế, nhạy cảm.
Thơ là ngôn ngữ của tâm hồn, là cách thể hiện cảm xúc, và bài thơ là biểu hiện rõ ràng của tâm hồn của Bác với sự lạc quan, yêu đời, yêu thiên nhiên, gắn bó với thiên nhiên và đặc biệt là với trăng.
Vẻ đẹp tâm hồn của Bác qua bài thơ Ngắm trăng - Mẫu 7
Bài thơ Ngắm trăng được lấy từ tập Nhật ký trong tù, thời kỳ Bác ngồi trong tù và sáng tác những bài thơ tuyệt vời.
Bài thơ được Bác sáng tác trong một đêm trăng đẹp, nhìn qua khe cửa sổ thưởng thức một đêm trắng trong tù nhưng vẫn ung dung, tự do.
Qua bài thơ, vẻ đẹp tâm hồn của Bác được thể hiện rõ ràng:
Vượt qua mọi khó khăn trong ngục tù, Bác vẫn thể hiện tình yêu thiên nhiên, tâm hồn lãng mạn, bay bổng, thưởng thức một đêm trăng đẹp đúng nghĩa. Điều đó phản ánh tâm hồn cao đẹp, hòa mình với thiên nhiên của một nghệ sĩ chân chính.
Bài thơ Ngắm trăng cũng nói lên tinh thần kiên cường của Bác, vượt qua mọi gian khó trong ngục tù nhưng vẫn yêu cái đẹp, hướng đến bầu trời tự do nơi ánh trăng rực rỡ. Đó là tinh thần vượt lên mọi khó khăn, không khuất phục của những chiến sĩ cách mạng.
Bài thơ Ngắm trăng được sáng tác trong bối cảnh khác biệt so với những bài thơ ngắm trăng thông thường, khi Bác đang chịu đựng sự khổ đau của việc bị giam giữ bởi kẻ thù. Dù khác biệt với bài thơ 'Rằm tháng giêng' hay 'Tin thắng trận' về hoàn cảnh sáng tác và trải nghiệm đêm trăng, nhưng cả ba bài thơ đều phản ánh vẻ đẹp của tâm hồn Bác, là vẻ đẹp chung của những chiến sĩ cách mạng.
Vẻ đẹp tâm hồn của Bác qua bài thơ Ngắm trăng - Mẫu 8
Bài thơ 'Ngắm trăng' được lấy từ tập 'Nhật kí trong tù'. Tập thơ này được viết trong hoàn cảnh đặc biệt, khi Bác Hồ đang tìm sự giúp đỡ quốc tế cho cách mạng Việt Nam từ Trung Quốc và bị giam giữ bởi chính quyền Tưởng Giới Thạch. Bài thơ thể hiện phong cách thơ của Hồ Chí Minh, kết hợp tình yêu thiên nhiên với tinh thần lạc quan, yêu đời của Bác trong thời kỳ giam cầm.
Đọc bài thơ, ta không thể không ngưỡng mộ tinh thần và ý chí mạnh mẽ của Bác trong hoàn cảnh khắc nghiệt. Trong những điều kiện khó khăn của lao tù, tâm hồn của Bác vẫn vươn lên, hướng ra ngoài, đến một thế giới tươi đẹp với thiên nhiên bên cạnh:
'Ngục trung vô tửu diệc vô hoa
Đối thử lương tiêu nại nhược hà?'
(Trong tù không có rượu cũng không có hoa
Cảnh đẹp của đêm nay khó lòng không bị mê hoặc)
Câu thơ mở ra một bối cảnh khắc nghiệt: trong tù không có rượu, không có hoa. Sự sử dụng từ “vô” (không) hai lần nhấn mạnh sự thật khắc nghiệt ấy. Uống rượu và thưởng hoa là sở thích tao nhã của những thi nhân xưa, cũng là nguồn cảm hứng để sáng tác những bài thơ trữ tình. Ngược lại với hiện thực trong nhà tù, câu thơ thứ hai đầy bất ngờ vang lên:
“Cảnh đẹp của đêm nay khó lòng không bị mê hoặc”.
Theo câu thơ chữ Hán, ba chữ “nại nhược hà” chứa đựng nhiều suy tư và nỗi lòng. Bác đối diện với trăng khi không có rượu cũng không có hoa, nhưng chỉ có một tâm hồn cao đẹp đang bị giam giữ sau song sắt. Tuy vậy, điều này không cản trở Bác tìm đến vẻ đẹp của thiên nhiên, hòa mình vào cảnh vật xanh biếc. Vượt lên mọi khó khăn, Bác đã có một cuộc vượt ngục bằng tinh thần đặc biệt: “Thân thể bị giam giữ/ Tinh thần tự do”.
Hai câu thơ cuối khép lại bài thơ, thể hiện phẩm chất cao quý của người tù cách mạng: dù gặp khó khăn đến đâu, Bác vẫn tự do, ung dung và lạc quan, yêu cuộc sống:
“Nhìn ra phía trước để chiêm ngưỡng vẻ đẹp của ánh trăng
Trăng cũng hướng về phía trước để ngắm nhìn thi sĩ.”
(Người ngắm trăng từ bên ngoài cửa sổ,
Trăng ngó qua khe cửa để nhìn thi nhân.)
Bác yên lặng nhìn vầng trăng qua hàng rào sắt của nhà giam. Tường nhà lao hẹp hòi không thể cản trở tâm hồn lãng mạn của Bác tìm đến với vầng trăng xinh đẹp, gửi theo đó khao khát tự do. Và như một phản hồi chân thành, vầng trăng 'khán giả' qua khung cửa sổ nhỏ. Trăng và Bác thật sự trở thành bậc tri âm tri kỉ. Thi sĩ không còn cô đơn giữa đêm tăm tối ở chốn lao tù lạnh lẽo. Tâm hồn lãng mạn và phong thái ung dung, tinh thần lạc quan ấy cũng phản ánh sức mạnh thép trong thơ Hồ Chí Minh: không bao giờ chịu thua trước thực tại mà luôn tìm cách vượt lên trên thực tại. Đó là vẻ đẹp của một tâm hồn, một nhân cách vĩ đại vừa có tài hoa lãng mạn của thi sĩ, vừa có cái phi thường của người chí sĩ cách mạng.
Vẻ đẹp tâm hồn của Bác dù ở trong bất cứ tình huống nào cũng tỏa sáng lên những phẩm chất cao quý của một con người lớn. Chính tâm hồn lãng mạn cùng tinh thần lạc quan đã tạo nên sức mạnh giúp Bác vượt qua mọi khó khăn, duy trì niềm tin vào cuộc sống và tương lai tươi sáng của dân tộc Việt Nam.
Vẻ đẹp tâm hồn của Bác qua bài thơ Ngắm trăng - Mẫu 9
Hồ Chí Minh, một nhà lãnh đạo cách mạng, nhà văn, nhà thơ lớn của dân tộc Việt Nam. Trong những di sản mà Người để lại, thơ chiếm một vị trí quan trọng, thể hiện tình yêu đời, thiên nhiên và quê hương đất nước một cách sâu sắc. 'Ngắm trăng' là bài thơ số 20, được rút từ tập 'Nhật kí trong tù', thể hiện thế giới tâm hồn, tình cảm phong phú của Bác trong hoàn cảnh giam giữ.
Tháng 8 năm 1942, Hồ Chí Minh từ Pác Bó bí mật lên đường sang Trung Quốc, nhưng bị bắt và giam giữ vô cớ tại Quảng Tây. Trải qua hơn một năm đày đọa, Người viết tập thơ 'Nhật kí trong tù' để giải khuây và thể hiện tâm hồn lạc quan, bản lĩnh thép cứng cỏi của một người lãnh đạo cộng sản, và tình yêu thiên nhiên tha thiết.
Hai câu thơ mở đầu giới thiệu hoàn cảnh trong ngục tù và suy tư của nghệ sĩ:
Trong tù không có rượu cũng không có hoa
Cảnh đẹp đêm nay khó hững hờ?
Dịch thơ:
Trong tù không có rượu cũng không có hoa
Cảnh đẹp đêm nay khó hững hờ
Điệp từ 'vô' (không) được nhắc lại hai lần nhấn mạnh đến sự thiếu vắng của rượu và hoa trong hoàn cảnh khắc nghiệt. Câu hỏi ẩn chứa sự lo âu, băn khoăn của người nghệ sĩ trước cảnh đẹp mà thiếu thiết yếu. Bác Hồ đã tìm cách đối diện với tình huống thông qua tấm lòng và tình yêu với thiên nhiên.
Khi đứng trước cảnh đẹp nhưng thiếu thiết yếu, Bác đã dùng tấm lòng để đối phó, tạo ra một cuộc giao hòa đầy lãng mạn giữa người và trăng.
Người ngắm trăng soi ra ngoài song sắt
Trăng nhìn qua kẽ cửa ngắm nhà thơ
Một cuộc gặp gỡ tuyệt vời giữa người và trăng đã tạo ra một không gian tĩnh lặng, thể hiện sự giao cảm đặc biệt giữa họ.
'Ngắm trăng' mang phong cách cổ điển và đương đại. Phong cách cổ điển xuất hiện trong đề tài (Vọng nguyệt), các yếu tố thi như rượu, hoa, trăng, thể thơ tứ tuyệt và cấu trúc đăng đối. Còn phong cách đương đại thể hiện ở tâm hồn lạc quan, đam mê thiên nhiên và cuộc sống, cũng như bản lĩnh phi thường của người chiến sĩ cộng sản...
Bài thơ viết theo thể tứ tuyệt, rất ngắn gọn nhưng thành công vẽ nên hình ảnh tâm hồn của người chiến sĩ cộng sản: yêu thiên nhiên, mạnh mẽ, vượt lên trên hoàn cảnh tù đầy khắc nghiệt. Đó chính là chất thép trong bản lĩnh của người chiến sĩ vĩ đại - Hồ Chí Minh.
Tâm hồn của Bác hiện lên qua bài thơ 'Ngắm trăng' với sự tươi sáng và sức mạnh.
Trăng luôn là nguồn cảm hứng không ngừng cho thi sĩ. Trong thơ của Hồ Chí Minh, trăng luôn được coi là bạn tri kỉ.
Bài thơ 'Ngắm trăng' ra đời trong hoàn cảnh khắc nghiệt của ngục tù, nhưng tâm hồn của thi sĩ vẫn bừng sáng, say mê vẻ đẹp của trăng sáng.
Trong nhà giam không có rượu, cũng không có hoa,
Cảnh đẹp của đêm nay, khó lòng phô trương
Câu thơ mở đầu mô tả thực tế khắc nghiệt của cuộc sống trong nhà giam: không có rượu, không có hoa. Trong môi trường nhà giam, không có rượu và hoa để làm dịu đi nỗi khao khát của tâm hồn thi sĩ. Câu thơ thứ hai diễn tả sự khó khăn, bất lực trước vẻ đẹp của đêm trăng. Trong bóng tối của nhà giam, việc thưởng trăng trở nên khó khăn và xa vời.
Mặc dù ở trong nhà giam, nơi không có rượu và không có hoa, nhưng tâm hồn của Bác vẫn tìm thấy cảm hứng trong vẻ đẹp của đêm trăng. Câu thơ 'Cảnh đẹp đêm nay, khó lòng phô trương' thể hiện niềm xao xuyến, rạo rực của Bác trước vẻ đẹp của trăng.
Dù sống trong nhà giam, nơi không có rượu và hoa, nhưng tâm hồn lãng mạn của Bác vẫn cảm nhận được vẻ đẹp của đêm trăng. Trong bóng tối của nhà giam, Bác mong muốn có thể thưởng thức vẻ đẹp của trăng một cách trọn vẹn.
Nhìn trăng hướng về phía xa,
Trăng cũng hướng về phía ta.
(Người trông ngắm trăng qua cửa sổ,
Trăng soi sáng khe cửa ngắm nhà thơ.)
Bác say mê ngắm trăng qua cửa sổ. Bốn bức tường xà lim chật hẹp không thể chia cắt được tình yêu sâu đậm. Bác dường như muốn truyền tải tâm tư của mình đến trăng: Trăng ơi, liệu trăng có hiểu hết tấm lòng yêu trăng của ta không?
Trăng chiếu sáng khe cửa, nhìn vào nhà thơ.
Vầng trăng đã vượt qua hàng rào thép để nhìn thấy nhà thơ (khán thi gia) trong tù. Điều này cho thấy cả người và trăng đều tìm đến nhau. Nghệ thuật nhân hóa cho thấy sự gắn bó thân thiết giữa thi sĩ tù và vầng trăng tự do.
Cả bài thơ không có âm thanh nào, nhưng tĩnh lặng không gian làm nổi bật sâu thẳm của tâm hồn con người và vẻ đẹp của tự nhiên. Người trông ngắm trăng, trăng lại nhìn thấy người, qua im lặng thổn thức không nói mà hiểu biết biết bao điều.
Hai dòng thơ còn phản ánh sức mạnh tinh thần phi thường của nhà tù thi sĩ. Trong đó, bên trong là nhà lao tối tăm, thực tế tàn bạo, còn ở bên ngoài là vầng trăng mộng mơ, là thế giới của tự do và vẻ đẹp lãng mạn làm cho lòng người say mê. Giữa hai thực tại đối lập đó là những thanh sắt của nhà tù, nhưng chúng vô dụng trước lòng khao khát và tinh tế rung động của tâm hồn thi ca.
Hai câu chữ Hán trong bản gốc thể hiện rõ hơn sự giao hòa đặc biệt giữa nhà tù thi sĩ và vầng trăng. Sự đối chiếu tinh tế đã làm nổi bật tình cảm mãnh liệt của cả con người và vầng trăng. Dù có thanh sắt nhà tù ngăn cách, con người đã để tâm hồn mình bay bổng vượt ra ngoài không gian hẹp hòi để ngắm nhìn trăng sáng (Nhân hướng song tiền khán minh nguyệt), tức là để thắt th friendship với vầng trăng tự do lững thững giữa bầu trời. Trăng dường như cũng hiểu lòng người và đáp lại một cách ấm áp: Trăng nhòm khe cửa ngắm nhà thơ (Nguyệt tòng song khích khán thi gia).
Ngoài ra, bạn có thể tham khảo thêm một số tài liệu như: viết về bài thơ Ngắm trăng, phân tích bài thơ Ngắm trăng của Hồ Chí Minh để có thêm nhiều kiến thức học tập. Chúc bạn học tập hiệu quả!