TOP 7 mẫu văn Phân tích hình ảnh của bức tranh tứ bình trong bài thơ Nhớ rừng, cùng 2 dàn ý chi tiết, sẽ hỗ trợ các bạn học sinh lớp 8 hiểu sâu hơn về vẻ đẹp của bốn hình ảnh trong bài thơ Nhớ rừng của Thế Lữ.
Bức tranh tứ bình được tạo dựng ở khổ thứ ba trong bài thơ Nhớ rừng, mô tả chân thực hình ảnh hùng vĩ của núi rừng và tâm trạng của con người trong bối cảnh thực dân Pháp. Hãy theo dõi bài viết dưới đây để nắm rõ hơn về nội dung này và cải thiện kỹ năng Văn 8 của bạn.
Dàn ý phân tích hình ảnh của bức tranh tứ bình trong bài Nhớ rừng
Bố cục 1
1. Bắt đầu:
- Giới thiệu về tác giả và tác phẩm
2. Phần chính:
a. Nội dung
- Tận dụng lời của con hổ trong vườn bách thú để hồi tưởng lại thời kỳ hùng vĩ của nó trong quá khứ.
- Là tiếng nói của tầng lớp trí thức nhỏ lẻ đối diện với hiện thực xã hội khắc nghiệt.
- Bức tranh tứ bình xuất hiện ở khổ ba của bài thơ, mô tả sự huy hoàng, hùng vĩ của núi rừng.
b. Phân tích bức tranh tứ bình:
* Bức tranh đầu tiên:
- Mô tả cảnh đẹp trong đêm với ánh trăng chiếu sáng bên bờ suối.
- Suối nước bao quanh bởi màu vàng óng ả, chúa sơn lâm đứng yên 'say mê' bên bờ.
- Khung cảnh rực rỡ, tuyệt đẹp, chúa sơn lâm hòa mình vào thiên nhiên.
* Bức tranh thứ hai:
- Con hổ là trung tâm của khung cảnh trong ngày mưa.
- Thiên nhiên trở nên dữ tợn, mờ mịt nhưng chúa sơn lâm vẫn kiên định không dao động.
- Hổ giữ tư thế của một vị vua, trên đỉnh cao của thế giới.
* Bức tranh thứ ba:
- Sau những cơn mưa, khu rừng trở nên tươi mới, sảng khoái dưới ánh nắng ban mai.
- Những tiếng hót vang rộn ràng của các loài chim.
- Hổ trở lại giấc ngủ của mình.
- Có thể thấy, hổ được sống tự do, thống trị và cai trị những kẻ khác.
* Bức tranh thứ tư:
- Khung cảnh buổi chiều tà khi hoàng hôn buông xuống.
- Màu đỏ chủ đạo làm cho khung cảnh trở nên rực rỡ, chói lọi.
- Vạn vật dần dần chìm vào giấc ngủ và chúa sơn lâm cũng dần chờ đợi khoảnh khắc của ngày tàn ấy 'Ta đợi chết mảnh mặt trời gay gắt'.
c. Tóm tắt:
- Sử dụng văn phong cổ điển trong một dạng thơ mới.
- Sử dụng các từ thốt nên như 'than thở, hỡi' và từ hỏi 'đâu': thể hiện sự tiếc nuối về quá khứ rực rỡ.
- Mượn lời của con hổ, diễn đạt tâm trạng chung của con người phải đối mặt với sự kiềm chế, áp bức từ thực dân Pháp.
3. Tổng kết:
- Bức tranh tứ bình trong tác phẩm tạo ra khung cảnh thiên nhiên hoành tráng, lộng lẫy.
Dàn ý 2
I. Khởi đầu
- Tóm lược về tác giả Thế Lữ: nhà văn đoạt giải thưởng cao trong phong trào Thơ Mới…
- Giới thiệu bài thơ Nhớ rừng của Thế Lữ: phác họa tổng quan về ý tưởng và nội dung của tác phẩm.
- Dẫn nhập đến bức tranh tứ bình trong bài thơ Nhớ rừng.
II. Thân bài
- Khung cảnh đêm trăng và vẻ say sưa của con hổ.
- Khung cảnh mưa rào và sự bình tĩnh của chúa sơn lâm.
- Khung cảnh bình minh với sự trang nghiêm của con hổ.
- Khung cảnh hoàng hôn cùng với sắc màu đa dạng.
III. Kết thúc
- Tóm tắt lại giá trị nội dung và nghệ thuật của tác phẩm.
- Nhấn mạnh ý nghĩa sâu sắc của bài thơ Nhớ rừng.
- Xác nhận rằng bức tranh tứ bình trong bài thơ Nhớ rừng là điểm nhấn quan trọng mang lại giá trị cho tác phẩm này.
Phân tích bức tranh tứ bình trong bài Nhớ rừng - Mẫu 1
Thế Lữ là một trong những nhà thơ tiêu biểu của phong trào Thơ mới ở Việt Nam. Ông đã đóng góp vào việc xây dựng nền móng vững chắc cho thơ ca Việt. Một trong những tác phẩm đặc sắc của ông là bài thơ Nhớ rừng, đã để lại ấn tượng sâu sắc trong lòng độc giả. Trong tác phẩm này, Thế Lữ đã tạo ra bức tranh tứ bình với bốn cảnh sắc hùng vĩ, tráng lệ, uy nghi, và lẫm liệt của núi rừng - nơi mà chúa sơn lâm từng thống trị khắp nơi.
Bài thơ Nhớ rừng kể về lời của một con hổ trong vườn bách thú, nhớ lại những ngày tháng oanh liệt của mình, khi nó còn tự do lang thang giữa núi rừng rộng lớn. Nhưng giờ đây, nó lại bị giam cầm trong lồng kính, chịu sự giả dối của con người, trong một thế giới nhỏ bé, tầm thường. Điều này cũng phản ánh tâm trạng hiện thời của một phần trong xã hội, ngao ngán, chán ghét trước cuộc sống bị bó buộc, chật chội, trong những năm 1936.
Bức tranh tứ bình trong Nhớ rừng của Thế Lữ bao gồm mười câu thơ, tạo nên bốn khung cảnh rừng đẹp mắt, tráng lệ, là bức tranh của đêm trăng, bức tranh của hoàng hôn:
'Nào đâu những đêm vàng bên bờ suối,
Ta say mồi đứng uống ánh trăng tan?
Đâu những ngày mưa chuyển bốn phương ngàn,
Ta lặng ngắm giang sơn ta đổi mới?
Đâu những bình minh cây xanh nắng gội,
Tiếng chim ca giấc ngủ ta tưng bừng?
Đâu những chiều lênh láng máu sau rừng.
Ta đợi chết mảnh mặt trời gay gắt,
Để ta chiếm lấy riêng phần bí mật?
- Than ôi! Thời oanh liệt nay còn đâu?'
Bức tranh đầu tiên trong tứ bình là cảnh rừng đêm trăng vàng bên dòng suối. Ánh trăng vàng lóng lánh soi tỏ con suối nhỏ đang róc rách chảy:
'Nào đâu những đêm vàng bên bờ suối,
Ta say mồi đứng uống ánh trăng tan?'
Trong không gian rừng sâu, ánh trăng vàng chiếu sáng, làm cho dòng suối nhỏ trở nên sinh động hơn. Chúa sơn lâm đứng bên bờ suối, thưởng thức vẻ đẹp của rừng đêm dưới ánh trăng bạc. Nó thấy mình như được hòa mình vào trong sự hòa quyện của thiên nhiên, thấu hiểu sâu xa về bản chất của mình trong thế giới tự nhiên.
Tuy nhiên, những khoảnh khắc đẹp đẽ đó giờ đây chỉ còn là ký ức, như những giấc mơ đẹp trong quá khứ. Sự hoành tráng của chúa sơn lâm trong cảnh trăng đêm đã trở nên mờ nhạt trong ký ức, chỉ còn lại là nỗi nhớ đau đáu trong lòng.
Bức tranh thứ hai miêu tả khung cảnh của những ngày mưa trắng xoá, khi mà núi rừng chìm trong màn mưa dày đặc:
'Đâu những ngày mưa chuyển bốn phương ngàn,
Ta lặng ngắm giang sơn ta đổi mới?'
Cơn mưa trong rừng sâu không ngớt, quét qua mọi nẻo đường. Dù thiên nhiên trở nên dữ dằn, hung bạo, nhưng chúa sơn lâm vẫn bao dung, vẫn bất khả xâm phạm. Nó chỉ đứng nhìn giang sơn thay đổi dưới mưa mà thôi. Sức mạnh và uy nghi của nó không hề bị rung động trước cơn mưa dữ tợn. Đó là dáng vẻ của một vị vua, không sợ hãi trước bất kỳ thách thức nào!
Tuy nhiên, đó chỉ là quá khứ. Con hổ bây giờ phải sống trong hoàn cảnh:
'Dăm vừng lá hiền lành không bí hiểm
Cũng học đòi bắt chước vẻ hoang vu
Của chốn ngàn năm cao cả, âm u'
Những tự do mà con hổ từng trải qua, những cơn mưa rừng đổ xuống giờ chỉ còn là hồi ức xa vời trong tâm trí của nó.
Bức tranh thứ ba miêu tả bình minh trong rừng núi, khi cả khu rừng tỉnh giấc sau một đêm dài:
'Đâu những bình minh cây xanh nắng gội,
Tiếng chim ca giấc ngủ ta tưng bừng?'
Sau cơn mưa là một ngày nắng sáng. Rừng sau cơn mưa trở nên sảng khoái hơn, tràn đầy sức sống. Tiếng chim hót vang trời, tất cả như đang tận hưởng bình minh mới. Chúa sơn lâm rời giấc ngủ giữa bầu không khí hân hoan, mừng rừng, khi mọi sinh vật đều tỏ ra sống động và hạnh phúc.
Sống trong tự do, con hổ chi phối mọi vật theo ý muốn, tỏ ra mạnh mẽ và uy nghiêm. Nhưng giờ đây, nó chỉ là kẻ chìm trong lưới người ta, mải mê với những niềm vui vô nghĩa.
Bình minh qua, hoàng hôn đến, bức tranh thứ tư là khung cảnh của hoàng hôn, khi một ngày dài kết thúc trong ánh chiều rực rỡ:
'Đâu những chiều lênh láng máu sau rừng.
Ta đợi chết mảnh mặt trời gay gắt'
Bức tranh đầy màu sắc với những từ mạnh mẽ đã tạo nên ấn tượng sâu sắc. Khung cảnh buổi chiều dữ dội với hình ảnh 'lênh láng máu sau rừng'. Có lẽ đây là khi chúa sơn lâm mới săn mồi xong, hay có thể là gam màu của mặt trời khi lặn? Thế nhưng, gam màu đỏ rực ấy khiến cho bức tranh trở nên rực rỡ, ấn tượng. Khi bình minh, ánh mặt trời làm sáng tỏ mọi vật, sự sống vận hành. Khi mặt trời khuất sau núi, mọi thứ chìm vào bóng tối, và vị chúa tể của rừng cũng đợi mặt trời đi khỏi để 'chiếm lấy riêng phần bí mật'.
'Bí mật' ở đây là gì? Chỉ mình chúa sơn lâm mới biết! Có lẽ là quyền lực của vũ trụ mà nó muốn chiếm?
Bốn bức tranh hiện lên trong sự hùng vĩ của núi rừng và oai nghiêm của con hổ. Nhưng những cảnh đó nay chỉ còn trong dĩ vãng, trong nỗi nhớ và đau đớn của con hổ trong vườn Bách thú. Bốn bức tranh miêu tả trọn vẹn nỗi tiếc thương của chúa sơn lâm, tiếc thương những gì đã qua.
Thế Lữ muốn thay lời những người trí thức trẻ đang phải sống trong thời loạn lạc, khi người Việt Nam chịu ách nô lệ của thực dân Pháp. Bốn bức tranh là những tháng năm rực rỡ, oanh liệt của cha ông ta chống ngoại xâm. Thế nhưng, giờ đây nó chỉ còn là dĩ vãng, Việt Nam đang phải chịu sự xâm lược.
Mười câu thơ với bốn bức tranh của núi rừng và chúa sơn lâm đã thể hiện sự hùng tráng, tráng lệ của thế giới rừng sâu. Bức tranh với những gam màu sống động tạo nên một vẻ đẹp khó quên. Đồng thời cũng bộc lộ nỗi niềm riêng của tác giả giữa thời đại.
Phân tích bức tranh tứ bình trong bài Nhớ rừng - Mẫu 2
“Thi trung hữu họa” Các cụ xưa đã nói như thế. Thế Lữ bằng chất liệu ngôn ngữ đã vẽ nên bộ tranh tứ bình về “Chúa sơn lâm” khá hoàn hảo trong bài thơ “Nhớ rừng”. Bức tranh một vẽ chân dung tâm hồn hổ vào một đêm trăng đầy mơ mộng:
“Nào đâu những đêm vàng bên bờ suối
Ta say mồi đứng uống ánh trăng tan”
Cảnh trăng vàng óng ả của trăng, màu xanh trong vắt của nước suối đại ngàn, màu trắng đen mờ ảo của cỏ cây hoa lá. Hổ ta đứng trên bờ, say sưa ngắm nhìn cảnh vật đẹp đến say lòng ấy. Ta cảm nhận hổ ít say mồi nhưng say đắm vẻ đẹp huyền ảo của đêm trăng. Vũ trụ có trăng, lúc khuyết, lúc tròn, lúc lên, lúc lặn để rồi hổ ta ngây ngất trước ánh trăng vàng tung tóe. Nhớ những đêm vàng mộng mơ ấy! Và giờ đây nó càng quý vô ngần vì nó là đêm của tự do và ảo mộng.
Bức tranh hai, Thế Lữ cho chúa tể rừng xanh đối diện với sự gào thét của thiên nhiên hùng vĩ vào những ngày mưa:
“Đâu những ngày mưa chuyển bốn phương ngàn
Ta lặng ngắm giang sơn ta đổi mới”
Mưa rừng không phải là “mưa bay như khói qua chiều”, không phải là “mưa giăng mắc cửi”, càng không phải là “mưa đổ bụi êm êm trên bến vắng” mà mịt mù, dữ dội rung chuyển cả núi rừng. Thế Lữ biết lấy sự gào thét dữ dội của thiên nhiên, sự ngã nghiêng của cây cối, cảnh tuôn rơi ồn ào của ngày mưa làm phông nền cho một hổ ta lặng ngắm giang sơn đổi mới của mình. Quả là bức tranh của một nghệ sĩ kỳ tài.
Còn đây là một cảnh khác, tươi sáng, tưng bừng của buổi bình minh. Chúa tể rừng xanh lúc nầy đang ngon giấc:
“Nơi nào bình minh soi rợp cây xanh
Âm thanh chim hót làm giấc ngủ tưng bừng”
Buổi bình minh tươi sáng rạng rỡ, tiếng chim reo vang, cây cỏ mời gọi, mọi vật tỉnh giấc đón đợi bình minh. Nhưng hổ lại ngủ, một giấc ngủ đặc biệt: giấc ngủ “tưng bừng”. Giấc ngủ của hổ là riêng biệt, dù xung quanh ồn ào, nhộn nhịp càng làm cho giấc ngủ hổ thêm sâu, mơ hồ đẹp. Bức tranh được vẽ sống động, âm thanh, màu sắc, đường nét hài hòa.
Bức tranh cuối cùng tuyệt đẹp, lung linh và tráng lệ:
“Nơi nào chiều tím máu rừng thẹn thùng
Chờ đợi mặt trời tắt dần điên đảo”
Bức tranh này khác biệt hoàn toàn so với ba bức tranh trước, từ màu sắc, đường nét, đến ánh sáng. Không còn màu vàng óng ả của trăng, màu đen mờ ảo của mưa rừng, cũng không còn màu hồng tươi của nắng mới. Thay vào đó là màu đỏ rực của máu và của ánh mặt trời tắt dần. Hổ không còn say mê, mơ màng như đêm nào, ngày nào, mà hiện thân ra là một con thú dữ dằn. Bên hổ, dưới chân hổ là cảnh “tím máu” của những con thú yếu đuối. Trên bầu trời cao rộng kia, mặt trời cũng chỉ là một mảnh. Mặt trời dường như cũng nhỏ bé hơn qua cái nhìn của hổ. Mọi vật trong tranh hình như thu nhỏ, chỉ có hổ đứng đó uy nghiêm, là chúa tể của muôn loài. Chúa sơn lâm đẹp đẽ, vẻ đẹp dữ dằn của một con thú đang say mê mồi.
Đúng là một bộ tranh tứ bình hoàn hảo, với sự kết hợp cảnh quan hài hòa, bố cục tinh tế, đường nét tinh tế, và gam màu chính xác. Thế Lữ đã tạo ra bộ tranh về hổ bằng ngôn từ không giống ai trong lịch sử văn học.
Phân tích bức tranh tứ bình trong bài Nhớ rừng - Mẫu 3
Mười sáu câu đầu của bài thơ Nhớ rừng tạo ra một bức tranh tứ bình đặc biệt. Thế Lữ đã miêu tả bốn cảnh rừng núi khác nhau, trong những khoảnh khắc khác nhau.
Trước hết, là cảnh đêm vàng rực rỡ “ta say mồi đứng dưới ánh trăng tan”. Cảnh này thực sự thơ mộng, lãng mạn: không gian trời và nước như được phủ bởi ánh trăng huyền diệu. Từ 'vàng” ở đây có thể hiểu là: huy hoàng, rực rỡ. Đây là thời kỳ huy hoàng, thời kỳ của chúa sơn lâm. Hổ như một nhà thơ thưởng thức vẻ đẹp của đêm trăng giữa rừng suối. Dù vậy, nó vẫn mang dáng dấp của một con thú mạnh mẽ khi” uống ánh trăng tan. Cảnh này vừa thơ mộng vừa huy hoàng.
Bức tranh thứ hai là cảnh” những ngày mưa chuyển bốn phương ngàn”. Đó là những ngày mưa dữ dội, cả bốn phương ngàn đều biến trắng trong mưa. Và ở đây, hổ là một lãnh chúa đứng ngắm giang sơn của mình thay áo mới. Cảnh này thực sự dữ dội nhưng cũng rất tráng lệ. Nó thể hiện sự thay đổi và uy quyền của chúa sơn lâm. Càng tráng lệ, con hổ càng đau đớn với sự thực của sự tù túng, bị giam cầm.
Cảnh bình minh tươi sáng rọi trên hàng cây xanh, ánh nắng nhẹ nhàng lan tỏa. Con hổ ngủ say như một vị vua trong giấc ngủ an lành, với tiếng hát êm đềm của các loài chim rừng.
Những khoảnh khắc hoàng hôn đỏ lửa qua con mắt của 'chúa tể muôn loài”. Đó là những chiều 'đầy máu sau rừng” và vầng mặt trời sắp lặn chỉ là một kẻ thất thường trước ánh mắt mạnh mẽ của chúa sơn lâm.
“Đâu những chiều lênh láng máu sau rừng.
Ta đợi lúc mặt trời lặn gay gắt,
Để chiếm lấy phần bí mật cho riêng mình? ”
Về mặt nghệ thuật, Thế Lữ sử dụng hình ảnh rất độc đáo so với thơ ca hiện đại như” mảnh mặt trời”. Nếu thay từ “chết” bằng từ” lặn” và bỏ từ “mảnh”, câu thơ sẽ mất đi ý nghĩa và không phản ánh đúng tâm trạng và vị thế của vị chúa tể rừng già. Câu thơ này đã nâng cao tầm vóc của con hổ và cả bài thơ lên một tầm cao mới và tuyệt vời. Đoạn thơ sử dụng những hình ảnh đặc biệt, độc đáo và cách sắp xếp thời gian phong phú; sử dụng màu sắc độc đáo. Những yếu tố này đều tạo ra một bức tranh hiện đại và có giá trị. Ở đây, tác giả sử dụng đại từ “ta” lặp lại nhiều lần để thể hiện sự kiêu hãnh, quyền lực của con hổ, tạo ra một nhịp điệu trầm bổng cho câu thơ. Đoạn thơ cũng liên tục đặt ra các câu hỏi để bộc lộ cảm xúc, tâm trạng. Sử dụng câu hỏi tư từ và câu cảm thán 'Than ôi, thời oanh liệt nay còn đâu” cho thấy mối quan hệ sâu sắc của con hổ với núi rừng - nơi nó đã từng sống với tư cách một vị chúa tể. Những câu hỏi này thể hiện sự gắn bó, nhớ nhung về quá khứ đến mức đau đớn tột cùng của con hổ. Bởi vì tất cả những hình ảnh lộng lẫy, hùng vĩ đó chỉ còn là “ngày xưa”, là “thời hiện tại còn đâu”. Tác giả cũng tạo ra sự đối lập giữa thiên nhiên và hình ảnh của con hổ nằm dài trong cái chuồng sắt lạnh lẽo và bất lực ở phần đầu của bài thơ. Quá khứ càng hào hùng, hiện tại càng đau buồn. Điều này khiến cho nỗi khát khao tự do của con hổ càng trở nên đau đớn hơn.
Bộ bức tranh tứ bình này là những tác phẩm nghệ thuật thiên nhiên huyền bí và đẹp đẽ. Con hổ hiện lên ở trung tâm với nhiều dạng hình khác nhau nhưng luôn toát lên sức mạnh và quyền lực. Đây cũng là những câu thơ xuất sắc nhất trong bài thơ Nhớ rừng của Thế Lữ.
Phân tích bức tranh tứ bình trong bài Nhớ rừng - Mẫu 4
“Nhớ rừng” là một tác phẩm tiêu biểu của Thế Lữ, đánh dấu bước tiến quan trọng trong phong trào Thơ Mới của Việt Nam. Bài thơ lấy con hổ ở vườn thú để diễn đạt sự khát khao tự do của tầng lớp trí thức tiểu tư sản. Tác giả minh họa vẻ hùng vĩ, lẫm liệt của núi rừng - quê hương của con hổ. Đặc biệt, 10 câu thơ thứ ba tạo nên bức tranh tứ bình với sự kỳ vĩ của thiên nhiên và uy nghi của con hổ.
Bức tranh đêm trăng, bức tranh ngày mưa, và bức tranh bình minh là những điểm cần chú ý khi phân tích bức tranh tứ bình trong bài thơ Nhớ rừng của Thế Lữ.
Phân tích bức tranh tứ bình trong bài Nhớ rừng, bức tranh đầu tiên là hình ảnh hổ dưới ánh trăng mơ mộng:
“Nơi đâu những đêm vàng bên bờ suối
Chúng ta đứng say mê dưới ánh trăng tan?”
Cảnh đêm trăng hiện lên rực rỡ, với vầng trăng toả sáng khắp không gian, làm bừng tỉnh cảnh vật xung quanh. Dòng suối chảy róc rách tạo nên hình ảnh sinh động, tươi mới. Con hổ đứng bên bờ, say mê ngắm nhìn dòng suối mát trong.
Hổ say mồi không chỉ vì miếng thịt ngon mà còn bởi vẻ đẹp kì diệu của cảnh trăng sáng. Những nét dữ dội của chúa tể rừng dường như trở nên nhẹ nhàng hơn khi hòa mình vào vẻ đẹp của cảnh vật. Bức tranh tứ bình trong Nhớ rừng thể hiện sự hài hòa giữa cảnh vật và con người.
Mặc dù cảnh vật thơ mộng, hổ vẫn nhớ về những khoảnh khắc sảng khoái trong “những đêm vàng bên bờ suối”. Dù đã trôi qua nhưng ký ức ấy vẫn sống mãi trong tâm trí hổ.
Trong bức tranh thứ hai, tác giả mô tả hình ảnh con hổ trong cảnh mưa:
“Nơi những ngày mưa bao la trên khắp
Ta im lặng nhìn vùng đất mới của mình”
Chúa sơn lâm không còn say sưa bên dòng suối mát và miếng mồi hấp dẫn như trước. Trong khung cảnh “những ngày mưa chuyển bốn phương ngàn” của núi rừng, thiên nhiên dường như trở nên dữ dội, mịt mù. Mưa giăng khắp nơi khiến cho mọi vật rung chuyển. Dù vậy, chúa sơn lâm vẫn giữ thái độ vững vàng trước sự gào thét của thiên nhiên.
Con hổ vẫn điềm tĩnh, bình thản trước mọi biến động của thời tiết. Dù mưa gió tác động mạnh mẽ, hổ vẫn giữ thái độ của một vị vua. Trong phân tích bức tranh tứ bình trong Nhớ rừng, hổ thấy mỗi cơn mưa như là cơ hội để đổi mới giang sơn.
Hình ảnh con hổ trong những ngày mưa to gió lớn vẫn là biểu tượng của sức mạnh và oai vệ. Nhưng hiện tại, nó bị giam cầm, không còn được tự do như trước. Dù vậy, nó vẫn cảm thấy mạnh mẽ và oai hùng giữa cảnh mưa tuôn.
Phân tích bức tranh tứ bình trong Nhớ rừng cho thấy, dù bị giam cầm, bản lĩnh của con hổ vẫn mãnh liệt. Nó tiếc rằng không thể tỏa sáng như trước.
Trong những câu thơ sau, tác giả mô tả sự mới mẻ và sự hân hoan của một ngày mới:
“Cây xanh mừng sáng, nắng gội sáng bình minh
Chim rừng hòa giấc mơ, tiếng ca đều đều”
Sau cơn mưa, bầu trời sớm trở nên trong lành và tươi sáng hơn. Cây cối sau cơn mưa trở nên tươi tắn và đầy sức sống. Tiếng reo vui của chim rừng làm cho khung cảnh thêm phần sống động. Trong phân tích bức tranh tứ bình trong Nhớ rừng, hổ xuất hiện trong giấc ngủ nhưng không phải là giấc ngủ bình thường mà là giấc ngủ đầy hứng khởi.
Trong những ngày mưa, hổ thường chìm vào giấc ngủ, trái lại với đêm khi nó thức thì tương tác với vũ trụ. Bình minh mang đến không khí mát mẻ và âm thanh tươi vui dễ chịu cho hổ.
Hổ luôn tự do trong môi trường của mình và đứng ở vị thế chế ngự. Tuy nhiên, hiện tại, nó phải đối mặt với sự phụ thuộc và sự khó chịu từ việc phải sống chung với các loài khác.
Bình minh qua, hoàng hôn gõ cửa. Bức tranh cuối cùng diễn tả thời khắc hoàng hôn của cảnh rừng, mang đến ấn tượng mạnh mẽ nhất.
“Chiều tím máu rừng sâu khuất xa
Chờ đợi mặt trời tàn sáng đỏ lửa”
Cảnh “chiều lênh láng máu sau rừng” rất mãnh liệt và nổi bật. Gam màu nóng làm chủ đạo trong bức tranh, có thể là màu của máu hoặc màu của ánh sáng mặt trời. Phân tích bức tranh tứ bình trong Nhớ rừng, ta nhận thấy mặt trời chiếu sáng ban ngày khiến cho sự sống vận hành, và khi mặt trời khuất bóng, mọi sinh vật đều nghỉ ngơi. Tuy nhiên, vị chúa tể chờ đợi khoảnh khắc “mặt trời tàn sáng đỏ lửa” để:
“Chiếm lấy phần bí mật?”
“Bí mật” ấy có thể là quyền lực từ vũ trụ. Hổ muốn tận dụng cơ hội này để thống trị thế giới của mình.
Dù khao khát to lớn, nhưng những hình ảnh trong bốn bức tranh chỉ là quá khứ. Câu hỏi tu từ và điệp ngữ đã diễn tả sâu sắc nỗi nhớ của con hổ đối với quá khứ.
Thời kỳ huy hoàng của quá khứ đã kết thúc và có lẽ không bao giờ trở lại. Đối với vị chúa tể, sau tất cả, có lẽ chỉ còn lại tiếng than thở không đáp lại:
“- Ôi! Thời kỳ huy hoàng đã đi đâu?”
Đó là lời than thở của con hổ, biểu hiện cho nỗi buồn của nhà thơ nhưng cũng là biểu hiện của tâm trạng chung của những người sống trong sự kìm hãm. Đối với người dân Việt Nam phải sống trong cảnh nô lệ, bài thơ của Thế Lữ thể hiện nỗi tiếc nuối về quá khứ hào hùng của dân tộc. Điều này có thể là lý do khiến bài thơ được đón nhận nồng hậu ngay từ khi xuất hiện.
Những dòng thơ mô tả bốn bức tranh về thiên nhiên và chúa tể sơn lâm thực sự là những dòng thơ tuyệt vời trong bài Nhớ rừng. Thế Lữ không chỉ mô tả sự hùng vĩ của rừng mà còn lồng ghép tâm trạng của chúa tể sơn lâm vào đó. Đó cũng chính là tâm trạng của con người thời đại…
Phân tích bức tranh tứ bình trong bài Nhớ rừng - Mẫu 5
Thế Lữ không chỉ là người đại diện cho Thơ Mới mà còn là biểu tượng của phong trào thơ mới. Ông có tài năng thơ ca phong phú và tình cảm sâu lắng. “Nhớ rừng” là một ví dụ điển hình cho sự thành công của Thế Lữ và là tác phẩm đầu tiên mở ra cánh cửa cho Thơ Mới.
Để tạo ra thành công cho bài thơ, Thế Lữ, như một họa sĩ tài ba, đã vẽ nên một bức tranh tứ bình đặc sắc. Tranh tứ bình là một khái niệm nghệ thuật cổ điển thường được coi là thế giới hoàn chỉnh. Có nhiều cách để tạo ra tứ bình, như theo thời gian (xuân, hạ, thu, đông), phương hướng (đông, tây, nam, bắc) và nghề nghiệp (ngư, tiều, canh, mục). Mặc dù tứ bình không phải là một khái niệm mới, nhưng Thế Lữ đã có những đóng góp riêng biệt vào nó.
Việc sử dụng tứ bình giúp tác giả mô tả cảnh vật một cách toàn diện và tổng quát. Tuy đã không còn mới mẻ, nhưng trong việc sử dụng tứ bình, Thế Lữ vẫn thể hiện sự sáng tạo riêng của mình. Bốn bức tranh trong bộ tứ bình này đều do cùng một họa sĩ thực hiện, tổng hợp hoàn chỉnh sự mạnh mẽ của chúa sơn lâm trong thời kỳ huy hoàng. Tại đây, chúa sơn lâm đối mặt trực tiếp với vẻ đẹp vô tận của tạo hóa.
Bức tranh đầu tiên là cảnh đêm vàng bên bờ suối:
“Nào đâu những đêm vàng bên bờ suối
Ta sảng khoái say mê dòng nước mát”
Con hổ gọi những đêm trăng là đêm vàng vì khung cảnh trăng tròn, hổ cũng tỏa sáng như ánh trăng vàng. Cách gọi ấy làm cho đêm trở nên thêm phần lãng mạn và huyền bí. Đối với hổ, những đêm trăng ấy quý giá vô cùng vì đó là thời gian của sự tự do và mơ mộng. Hổ say mê săn mồi là bản năng, nhưng chúa sơn lâm cũng say mê ánh trăng vàng, khiến mình tan chảy trong dòng nước suối đại ngàn. Khung cảnh im lặng vừa đáng sợ, vừa quyến rũ. Thế Lữ đã mô tả một cách chân thực bản tính của con hổ, đưa đến cho độc giả những trải nghiệm mới mẻ. Con hổ cũng biết động lòng trước vẻ đẹp của thiên nhiên.
Bức thứ hai là cảnh mưa dữ dội:
“Đâu những ngày mưa chuyển bốn phương ngàn
Ta im lặng ngắm giang sơn ta đổi mới”
Mưa dữ dội làm lay động cả bốn phương trời, những trận mưa như thế có thể khiến cho những sinh vật yếu đuối run sợ, nhưng chúa sơn lâm không một chút kinh hoàng trước sức mạnh của thiên nhiên. Hổ yên bình đứng nhìn giang sơn thay đổi. Dáng vẻ của hổ tràn đầy sự kiên cường và sức mạnh làm chủ tự nhiên.
Bức thứ ba là cảnh bình minh rực rỡ:
“Nơi ánh ban mai soi tỏa trên cành cây
Âm nhạc của tiếng chim reo vang trong giấc ngủ êm đềm”
Buổi đêm, khi mọi vật bao phủ bởi giấc ngủ, hổ vẫn thức dậy cùng vũ trụ, dưới ánh trăng và vạn vì sao. Ngày mưa đầy sóng sánh làm rung chuyển rừng sâu, hổ trầm tĩnh ngắm nhìn sự biến đổi của thiên nhiên. Nhưng khi mặt trời mọc, khi cây xanh được nắng gội, khi tiếng chim reo vang, hổ vẫn còn ngủ say. Quyền uy của chúa sơn lâm khiến hổ chẳng thèm quan tâm. Từ từ 'tưng bừng' cho thấy giấc ngủ của hổ đặc biệt. Sự nhộn nhịp bên ngoài chỉ khiến cho giấc ngủ của hổ càng thêm dễ chịu, thêm đẹp.
Bức thứ tư là cảnh hoàng hôn.
“Nơi những chiều ửng hồng sau rừng rậm
Chờ đón ánh dương tàn phai đẹp mắt”
Mấy từ 'lênh láng máu sau rừng' thật sự làm cho người ta rùng mình. Nó khắc sâu trong tâm trí hình ảnh của một trận chiến dữ dội trên chiến trường. Nhưng đó không phải là máu của một con thú rừng. Đó chính là máu của mặt trời. Ánh dương, trong sự cảm nhận của con thú hung dữ, mang sắc đỏ như máu lẫn trong láng giềng màu của chiến trường. Bức tranh hoàng hôn rực rỡ trong gam màu đỏ: đỏ của ánh dương chói chang, đỏ của máu lênh láng. Từ 'chết mảnh mặt trời gay gắt' biến mặt trời thành một sinh vật sống, không còn chỉ là một khối lửa đơn độc trên bầu trời mà trở thành một con thú.
Tích hợp điệu nhạc của điệp ngữ và sự tò mò của câu hỏi, bốn bức tranh là bốn kí ức tiếc nuối. Bốn dòng thơ lặp lại nhưng cũng ngày càng phát triển. Đây có thể coi là phần thơ đặc sắc nhất trong “Nhớ rừng”. Trong các nét vẽ của Thế Lữ, vừa có nét vẽ của họa sĩ, vừa có sự lãng mạn của thi sĩ. Với đoạn thơ này, “Nhớ rừng” trở thành một tác phẩm lớn về khát khao tự do của con người.
Phân tích bức tranh tứ bình trong bài Nhớ rừng - Mẫu 6
Bài thơ “Nhớ rừng” của Thế Lữ không chỉ là một “khúc trường ca dữ dội” thể hiện tâm trạng vĩ đại của chúa sơn lâm mà còn là một kiệt tác hùng vĩ từng bước khắc sâu vào tâm trí của người đọc bằng cách tạo ra hình tượng của 'chúa tể muôn loài'. Tính chất tạo hình được biểu hiện một cách xuất sắc trong bài thơ, đặc biệt là thông qua tứ bình.
Tứ bình là một phương pháp tạo hình quen thuộc từ thời cổ điển. Người xưa thường tóm tắt một hiện thực toàn diện vào bốn bức tranh. Vì thế tứ bình không chỉ là một cấu trúc, một phương tiện, một thế giới. Thời gian: Xuân Hạ Thu Đông, thảo mộc: Tùng Trúc Cúc Mai, nghề nghiệp: Ngư Tiều Canh Mục, nghệ thú: Cầm Kỳ Thi Họa.v.v... Bắt nguồn từ hội họa, sau đó tứ bình lan rộng sang nhiều nghệ thuật khác. Người đọc thơ có thể nhận thấy ở Chinh phụ ngâm, những cảnh nặng lòng của nàng chinh phụ hiện hữu trọn vẹn khi “ngắm bốn phía”, mỗi phía là một hướng, một tầm nhìn, một thống cảm của nỗi nhớ. Tâm trạng buồn bã của Thuý Kiều trước lầu Ngưng Bích cũng được biểu hiện dưới hình thức tứ bình với câu 'buồn trông”... Do đó, việc sử dụng tứ bình không phải là điều đáng lưu ý. Đáng lưu ý là: cả bốn bức tranh tứ bình ở đây đều là những chân dung tự sự khác nhau của cùng một con hổ. Chúng đã khái quát toàn bộ “thời oanh liệt” của chúa sơn lâm.
Nơi ánh ban mai chiếu sáng trên cành cây
Âm nhạc của tiếng chim reo vang trong giấc ngủ yên bình?
Nơi những ngày mưa dữ dội trải rộng khắp bốn phương trời
Ta im lặng ngắm nhìn vẻ đẹp mới mẻ của núi sông?
Nơi bình minh làm sáng bừng cây xanh và nắng gội
Tiếng chim hòa ca trong giấc ngủ tràn đầy hứng khởi của ta?
Nơi những chiều ửng hồng sau rừng rậm
Chờ đón ánh dương tàn phai đẹp mắt
Để ta chiếm lấy riêng phần bí mật?
Passage thơ này rõ ràng là một phần quan trọng nhất của 'Nhớ rừng”, nổi bật bởi cách tạo hình thông qua thơ. Bốn bức là bốn ký ức đầy tiếc nuối và phẫn uất, càng làm nổi bật hơn qua bốn câu hỏi đầy dữ tợn.
Mỗi bức mang một cảnh đẹp riêng, một gam màu riêng, một dáng điệu của vị “chúa tể cả muôn loài”.
Bức đầu tiên thật là hấp dẫn:
Nơi ánh trăng vàng lấp lánh trên bờ suối
Ta, con hổ, say mê uống cạn ánh trăng tan?
Gam màu vàng sáng lên trên bề mặt suối vắng. Đối với con hổ đang bị giam cầm trong cái lồng thép, đó không chỉ là những ký ức về ánh trăng vàng lấp lánh, mà thực sự là những “đêm vàng” - những kỷ niệm quý giá như vàng ròng - không thể nào lấy lại được. Chúa sơn lâm hiện ra như là nhà thơ của khu rừng, với cử chỉ uống ánh trăng tàn đẹp mê hồn.
Bức thứ hai, chúa sơn lâm hiện ra như một vị vua trước vẻ đẹp của vùng đất của mình:
Ở đâu những chiều mưa hoá bốn phương ngàn
Chúng ta lặng im ngắm sự đổi mới của giang sơn?
Đêm trăng đã nhường chỗ cho chiều mưa. Sắc vàng đã biến thành màu xám bạc, tô điểm cho khung cảnh tươi xanh. Chúa tể của rừng già đang nhìn ra khắp vương quốc mới dưới sự thay đổi của mình. Trang nghiêm, ưu tú và kiêu hãnh.
Bức thứ ba, chiều mưa dần chuyển sang rạng đông, bức tranh đã thắm đẹp bởi ánh nắng bình minh. Chúa sơn lâm hiện ra như một vị lãnh chúa, nghiêng mình trong giấc ngủ trì trệ khi ban mai đến, thưởng thức vẻ đẹp xanh thắm của cung điện rừng của mình:
Ở đâu những bình minh cây xanh nắng gội
Tiếng chim hát vang giấc ngủ chúng ta tưng bừng?
Đọc câu thơ này, ta có thể hình dung: cây xanh như màn trướng được tắm bởi ánh nắng, còn tiếng chim hót như những bước nhảy vui tươi của các cung nữ quanh giấc ngủ sâu của vị vua rừng.
Bộ tứ bình đóng lại bằng bức tranh cuối cùng, cũng là bức tranh ấn tượng nhất:
Ở đâu những chiều lênh láng máu sau rừng
Chúng ta đợi đến lúc mặt trời tan biến gầy gò
Để chúng ta chiếm lấy phần bí mật?
Giọng điệu không còn là của sự than thở, mà đã trở thành lời vấn đề đầy oán hận và uy nghiêm đối với quá khứ cũng như hiện tại. Tương ứng với giọng điệu, chúa sơn lâm hiện ra như một vị vua bạo chúa hoàn toàn mới: tư thế kiêu ngạo của một kẻ thống trị. Phông nền thuộc về gam màu máu. Cụm từ “lênh láng máu” đáng sợ thực sự! Qua lăng kính của chúa sơn lâm, hoàng hôn đỏ rực của mặt trời giống như sắc máu. Trong thế giới hoang sơ ấy, chỉ có mặt trời là đối thủ duy nhất xứng đáng và đáng được trưng bày với quyền uy sánh kè cùng với con hổ. Nhưng mảnh mặt trời đó cũng đang đối mặt với sự suy tàn, lênh láng máu. Dưới ánh mắt kiêu căng và khinh bỉ của con thú mãnh thú, ngôi vị cao cả của mặt trời cũng không còn là gì, mặt trời đó cũng chỉ là những mảnh vụn tầm thường. Quyền uy của chúa sơn lâm trải rộng khắp vũ trụ khiến mặt trời cũng phải lùi bước. Câu “Chúng ta đợi đến lúc mặt trời tan biến gầy gò” trong bức tranh cuối cùng dường như đã thể hiện được sự ngạo nghễ vượt trội của con thú như đang đạp lên bầu trời, bóng của nó trùm lên cả vũ trụ. Hình ảnh con hổ vây quanh bóng mặt trời, như đang dẫm nát mặt trời, là biểu tượng đẹp và mãnh liệt nhất mô tả đỉnh điểm của quyền lực kẻ thống trị vũ trụ.
Rùng rợn thật! Ngay cả mặt trời cũng trở nên bình thường, vậy thì có vẻ như sự phi thường đã đến tận cùng! Sự hồi tưởng đã kết thúc: thời kỳ oanh liệt của cái tôi - kẻ thống trị cao cả!
Một nhà thơ nhìn trăng ở nơi hoang sơ. Một vị vua mê mải ngắm giang sơn. Một lãnh chúa của rừng xanh giữa bầy kẻ hung ác. Một bạo chúa kiêu căng với mặt trời. Bốn kỷ niệm oai vệ, bốn khoảnh khắc lịch sử! Bộ tứ bình hoàn thành!
Một số nhận định cho rằng: Thơ của Thế Lữ tràn ngập tinh thần lãng mạn, lời thơ sôi động với hình ảnh sắc nét, màu sắc phong phú và nhịp điệu du dương; các câu thơ mở rộng, phong phú như để chứa đựng mọi tình cảm phức tạp, tinh tế trong lòng người. Đọc bài thơ “Nhớ rừng” và đặc biệt cảm nhận bức tranh tứ bình, ta thấy nhận xét trên hoàn toàn chính xác!
Phân tích về bức tranh tứ bình trong bài thơ “Nhớ rừng” - Mẫu 7
Tứ bình là một yếu tố tạo hình quen thuộc và phổ biến từ thời cổ điển. Ngày xưa, con người thường tóm tắt một hiện thực vào một bức tranh với bốn phần. Do đó, tứ bình chính là một cấu trúc, một hình thể, một thế giới hoàn chỉnh. Từ nghệ thuật hội họa, tứ bình đã được chuyển thể và áp dụng vào nhiều lĩnh vực nghệ thuật khác, đặc biệt là trong văn thơ.
Có thể dễ dàng nhận thấy bức tranh tứ bình trong “Chinh phụ ngâm” ở những phần thể hiện sự nhớ nhung cay đắng của người vợ. Hoặc trong “Truyện Kiều” của Nguyễn Du, tâm trạng đau đớn, sợ hãi của Kiều cũng được diễn đạt một cách xuất sắc qua tứ bình trong điệp khúc “buồn trông…”. Nếu vậy, việc sử dụng tứ bình không phải là điều mới lạ. Tuy nhiên, trong “Nhớ rừng”, điều đáng chú ý là bức tranh tứ bình được vẽ nên đều là các bức chân dung khác nhau của cùng một vị chúa tể rừng xanh. Từ đó, bức tranh đã tóm tắt một cách toàn diện về thời kỳ oanh liệt của chúa sơn lâm.
Ở đâu những đêm vàng bên bờ suối
Chúng ta say mê đứng đóng đinh dưới ánh trăng tan?
Ở đâu những chiều mưa biến đổi đa hướng
Chúng ta im lặng ngắm cảnh giang sơn chúng ta thay đổi?
Ở đâu những buổi sáng cây xanh được tắm nắng
Tiếng chim hát vang trong giấc ngủ chúng ta hân hoan?
Ở đâu những chiều lênh láng máu sau rừng
Chúng ta chờ đợi mảnh mặt trời tan chảy cay đắng
Để chúng ta chiếm lấy phần bí mật của mình?
Lối tạo hình bằng thơ đã làm cho đoạn thơ trên trở thành một phần tuyệt vời của 'Nhớ rừng'. Bốn bức tranh với những màu sắc và khung cảnh đa dạng đã diễn đạt đầy đủ nỗi hoài niệm, nỗi tiếc nuối, và uất hận. Giọng điệu của vị chúa sơn lâm ngày càng trở nên oán trách, dữ tợn khi sử dụng những câu hỏi tu từ mang giá trị nghệ thuật đặc biệt.
Bức tranh đầu tiên xuất hiện với vẻ đẹp rất lôi cuốn:
Ở đâu những đêm vàng bên bờ suối
Chúng ta say mê đứng uống dòng ánh trăng tan?
Đọc câu thơ, ta như nghĩ đến màu vàng lung linh của ánh trăng phản chiếu trên dòng suối vắng trên núi rừng hoang sơ. Đó chính là những kỷ niệm không bao giờ có cơ hội trải qua trong những ngày tháng tiếp theo của con hổ khi sống trong tình cảnh bị giam cầm như hiện tại - một quá khứ vàng son. Loài chúa sơn lâm hiện ra như một nhà thơ của nơi rừng sâu, thể hiện dáng vẻ kiêu hãnh uống ánh trăng tàn một cách say mê.
Bức tranh thứ hai miêu tả cảnh núi rừng mạnh mẽ vào những ngày mưa kèm theo sự thanh thản của loài chúa sơn lâm.
Ở đâu những chiều mưa chuyển khắp bốn phương
Chúng ta im lặng ngắm nhìn giang sơn đổi mới?
Màu vàng đã nhường chỗ cho màu xám bạc, tạo ra ánh sáng xanh tươi mới. Chúa sơn lâm, vương chủ của núi rừng, đứng hiên ngang, phóng tầm mắt nhìn ra toàn cảnh giang sơn đang thay đổi dưới sự trị vì của mình. Đó là hình ảnh trang nghiêm, ưu tú và kiêu hãnh - những đặc điểm chỉ có trong quá khứ vinh quang của chúa sơn lâm.
Đến bức tranh thứ ba, cơn mưa đã dần biến thành rạng đông. Màu xám bạc đã chuyển sang màu sắc thắm của bình minh, làm cho toàn cảnh trở nên tươi mới hơn. Chúa sơn lâm hiện ra như một lãnh chúa tự nhiên trong giấc ngủ trễ tràng. Dù mặt trời đã lên cao, chúa sơn lâm vẫn thong thả thưởng thức sự lạc thú trong vương quốc của mình:
Ở đâu những bình minh cây xanh được rải nắng
Tiếng hát của chim thức tỉnh giấc ngủ chúng ta đầy phấn khởi?
Khung cảnh núi rừng được phủ bởi màu xanh và ánh nắng mặt trời, trong khi chúa sơn lâm đang ngủ say trong âm nhạc hân hoan của chim muông. Bức tranh hiện ra với sự sống động và chân thực, là kỷ niệm về những ngày tự do, sống giữa thiên nhiên hùng vĩ của chúa sơn lâm.
Bộ tứ bình kết thúc với một bức tranh hoàng hôn bi tráng:
Ở đâu những chiều lênh láng máu sau rừng
Chúng ta đợi chờ ánh mặt trời khuất tàn
Để chiếm lấy phần bí mật của riêng mình?
Giọng điệu của chúa sơn lâm không còn là sự thở than, mà nó đã trở thành lời chất vấn đầy giận dữ khi nhớ về quá khứ và nhìn lại thực tại đau buồn. Tư thế của chúa sơn lâm cũng đã thay đổi, trở thành một tư thế kiêu hãnh của loài bạo chúa. Màu sắc hiện tại cũng đã đổi sang màu của máu.
Qua đôi mắt của chúa sơn lâm, ánh mặt trời của hoàng hôn đỏ rực như máu. Trong cảnh hùng vĩ đó, chỉ có mặt trời là đối thủ duy nhất có thể sánh vai với nó. Nhưng mảnh mặt trời kia cũng đang hấp hối, gục ngã, lênh láng máu dưới ánh mắt ngạo mạn và khinh bỉ của loài mãnh thú. Mặt trời kia cũng chỉ là thứ tầm thường và quyền uy của chúa sơn lâm dường như bao phủ cả vũ trụ, khiến mặt trời cũng phải sợ hãi lùi bước.
Bức tứ bình cuối cùng như vẽ lại bước chân ngạo nghễ của loài thú hung mãnh dẫm đạp lên cả bầu trời. Bóng dáng con hổ trùm kín vũ trụ, như dẫm nát mặt trời là một trong những hình ảnh oai hùng và dữ dội nhất diễn tả quyền lực của kẻ thống trị vũ trụ.
Bốn tấm tranh tuyệt đẹp mô tả những khung cảnh độc đáo đã ghi lại bốn khoảnh khắc ấn tượng nhất của loài chúa sơn lâm. Hình ảnh con hổ nằm ở trung tâm mỗi bức tranh, với bối cảnh của những ngọn núi cao vút và rừng rậm hoang dã làm nền cho tác phẩm nghệ thuật này.