Cảm nhận vẻ đẹp thiên nhiên trong Mùa xuân nho nhỏ và Sang thu, tuyển chọn 4 mẫu hay nhất, kèm theo 3 dàn ý chi tiết, giúp các bạn học sinh lớp 9 cảm nhận được hình ảnh thiên nhiên tươi đẹp, cùng cảnh đất trời khi chuyển từ mùa hạ sang mùa thu.
Dù là hai bài thơ, hai cảm xúc khác nhau nhưng lại có cùng nguồn cảm hứng, cùng tình yêu với thiên nhiên đất nước được thể hiện qua những hình ảnh thiên nhiên đẹp đẽ, nên thơ. Mời các bạn cùng theo dõi để ngày càng học tốt môn Văn 9.
Dàn ý cảm nhận vẻ đẹp thiên nhiên trong Mùa xuân nho nhỏ và Sang thu
Dàn ý 1
1. Mở đầu:
- Tình yêu thiên nhiên là một trong những chủ đề quan trọng trong văn học Việt Nam.
- Các nhà thơ hiện đại đã đóng góp vào đề tài này bằng những cách tiếp cận độc đáo của mình. Người đọc sẽ cảm nhận được tình yêu thiên nhiên sâu sắc của hai thi sĩ: Thanh Hải trong Mùa xuân nho nhỏ, Hữu Thỉnh trong Sang thu.
2. Nội dung chính:
2.1. Tình yêu thiên nhiên qua bài thơ Mùa xuân nho nhỏ: Tình yêu thiên nhiên – vẻ đẹp của mùa xuân ở Huế được nhà thơ thể hiện rất tinh tế.
- Sự tinh tế trong việc phối hợp màu sắc thể hiện vẻ đẹp hài hòa của thiên nhiên: bông hoa tím nổi bật trên nền dòng sông xanh.
- Sử dụng biện pháp thay đổi trật tự cú pháp trong câu thơ để tạo hiệu ứng nhấn mạnh:
Mọc giữa dòng sông xanh
Một bông hoa tím nổi bật
đã đẩy mạnh ý nghĩa về sự sống lại của thiên nhiên khi mùa xuân đến; tạo nên một không gian xuân đặc trưng của Huế. Bông hoa tím nổi bật làm cho bức tranh xuân trở nên thân thiết, gần gũi.
- Hai câu thơ tiếp theo đã mở ra một không gian nghệ thuật mới cho bức tranh xuân. Tín hiệu của mùa xuân còn được biểu hiện qua tiếng hót vang trời của con chim chiền chiện:
Ơi con chim chiền chiện
Hót vang xa trời
+ Sử dụng cách gọi – đáp ơi để tạo hình ảnh thân thiện với con chim chiền chiện, biến nó thành người bạn.
+ Từ ngữ hót xa – từ ngữ địa phương làm tăng tính chân thực và biểu cảm của câu thơ.
- Trong hai câu thơ 5, 6, hình ảnh người trữ tình hiện lên rõ trong bài thơ:
Những giọt sương rơi lấp lánh
Đưa tay tôi hứng giữ lại
+ Từng giọt sáng lấp lánh có nhiều ý nghĩa: giọt sương trên cỏ mọc;/giọt mưa xuân/ tiếng chim hót
=>Theo dòng cảm xúc, đọc giả có thể cảm nhận đây là tiếng chim hót. Phép tu từ ẩn dụ (chuyển đổi cảm giác) làm cho bức tranh xuân trở nên thơ mộng, trữ tình với hành động đưa tay hứng tiếng chim chiền chiện của nhà thơ – người trữ tình trong bài thơ.
Đoạn thơ như một bức tranh – bức tranh với dòng sông, hoa cỏ, chim hót, bầu trời, sương mai, ánh xuân, và con người.
Bức tranh mang đậm sắc xuân, tình xuân và cả giai điệu xuân đã thể hiện tình yêu thiên nhiên – thiên nhiên mùa xuân của thi nhân!
2.2. Tình yêu thiên nhiên của thi nhân qua bài thơ Sang thu: Đọc Sang thu của Hữu Thỉnh, ta lại được trải nghiệm vẻ đẹp của sự nhận biết tinh tế, những cảm xúc của một tâm hồn nhạy cảm nghệ sĩ vào mùa thu đến.
- Sự độc đáo bắt đầu với hương ổi – mùi thu:
Bỗng nhận ra hương ổi
Phả vào gió se se lạnh
Sương chùng chình trôi qua con hẻm
Hình như đã thấy mùa thu đến
+ Hai chữ phả vào không chỉ làm bật lên một cách đột ngột trong cảm nhận, mà còn làm hiện lên mùi thơm của quả ổi, đồng thời làm nhấn mạnh sự di chuyển nhẹ nhàng của gió.
+ Từ chùng chình đã biến sương thành hình ảnh của sự lay động của lá cây, tâm trạng của con người, không khí của mùa thu bắt đầu nổi lên.
+ Thành phần tách biệt – thành phần tâm trạng hình như thể hiện sự nghi ngờ, mơ hồ, một chút không rõ ràng về bước chuyển mùa thu, mặc dù dấu hiệu của mùa thu đã rõ ràng.
- Cảm xúc trong lúc chuyển giao tiếp tục lan tỏa, mở ra trong cái nhìn xa hơn, rộng lớn:
Dòng sông trở nên dịu dàng
Chim bắt đầu bay vội vã
Đám mây mùa hạ xuất hiện
Chuyển hướng nửa cơ thể sang thu
+Từ dòng trở nên dịu dàng đã nhân hóa sự chảy của sông, không còn nhanh như trong những ngày mưa lũ mùa hạ nữa mà trở nên chậm rãi, thong thả.
+ Ngược lại với sự dịu dàng của dòng sông là sự vội vã của những chú chim bay «Chim bắt đầu bay vội vã». Từ vội vã đã nhân hóa những chú chim – những chú chim đang sắp bay về phương Nam để tránh rét.
=>Sự đối lập này đã khơi gợi sự vận động của sự vật trong khoảnh khắc chuyển mùa.
- Đẹp nhất, giàu sức biểu cảm nhất là hình ảnh thơ:
Đám mây mùa hạ
Chuyển phần của mình sang thu
+ Phép nhân hóa được áp dụng trong câu thơ tạo ra sự bất ngờ thú vị, tinh tế. Áng mây mơ hồ là hình ảnh thực tế nhưng ranh giới của hai mùa là sự sáng tạo - sản phẩm của trí tưởng tượng của nhà thơ.
+ Đám mây đang trôi trên bầu trời một nửa là hạ một nửa là thu, rồi đột ngột nó nhận ra rằng nó đang trôi trong bầu trời thu hoàn toàn.
=> Hình ảnh thơ tự nhiên, không chau chuốt nhưng giàu sức gợi cảm, cách sắp xếp từ vựng trong câu thơ tạo ra những liên tưởng thú vị. Điều này thể hiện một cách đặc biệt những cảm xúc tinh tế trước sự chuyển giao của mùa; diễn đạt cụ thể, tinh tế, nhạy cảm tình yêu thiên nhiên sâu sắc của Hữu Thỉnh. Cách cảm nhận và miêu tả của tác giả: tinh tế, nhạy cảm, sự liên tưởng độc đáo. Nhà thơ đã làm cho mùa thu trong thơ ca Việt Nam trở nên đặc biệt.
2.3. Đánh giá tổng quan:
a. Điểm chung:
- Cả hai thi sĩ đều mê thiên nhiên.
- Tình yêu thiên nhiên của cả hai nhà thơ đều nhẹ nhàng, tinh tế nên cảnh thiên nhiên trong hai bài thơ không bị nhầm lẫn với cảnh thiên nhiên của các bài thơ khác.
b. Điểm riêng:
* Mùa xuân nhỏ nhắn:
- Đổi trật tự cú pháp, ẩn dụ;
- Bức tranh thiên nhiên mùa xuân xứ Huế;
- Xúc cảm của thi nhân nghiêng về hình ảnh đầy sắc xuân đẹp đẽ của thiên nhiên, đất trời – thể hiện tình yêu tha thiết với cuộc sống.
* Sang thu:
- Hình ảnh đặc trưng, giàu sức biểu cảm; phép nhân hóa;
- Cảnh vườn thu, ngõ xóm của đồng bằng Bắc bộ;
- Xúc cảm của thi nhân nghiêng về cảm nhận giây phút nhẹ nhàng – tình cảm gắn bó tha thiết với quê hương.
3. Kết bài:
- Tình yêu thiên nhiên – mùa xuân, mùa thu của hai thi nhân thật thiết tha đã bồi đắp thêm cảm xúc, tình cảm yêu mến thiên nhiên cho mỗi người đọc.
- Hai bài thơ: Mùa xuân nho nhỏ, Sang thu cùng với hai hồn thơ – Thanh Hải, Hữu Thỉnh – đã làm đẹp những trang thơ – thơ hiện đại Việt Nam.
Dàn ý 2
I. Mở bài:
- Giới thiệu tác giả, tác phẩm, hai đoạn trích thơ:
+ Thiên nhiên luôn là nguồn cảm hứng vô tận đối với thi sĩ từ xưa đến nay bởi vẻ đẹp gợi cảm và vĩnh hằng của nó.
+ Hình ảnh thiên nhiên luôn được gợi lên với những bức tranh tuyệt đẹp qua biết bao tác phẩm sống mãi với thời gian.
+ Mỗi khi đọc “Mùa xuân nho nhỏ” của Thanh Hải và “Sang Thu” của Hữu Thỉnh, ta luôn cảm nhận được những rung động tinh tế của nhà thơ trước vẻ đẹp của thiên nhiên ban tặng cho cuộc sống.
Đặc biệt, hai khổ thơ đầu của bài thơ đã khơi gợi trong người đọc những cảm xúc bâng khuâng xao xuyến về thiên nhiên trong hai mùa xuân và thu.
II. Thân bài:
* Cảm nhận về khổ thơ đầu của bài thơ “Mùa xuân nho nhỏ”
- Một bức tranh mùa xuân tươi mới, phong phú, đậm đà âm thanh và màu sắc, thể hiện sự thơ mộng và cảm xúc ngây ngất của nhà thơ.
+ Bức tranh mùa xuân được vẽ bằng vài nét chấm phá nhưng đầy sức hút: Trên dòng sông xanh biếc bao la, hiền hòa, thơ mộng, một vài bông hoa tím nhạt nhưng tràn ngập chất thơ.
+ Phân tích nghệ thuật đảo ngữ với động từ “mọc” được đặt ở đầu đoạn thơ để nhấn mạnh sức sống mạnh mẽ của thiên nhiên khi mùa xuân về.
+ Hình ảnh tiếng chim chiền chiện “vang trời” tạo nên một không gian cao rộng, thoáng đãng, rộn rã và tràn đầy sức sống.
+ Cảm xúc của nhà thơ: say sưa, ngất ngây
* Cảm nhận về khổ thơ đầu bài thơ “Sang thu”
- Bức tranh thiên nhiên chớm thu, dấu hiệu báo mùa: được vẽ bằng vài nét nhấn nhá: hương ổi, gió se và sương thu.
- Phân tích động từ “Phả” giàu sức gợi: không thể thay từ “Phả” bằng từ “hoà”, từ “quyện”.
- Nếu thay từ “hoà”, “quyện” thì chúng ta chỉ cảm nhận được mùi vị của hương ổi mà không cảm nhận được hương vị của làn gió se lạnh, động từ “Phả” vừa gợi sự gợi cảm quyến rũ của đầu mùa thu thoáng nhẹ, thoang thoảng lan toả vào làn gió, tràn vào không gian … Đồng thời động từ “Phả” còn gợi lên sự cảm nhận làn gió thu se lạnh mơn man trên da thịt, một sự chuyển mùa bằng tín hiệu đặc trưng của thiên nhiên sang thu
- Từ láy “chùng chình” đã được nhân hoá thổi hồn vào làn sương gợi từng bước chuyển động chậm chạp như còn vương vấn, lưu luyến. Làn sương “chùng chình” tạo nên 1 không gian mơ màng, thơ mộng, sương giăng giăng đầu ngõ là nét đặc trưng của vẻ đẹp đầu thu chỉ có ở những làng quê Miền Bắc. Những cảnh vật vừa mới chấm thu, sương thu chưa dày đặc mà chỉ mới xuất hiện lãng đãng, mơ hồ, chùng chình, khiến nhà thơ bất giác nhận ra thu đã về rồi chăng? Một sự phán đoán còn mơ hồ.
+ Cảm xúc và trạng thái của nhà thơ Hữu Thỉnh: Tất cả các tín hiệu của thiên nhiên vào thu trong thời khắc chuyển mùa mong manh được nhà thơ bất giác nhận ra: “Bỗng” mở đầu bài thơ đã diễn tả trạng thái ấy, nhưng dù bất giác ngỡ ngàng dường như nhà thơ có sự chờ đợi sẵn để đón nhận vẻ đẹp của thiên nhiên trong phút giây mong manh giao mùa này chăng? Chỉ có 1 hồn thơ nhạy cảm yêu thiên nhiên say đắm mới có những rung động tinh tế trước sự chuyển mùa rõ rệt đến thế.
* So sánh thiên nhiên trong 2 đoạn thơ
- Giống nhau:
+ Thiên nhiên trong 2 đoạn thơ đều hiện lên thật gợi cảm, nên thơ cùng với những rung động tinh tế và tình yêu thiên nhiên tha thiết của nhà thơ.
+ Đều chọn lọc những hình ảnh tiêu biểu bằng vài nét chấm phá và dùng những từ ngữ giàu sức gợi để diễn tả cái hồn của bức tranh thiên nhiên.
- Khác nhau:
+ Thanh Hải ngắm mùa xuân khi nằm trên giường bệnh, thể hiện tình yêu cuộc sống và thiên nhiên.
III. Kết bài:
- Mỗi nhà thơ có cảm nhận riêng về thiên nhiên nhưng đều gợi lại cảm xúc sâu lắng cho người đọc.
Dàn ý 3
1. Mở bài:
- Giới thiệu về tác giả Thanh Hải, Hữu Thỉnh và hai bài thơ Mùa xuân nho nhỏ, Sang Thu.
- Dẫn dắt đến đối tượng cần cảm nhận: Hình ảnh thiên nhiên được thể hiện trong 2 bài thơ.
2. Thân bài:
a. Bức tranh thiên nhiên xứ Huế qua bài thơ Mùa xuân nho nhỏ:
- Bức tranh mùa xuân xứ Huế tươi đẹp:
- Thanh Hải sử dụng những hình ảnh chấm phá như hoa, chim, sông, bầu trời để gợi tả mùa xuân.
- Nhà thơ đặt từ 'mọc' lên đầu câu thơ: tạo cảm giác bất ngờ, mùa xuân đến bất chợt.
- Âm thanh chim 'chiền chiện' - người đưa tin của mùa xuân thì đang ca hót rộn rã.
- Từ 'ơi' được nhà thơ đặt lên đầu câu thơ: gợi lên sự tha thiết, thân thương.
- 'Từng giọt long lanh rời' : Tiếng chim trên cao gọi xuân như đang cô đặc thành từng giọt mật của mùa xuân rơi xuống mặt đất.
- Nhà thơ đã đón lấy và nâng niu từng giọt → nghệ thuật chuyển đổi cảm giác: mùa xuân như một thực thể hữu hình, con người có thể chạm, nắm, nếm thử.
=> Bức tranh mùa xuân tươi đẹp, căng tràn sức sống.
b. Bức tranh giao mùa từ hạ sang thu qua bài thơ Sang thu:
- Bức tranh chớm thu của quê hương vùng đồng bằng Bắc Bộ hiện lên qua những tín hiệu rõ ràng:
- 'Hương ổi': đang lan tỏa trong không khí, đánh thức những giác quan tinh tế nhất của nhà thơ.
- Từ 'bỗng': diễn tả cảm giác ngỡ ngàng, bất ngờ của nhà thơ khi bắt gặp mùi hương ổi chín thơm.
- 'Gió se': làn gió lạnh khô, không còn hơi nóng của mùa hạ.
- 'Sương': màn sương mù buổi sớm đang lan toả khắp ngõ xóm.
- Từ 'chùng chình': diễn tả hành động cố ý chậm lại của màn sương → Nhà thơ đã nhân hóa màn sương khiến chúng như có linh hồn.
→ Những dấu hiệu mùa thu rõ ràng khiến cho nhà thơ xúc động, bất ngỡ, không tin vào chính mình 'hình như thu đã về'.
- Vẻ đẹp của mùa thu trong thiên nhiên:
- Hình ảnh sông trôi êm đềm, 'dềnh dàng', chậm rãi và thong thả.
- Ngược lại, hình ảnh của những chú chim 'vội vã' chuẩn bị đi về phương Nam tránh rét.
- Sự đối lập giữa hai hình ảnh được tượng trưng bằng hai từ láy 'dềnh dàng', 'vội vã': cho thấy sự thay đổi mạnh mẽ của tự nhiên khi mùa thu chuyển sang.
- Hình ảnh của 'đám mây mùa hạ': là sự liên tưởng độc đáo, nhân hoá của nhà thơ.
- 'Đám mây mùa hạ' dường như còn nhớ nhung cái nóng của mùa hạ nên mới chỉ 'vắt nửa mình' qua mùa thu.
- Hình ảnh thiên nhiên: Mùa thu đã đến nhưng vẫn còn những tia nắng của mùa hạ, những cơn mưa và sấm đã dần khuất.
c. Đánh giá tổng quan:
- Hai bài thơ là bức tranh tuyệt vời về thiên nhiên quê hương đất nước.
- Chứa đựng trong đó là tình yêu sâu sắc với thiên nhiên, với quê hương của hai nhà thơ Hữu Thỉnh và Thanh Hải.
3. Tổng kết:
- Nhận định lại giá trị của cả hai bài thơ.
Nhận định về hình ảnh thiên nhiên trong Mùa xuân nho nhỏ và Sang thu - Mẫu 1
Thiên nhiên luôn là nguồn cảm hứng vô tận cho các thi nhân. Thanh Hải và Hữu Thỉnh đã đóng góp vào di sản thơ ca Việt Nam hai bài thơ rất đặc biệt về thiên nhiên, đó là 'Mùa xuân nho nhỏ' và 'Sang thu'. Hai bài thơ này, dù có hai cảm xúc khác nhau nhưng lại chia sẻ cùng một nguồn cảm hứng và tình yêu với thiên nhiên và quê hương, được thể hiện qua những hình ảnh thiên nhiên tươi đẹp, đằm thắm.
Trái ngược với 'Mùa xuân nho nhỏ' của Thanh Hải viết về vẻ đẹp của mùa xuân, đất nước và những khát vọng đẹp đẽ, 'Sang thu' của Hữu Thỉnh lại mô tả khoảnh khắc chuyển mùa từ hạ sang thu. Mặc dù cùng viết về đề tài thiên nhiên nhưng mỗi tác phẩm lại mang một vẻ đẹp, một sắc thái riêng, độc đáo.
Bài thơ Mùa xuân nho nhỏ viết về mùa xuân tươi đẹp xứ Huế. Ngay từ đầu bài thơ, nhà thơ đã tạo ra một bức tranh rất đẹp về mùa xuân:
'Mọc giữa dòng sông xanh
Một bông hoa tím biếc
Ơi con chim chiền chiện
Hót chi mà vang trời
Từng giọt long lanh rơi
Tôi đưa tay tôi hứng'
Thanh Hải đã không miêu tả chi tiết mùa xuân xứ Huế, ông chỉ sử dụng vài nét chấm phá để tạo ra bức tranh mùa xuân. Đó là một bông hoa nhỏ 'tím biếc' nở giữa 'dòng sông xanh', đó là tiếng chim 'chiền chiện' đang hót vang trời. Tất cả đều gợi lên hình ảnh một mùa xuân tươi vui, rộn rã.
Ở dòng thơ đầu tiên, nhà thơ đã chọn từ 'mọc' đặt lên đầu câu thơ để nhấn mạnh sự đột ngột, bất ngờ của mùa xuân. Đóa hoa 'tím biếc' có thể là một đóa lục bình trôi nhẹ trên sông Hương xanh, biểu tượng của xứ Huế? Và những chú chim 'chiền chiện' - tiên báo của mùa xuân đang hót vang mừng mùa xuân. Từ 'ơi' đặt ngay đầu câu thơ như tiếng gọi tha thiết với những chú chim đang hót. Tiếng hót ấy khiến nhà thơ bồi hồi, xúc động và trách cứ trong niềm thương mến:
'Hót chi mà vang trời'
Lời trách cứ ấy nghe thật đậm phong vị của xứ Huế. Tiếng chim trên cao gọi mùa xuân như đang cô đặc lại, lắng xuống, tạo thành những giọt mật của mùa xuân, của thiên nhiên đất trời đang rơi xuống đất. Hay phải chăng đó là những giọt mưa xuân đang phấp phới bay trong không gian ngập sắc xuân? Nhưng dù đó là gì thì cũng khiến nhà thơ Thanh Hải vô cùng xúc động, bồi hồi mà đưa bàn tay 'hứng' lấy từng 'giọt long lanh' đó. Động tác 'hứng' của nhà thơ thật nhẹ nhàng, uyển chuyển bởi nó chứa đựng sự nâng niu, trân trọng mà ông dành cho mùa xuân. Ở đây, Thanh Hải đã sử dụng nghệ thuật ẩn dụ chuyển đổi cảm giác, ông đã biến mùa xuân trở thành một thực thể hữu hình để cầm, nắm, chạm, nếm thử một cách thích thú.
Bức tranh thiên nhiên được nhà thơ dựng lên trong tình yêu tha thiết với thiên nhiên, muốn tận hưởng mùa xuân từ những giây phút đầu tiên. Mùa xuân trên quê hương xứ Huế của ông là những hình ảnh thiên nhiên gần gũi nhất, thân thương nhất, giản dị nhất.
Còn đối với nhà thơ Hữu Thỉnh, ông lại chọn viết về mùa thu. Bức tranh chớm thu của quê hương vùng đồng bằng Bắc Bộ hiện lên với những hình ảnh thật giản dị, mộc mạc, thân thương:
'Bỗng nhận ra hương ổi
Phả vào trong gió se
Sương chùng chình qua ngõ
Hình như thu đã về'
Mùa thu đối với Hữu Thỉnh được gợi mở bằng những dấu hiệu thật quen thuộc: đó là hương ổi chín đang lan toả trong làn 'gió se' lành lạnh, là màn sương mù bao phủ khắp xóm thôn. Ổi vốn là thức quả quen thuộc của người dân Việt Nam, nó xuất hiện để báo hiệu cho mùa thu của thiên nhiên, đất trời. Và 'hương ổi' là thứ đã đánh thức những giác quan tinh tế nhất của nhà thơ, để ông nhận ra sự xuất hiện đột ngột của mùa thu:
'Bỗng nhận ra hương ổi
Phả vào trong gió se'
Từ 'bỗng' được nhà thơ đặt ở đầu câu thơ cho thấy cảm giác đột ngột, bất ngờ, ngỡ ngàng của nhà thơ khi ông chợt nhận ra mùi thơm của 'hương ổi' đang lan tỏa trong không khí. Đó là dấu hiệu của mùa thu, những dấu hiệu sớm nhất, quen thuộc nhất, thêm vào đó là làn gió se lạnh khô đang bao trùm lấy không gian.
Một dấu hiệu khác báo hiệu mùa thu về đó là màn sương mù đang 'chùng chình' đi qua ngõ xóm. Động từ 'chùng chình' diễn tả sự chậm rãi một cách cố ý. Nhà thơ đã nhân hóa màn sương khiến nó như có linh hồn. Nó đang chậm chạp đi qua từng ngõ nhỏ, báo hiệu sự chớm thu của đất trời. Và cũng chính lúc này, nhà thơ mới giật mình, thảng thốt mà nhận ra rằng:
'Hình như thu đã về'.
Hữu Thỉnh đã tinh tế nắm bắt những tín hiệu chớm thu của đất trời đồng thời ông cũng thấy những chuyển biến của thiên nhiên khi bước vào thu:
'Sông được lúc dềnh dàng
Chim bắt đầu vội vã
Có đám mây mùa hạ
Vắt nửa mình sang thu'
Mùa thu, thiên nhiên lại mang một vẻ đẹp thật khác biệt. Nếu như dòng sông mùa hạ cuồn cuộn chảy những nước thì giờ đây nó lại dịu lại, 'dềnh dàng', chậm chạp, thong thả chảy trong êm đềm. Những chú chim nhỏ mùa hạ đã ca hót suốt mùa thì nay lại 'vội vã' chuẩn bị để đi tránh rét. Hữu Thỉnh đã sử dụng biện pháp đối lập cùng hai từ láy tượng hình 'dềnh dàng', 'vội vã' để diễn tả sự đối lập của vạn vật khi màu thu sang.
Nhưng đặc biệt nhất trong bức tranh thiên nhiên này phải kể tới hình ảnh 'đám mây mùa hạ'. Đám mây ấy chẳng còn mang hơi nóng của mùa hạ nhưng cũng chưa hoàn toàn có được sự thanh thoát, nhẹ nhàng của mùa thu. Đám mây mùa hạ ấy hình như còn tiếc nuối điều gì với mùa hạ mà mới chỉ 'vắt nửa mình sang thu'. Đây là hình ảnh miêu tả liên tưởng nhân hoá rất độc đáo trong các tác phẩm thi ca viết về thiên nhiên của Việt Nam!
Mùa thu đã sang thế nhưng đất trời vẫn còn hơi nắng. Những cơn mưa mùa hè bất chợ cũng đã dần vơi đi. Cả những tiếng sấm cũng đã dịu bớt. Tất cả đều báo hiệu một mùa thu đã sang:
'Vẫn còn bao nhiêu nắng
Đã vơi dần cơn mưa
Sấm cũng bớt bất ngờ
Trên hàng cây đứng tuổi'
Hai bài thơ dù viết trong hoàn cảnh khác nhau nhưng đều miêu tả thiên nhiên và tình yêu với đất nước, niềm cảm hứng với cảnh sắc quê hương. Thanh Hải vẽ nên một mùa xuân phồn thịnh, rộn rã của con người trong quá trình xây dựng đất nước, trong khi Hữu Thỉnh lại đem đến hình ảnh một mùa thu yên bình, dân dã, quen thuộc. Cả hai tác phẩm đều khắc họa vẻ đẹp thiên nhiên quê hương đầy sức sống, khó quên!
Hai bài thơ Sang thu và Mùa xuân nho nhỏ là hai bức tranh thiên nhiên đầy cảm xúc của hai nhà thơ tài năng Hữu Thỉnh và Thanh Hải. Hai tác phẩm này đã góp phần làm phong phú thêm cho bộ sưu tập về thiên nhiên của văn học Việt Nam.
Cảm nhận về hình ảnh thiên nhiên trong Mùa xuân nho nhỏ và Sang thu - Mẫu 2
Từ văn học trung đại đến văn học hiện đại, từ thơ cổ đến thơ mới, vẻ đẹp của thiên nhiên trong bốn mùa của quê hương luôn được tôn vinh trong các tác phẩm của những tác giả. Hình ảnh quê hương hiện ra trong thơ với sự thân mật, gần gũi, đáng yêu và quen thuộc, gợi lên cảm xúc đẹp đẽ của con người…
Quê hương của chúng ta mang vẻ đẹp dân dã, bình dị của cuộc sống. Là nơi cao cả và thiêng liêng, quê hương cũng đồng thời thân thuộc và bình dị, như trong bài thơ “Mùa xuân nho nhỏ“ của Thanh Hải hay “Sang thu” của Hữu Thỉnh.
Viết về quê hương, đất nước, mỗi nhà thơ lại có cảm nhận riêng. Trái ngược với hình ảnh đất nước trong bài “Mùa xuân nho nhỏ” của Thanh Hải, “Sang thu” của Hữu Thỉnh mang đến bức tranh về giao mùa cuối hạ chuyển sang thu… Mỗi hình ảnh đều đa dạng và thú vị.
Thanh Hải sáng tác “Mùa xuân nho nhỏ” sau chiến tranh, khi sức khỏe không tốt, nhưng tình yêu với quê hương vẫn hiện hữu trong lòng. Quê hương, đất nước hiện lên qua vẻ đẹp mùa xuân - thiên nhiên Huế tươi trẻ, trong lành, tràn đầy sức sống. Mùa xuân của thiên nhiên cũng là mùa xuân của đất nước:
“Mọc giữa dòng sông xanh
Một bông hoa tím biếc
Ơi con chim chiền chiện
Hót chi mà vang trời
Từng giọt long lanh rơi
Tôi đưa tay tôi hứng”
Thanh Hải tái hiện thiên nhiên hòa quyện với đất trời. Sau những ngày đông lạnh, mùa xuân mang đến ánh sáng, sức ấm. Mùa xuân báo hiệu với dòng sông xanh, bông hoa tím và tiếng chim chiền chiện. Mùa xuân đẹp như tranh, với màu xanh cây cỏ, dòng sông, màu tím của hoa và màu của mây trời:
Mọc giữa dòng sông xanh
Một bông hoa tím biếc
Ơi con chim chiền chiện
Hót chi mà vang trời
Cảnh thiên nhiên đó không chỉ đẹp mà còn sống động. Từ “mọc” ở đầu câu thơ như một điểm nhấn, một phát hiện đầy cảm xúc của nhà thơ. Hai câu đầu vẽ nên không gian mùa xuân rộng mở tươi tắn với dòng sông xanh hiền hoà. Màu xanh ấy phản ánh màu của bầu trời, cây cỏ hai bên bờ, màu xanh quen thuộc ở các con sông miền Trung. Trên nền xanh của sông là hình ảnh “một bông hoa tím biếc”, thân thuộc của cánh lục bình hay hoa súng mà ta thường thấy ở làng quê:
“Con sông nhỏ tuổi thơ ta tắm
Vẫn còn đây nước chẳng đổi dòng
Hoa lục bình tím cả bờ sông…”
(Lê Anh Xuân)
Màu tím biếc không giống với tím Huế thân thương, màu của những cô gái với sông Hương núi Ngự. Màu xanh của nước hòa quyện với màu tím biếc tạo nên một nét chấm phá nhẹ nhàng. Bức tranh xuân còn được thêm âm thanh rộn ràng của con chim chiền chiện hót vang trời. Tiếng hót, đường nét uốn lượn của sông, màu tím biếc của bông hoa tạo nên một bức tranh mùa xuân đầy sức sống trên quê hương tác giả.
Trước vẻ đẹp ấy, nhà thơ ngất ngây không ngừng dòng cảm xúc. Những từ thán phục như “Ơi”, “Hót chi” là tiếng lòng nao nức của nhà thơ khi khám phá vẻ đẹp của quê hương.
“Từng giọt long lanh rơi
Tôi đưa tay tôi hứng”
Cụm từ “giọt long lanh” kích thích sự tưởng tượng và sáng tạo. Có thể là giọt sương trong buổi sớm mùa xuân, giọt nắng chiếu sáng, hoặc giọt mưa xuân rơi… Trong bài thơ, “giọt long lanh” cũng có thể là giọt âm thanh của con chim hót vang trời… Hình ảnh “tôi đưa tay tôi hứng” thể hiện sự yêu thương, trân trọng của nhà thơ với vẻ đẹp của đất trời. Sự chuyển đổi cảm xúc được diễn đạt một cách tinh tế, khiến cho hai câu thơ trở nên sống động, hấp dẫn. Nhà thơ thể hiện tình yêu thương, sự ngưỡng mộ trước vẻ đẹp của thiên nhiên, của đất trời vào mùa xuân. Điều đó cho thấy sự tinh tế, phong phú của cảm xúc và ý thức văn học của tác giả.
Chuyển từ mùa xuân của Thanh Hải sang bài thơ “Sang thu” của Hữu Thỉnh, chúng ta được trải nghiệm cảm giác của tác giả với thiên nhiên. Hữu Thỉnh miêu tả tình yêu đất nước qua từng cung bậc. Bức tranh mùa thu của Hữu Thỉnh cho ta những trải nghiệm sâu sắc, tinh tế về cảnh thiên nhiên. Qua bài thơ, ta được chiêm ngưỡng những khoảnh khắc giao mùa đặc biệt mà thường không để ý. Đó là lúc tâm hồn ta cảm thấy xúc động và ngây ngất. Tác giả phác họa bức tranh về đất nước qua những khoảnh khắc giao thừa cuối hạ sang thu tinh tế và sâu sắc. Bài thơ bắt đầu từ một khu vườn ngoại ô của vùng đồng bằng Bắc Bộ:
Bỗng nhận ra hương ổi
Phả vào trong gió se,
Không phải là sắc “mơ phai” hay hình ảnh “con nai vàng ngơ ngác” mà là hương ổi thân quen nơi vườn của mẹ đã đánh thức những giác quan tinh tế nhất của nhà thơ. Mùi hương đơn giản, mộc mạc, đồng quê, rất quen thuộc của quê hương. Câu thơ mang hương vị ấm áp của chớm thu ở một vùng quê nhỏ. Việc nhận ra mùa thu từ “hương ổi” thay vì các loại hương khác là vì sao? Mùi hương quê nhà mộc mạc “phả” trong gió thoang thoảng trong không gian. Mọi thứ đều đến với tác giả nhẹ nhàng, đột ngột, mà vẫn rất quen thuộc, đón thu về với quê hương, với lòng người mà không cần báo trước. Cảm giác bất ngờ đến với nhà thơ: “bỗng nhận ra” - một điều bất ngờ đã chờ đợi từ lâu. Câu thơ không chỉ mô tả mà còn kích thích tưởng tượng đến màu vàng, hương thơm, vị giòn, ngọt, chua chua của trái ổi quê. Câu thơ ngắn nhưng đầy đủ cả gió lẫn hương. Hương là hương ổi, gió là gió se. Đó là những nét đặc trưng của mùa thu vùng đồi trung du miền Bắc. Như vậy, tình cảm quê hương của Hữu Thỉnh rõ ràng đã được thể hiện rất sâu sắc. Việc nhận ra mùi hương ổi giống như một sự khám phá, nhưng ở đây là khám phá ra một hương vị quen thuộc mà bấy lâu nay con người đã bỏ qua. Chính vì việc phát hiện những điều gần gũi xung quanh mà con người mới cảm thấy ngạc nhiên, hơi bối rối.
Và không chỉ thế, cả sương thu cũng mang đầy tâm trạng, thong thả, chùng chình trải dài trên đường làng:
Sương chùng chình qua ngõ
Thấy như đã về thu.
Hình ảnh đầy ấn tượng. Sương như một thực thể hữu hình, vận động chậm rãi. Sương thu như được nhân hoá, từ “chùng chình” diễn tả bước đi chầm chậm của mùa thu. Từ này còn gợi tâm trạng. Sương dềnh dàng hay lòng người tư lự, tác giả chăng cũng “chùng chình”? Nếu ở câu đầu nhà thơ “bỗng nhận ra” thu về khá bất ngờ và đột ngột, sau khi cảm nhận sương thu, gió thu, thi sĩ vẫn ngỡ ngàng thốt lên: Thấy như đã về thu? Tâm hồn thi sĩ nắm bắt những biến chuyển nhẹ nhàng, mong manh của tạo vật trong phút giao mùa, cũng êm đềm như bước đi nhỏ nhẹ của mùa thu.
Không gian nghệ thuật của bức tranh thu mở rộng, bỡ ngỡ ban đầu tan biến, nhường chỗ cho những rung cảm mãnh liệt trước không gian thu vẻ vang:
Sông dềnh dàng
Chim bắt đầu vội vã
Sông nước lên đỉnh, nhẹ nhàng trôi như đang chậm lại cố ý, những đàn chim vội vã bay về phương Nam… “Dềnh dàng” của dòng sông là phút hiếm hoi sau những thăng trầm của cuộc sống, rồi lại ồ ạt xối xả dưới những cơn mưa rào mùa hạ. Từ “được lúc” diễn tả cái hiếm hoi thưa thớt. Đã lâu lắm rồi con sông mới có dịp nghỉ ngơi thanh thản như vậy. Nhưng cơn gió heo may lạnh lẽo đầu mùa tràn về khiến đàn chim phải bắt đầu vội vã bay về phương Nam tránh rét. Phép đối và nghệ thuật tương phản giữa hai câu thơ (dềnh dàng đối lập với vội vã) đã được tác giả gửi gắm vào đó một triết lý: cuộc đời không có giây phút nào phẳng lặng êm đềm, sự sống vẫn chuyển không ngừng, chính vì thế con người phải biết cách chuẩn bị đầy đủ để ứng phó và theo kịp mạch chảy của dòng đời.
Không gian đất trời tiếp tục mở rộng thêm một tầng mới. Không gian thu thư thái, hữu tình và chứa chan thi vị, đặc biệt là hình ảnh:
Có đám mây mùa hạ
Vắt nửa mình sang thu.
Câu thơ giúp ta hình dung về đám mây mỏng nhẹ, trắng xốp, kéo dài như tấm khăn voan duyên dáng của người thiếu nữ thảnh thơi, nhẹ nhàng “vắt nửa mình sang thu”. Đám mây mùa hạ là hình ảnh độc đáo, thể hiện trí liên tưởng phong phú của tác giả. Dường như đám mây mùa thu còn vương nắng hạ nên nhà thơ mới có liên tưởng sáng tạo đến thế. Câu thơ có tính tạo hình không gian nhưng lại có ý nghĩa diễn tả sự vận động của thời gian: thu bắt đầu sang, hạ chưa qua hết, mùa thu vừa chớm, rất nhẹ, rất dịu, rất êm, mơ hồ như cả đất trời đang rùng mình thay áo mới. Trong khoảnh khắc giao mùa, đám mây trên bầu trời cao đã trở thành ranh giới giữa mùa hạ với mùa thu. Từ “vắt” mang hiệu quả diễn đạt rất lớn. Nó làm cho đám mây kia có khả năng nối liền giữa hai mùa thiên nhiên hay nói đúng hơn là mùa hạ và mùa thu đang chênh vênh giữa một đám mây. Từ cái giây phút giao mùa vô hình trừu tượng, tác giả đã biến thành sự vật hữu hình cụ thể để người đọc cảm nhận rõ hơn về tín hiệu của mùa thu.
Hình ảnh thơ đẹp, ngôn từ tinh tế, giọng thơ êm đềm và những rung động man mác, bâng khuâng của tác giả trong buổi giao mùa đã tạo nên một dấu ấn không dễ phai mờ trong lòng bao độc giả. Có lẽ vì vậy mà sau khi đọc “Sang thu” của Hữu Thỉnh ta càng thấy yêu hơn mùa thu thiết tha, nồng hậu của quê nhà.
Mỗi nhà thơ có cảm nhận riêng về cảnh sắc thiên nhiên, những chiêm nghiệm, những suy nghĩ về cuộc đời, về con người, tình người trong cuộc sống nhưng thật cảm động và kính phục biết bao khi đọc những vần thơ đầy xúc động với hình ảnh thiên nhiên gợi lên thật đẹp. Hai bài thơ để lại trong lòng bao thế hệ bạn đọc những cảm xúc sâu lắng, khó phai mờ và vẫn sẽ tiếp tục trường tồn cùng với những bước đi lên của đất nước, gợi nhắc cho những thế hệ trẻ tình yêu quê hương đất nước, niềm khát khao được sống, được cống hiến cho đất nước, cho dù đó là những cống hiến giản dị, nhỏ bé nhưng đầy ý nghĩa.
Cảm nhận hình ảnh thiên nhiên trong Mùa xuân nho nhỏ và Sang thu - Mẫu 3
Thanh Hải và Hữu Thỉnh đều thuộc thế hệ những nhà thơ trưởng thành từ trong kháng chiến chống Mỹ. Những vần thơ của Thanh Hải chân thật, bình dị, đậm hậu trong khi sáng tác của Hữu Thỉnh tinh tế, triết lí. Mùa xuân nho nhỏ (Thanh Hải) và Sang thu (Hữu Thỉnh) là hai bài thơ tiêu biểu cho phong cách của hai ông. Hai đoạn trích thuộc hai tác phẩm trên tuy khắc họa những bức tranh thiên nhiên khác nhau nhưng đều cùng chung nguồn cảm hứng và tình yêu dào dạt trước thiên nhiên quê hương.
Mùa xuân nho nhỏ là bài thơ xuất sắc trong đời thơ Thanh Hải, người con xứ Huế. Những vần thơ trong trẻo viết trên giường bệnh những ngày cuối đời lại càng tha thiết và nồng thắm hơn với tình yêu đời của nhà thơ. Bài thơ ra đời giữa những ngày đông giá rét miền Bắc nhưng lại tràn trề hơi ấm và vẻ đẹp của mùa xuân. Điều đó bộc lộ rõ rệt trong khổ hai của bài thơ:
Mùa xuân người cầm súng
Lộc giắt đầy quanh lưng
Mùa xuân người ra đồng
Lộc trải dài nương mạ
Tất cả như hối hả
Tất cả như xôn xao
Sáu câu thơ trong khổ hai nói ra bức tranh mùa xuân sống động, phong phú với màu sắc, hình ảnh, nhịp điệu và không khí náo nức, rộn ràng. Huế mộng mơ đã từng xuất hiện thật ảm đạm trong những ngày tháng nô lệ trong thơ Tố Hữu:
Tôi nện gót trên đường phố Huế
Dửng dưng không một cảm tình chi
Không gian sặc sụa mùi ô uế
Như nước dòng Hương mãi cuốn đi.
Nhưng Huế hôm nay trong thơ Thanh Hải đã đổi thay, tươi đẹp và hối hả nhịp chiến đấu, nhịp sống của thời kì dựng xây đất nước sau chiến tranh. Trong bức tranh xuân có sự hài hòa cao độ giữa con người và thiên nhiên. Thanh Hải lựa chọn hai đối tượng để gắn với sức sống mùa xuân. Trước hết, đó là “Mùa xuân người cầm súng”, hình ảnh đẹp đẽ trong lòng nhân dân và cũng là hình tượng được yêu quý nhất trong những năm tháng chiến tranh khốc liệt của dân tộc. Mùa xuân thiên nhiên về trong màu lá ngụy trang của người lính “Lộc giắt đầy quanh lưng”. Đó là một hình dung đẹp, phấn chấn và đẩy hi vọng của nhà thơ dành cho những con người quả cảm luôn xả thân mình vì nước. Sự lựa chọn thứ hai là “Mùa xuân người ra đồng”, mùa xuân bừng lên trong đôi bàn tay cẩn cù lao động của những người nông dân hăng say sản xuất, xây dựng cuộc sống hòa bình. Những con người bình dị, thầm lặng ấy là những mũi tiên phong nơi tiền tuyến, nơi biên cương và trong lao động. Không cần những cái tên cụ thể, những bức tượng đài cụ thể, Thanh Hải viết về vô vàn những con người đẹp đẽ ngoài kia, họ chính là nhân dân và họ làm nên mùa xuân của đất nước trong quá trình giữ nước và dựng nước. Ở đây, tác giả sử dụng biện pháp điệp cấu trúc cú pháp, điệp từ “mùa xuân” (hai lần), “lộc” (hai lần) ở đầu mỗi câu thơ như khẳng định sắc xuân, hương xuân và lộc xuân đang lan tỏa, giăng mắc khắp muôn nơi, tràn ngập giữa cảnh vật và con người. Biểu tượng “lộc” ở đây vừa mang nghĩa thực, vừa mang nghĩa tượng trưng. Nó không chỉ là hình ảnh tả thực nhành non chồi biếc nảy nở khi xuân đến, mà còn là sức sống, là tuổi trẻ, là tuổi thanh xuân, là khí thế của cả nước. Nó khiến tâm hồn tươi mới, sôi nổi, hứng khởi! “Lộc” là thành quả hôm nay và cũng là hi vọng cho ngày mai tươi sáng. Khép lại khổ thơ, bằng những suy nghĩ rất thực tế của chính bản thân mình, nhà thơ khái quát:
Tất cả như hối hả
Tất cả như xôn xao
Điệp cấu trúc cú pháp, điệp từ, kết hợp với hai từ láy giàu sức gợi tả “hối hả”, “xôn xao” khiến hai cầu thơ tràn đầy sức mạnh và niềm cảm hứng. Ta cảm nhận sâu sắc không khí náo nức của đất trời khi xuân về. “Tất cả” mang ý nghĩa khái quát, bao trùm, đó có thể là cảnh sắc thiên nhiên quê hương, là tạo vật muôn loài, là “người cầm súng”, “người ra đông”, là nhà thơ, là tôi và bạn... là đất nước xinh đẹp mà hùng hào của chúng ta. Từ láy “hối hả” gợi nhịp điệu khẩn trương, mạnh mẽ, cuồng nhiệt, trong khi từ láy “xôn xao” gợi sự náo nức, vui vẻ, rộn ràng. Đó cũng là những biểu cảm phong phú của mùa xuân. Tất cả đểu rộn ràng đón mừng đất nước bước vào giai đoạn mới, thời đại mới, với công cuộc xây dựng xã hội chủ nghĩa, trong niềm hân hoan khi vừa giành lại lá cờ độc lập, tự do. Câu thơ như lời reo vui phấn khởi, tràn đầy tinh thần lạc quan của người con dù đang đấu tranh giành lấy sự sống trên giường bệnh nhưng vẫn một lòng say mê, nhiệt huyết và tin yêu vào tương lai của dân tộc. Có thể nói, mùa xuân mang đến tiếng gọi đầy xúc cảm cho con người. Những tiếng gọi sôi nổi của mùa xuân làm bừng dậy trong trái tim ta không khí sôi nổi của đất nước, thôi thúc mỗi cá nhân góp “mùa xuân nho nhỏ” đời mình để hòa với mùa xuân to lớn của đất nước.
Chia tay với bức tranh xuân rộn rã của Thanh Hải, đến với những vần thơ Hữu Thỉnh ta được đến với bức tranh thu dịu dàng, lắng đọng. Sau giây phút ngỡ ngàng và khe khẽ reo vui: “Hình như thu đã về”, cảm xúc của thi sĩ tiếp tục lan tỏa, mở ra trong cái nhìn xa hơn, rộng hơn:
Sông được lúc dềnh dàng
Chim bắt đầu vội vã
Có đám mây mùa hạ
Vắt nửa mình sang thu.
Bức tranh mùa thu được cảm nhận bởi sự thay đổi của đất trời theo bước chuyển từ hạ sang thu, nhẹ nhàng mà rõ rệt. Thiên nhiên sang thu được miêu tả từ những thứ vô hình như “hương ổi”, “gió sẽ” đến những hình ảnh cụ thể có đường nét: sông dềnh dàng, chim vội vã, đám mây vắt nửa mình; từ không gian nhỏ hẹp như con ngõ vươn ra một không gian vừa dài rộng, lại vừa xa vời. Và hơn cả, tác giả đã cảm nhận hương thu bằng cả tâm hồn rất mực tinh tế của mình. Bằng phép nhân hóa đặc sắc, nhà thơ thật tài hoa khi ghi lại linh hồn của cảnh vật, của dòng sông quê hương trong trạng thái chỉ giữa mùa thu “dềnh dàng”, lững lờ trôi mà không chảy xiết như sau những cơn mưa mùa hạ. Cái “dềnh dàng” của dòng sông không chỉ gợi ra vẻ êm dịu cho bức tranh thiên nhiên mùa thu, mà còn mang đầy tâm trạng của con người, cũng như chậm lại cùng nhịp sống đất trời để ngẫm ngợi suy tư về những trải nghiệm trong cuộc đời. Trái ngược với vẻ khoan thai của dòng sông trữ tình, là sự vội vàng của những cánh chim bắt đầu di trú về phương Nam tránh rét. Không có âm thanh, nhưng Hữu Thỉnh lại khéo vẽ ra nét động cho bức tranh tưởng đang tĩnh lặng chìm sâu vào suy tưởng. Dễ thấy, việc hai câu thơ đối nhau rất nhịp nhàng: sông dưới mặt đất - chim trên bầu trời, sông “dềnh dàng”, chậm rãi - chim “vội vã” nôn nao, đã miêu tả thật chân thực sự khác biệt của vạn vật trên cao và dưới thấp trong khoảnh khắc giao mùa. Bức tranh thu đang về có những nét dịu êm nhẹ nhàng, mà lại có cả những nét hối hả cuống quýt. Sự chuyển mình của dòng sông, của cánh chim phải chăng còn là sự chuyển mình của đất nước: hòa bình sau chiến tranh, rồi lại hối hả nhịp sống mới trong công cuộc dựng xây đất nước giàu mạnh. Có thể nói, lời thơ hẹp mà ý thơ bay cao không tận. Đó là chất thơ cuộc đời, chưng cất từ những suy ngẫm của con người từng trải, từng chiêm nghiệm qua biết bao sóng gió.
Cùng với cảnh vật, cả bầu trời thu cũng như đang “thay áo mới”. Điều này được cụ thể hóa qua hình ảnh đám mây mùa hạ “vắt nửa mình sang thu”. Trong thơ ca Việt Nam, có không ít vần thơ nói về đám mây trên bầu trời thu như “Tầng mây lơ lửng trời xanh ngắt” (Thu điếu) hay “Lớp lớp mây cao đùn núi bạc” (Tràng giang), nhưng đám mây sang thu trong thơ Hữu Thỉnh lại có nét riêng. Nó là một đám mây còn vương chút nắng hạ, đang uốn mình “vắt” sang thu vừa như còn nuối tiếc mùa hạ, vừa như ngóng chờ điều gì mới lạ khi thu sang. Động từ “vắt” gợi ra thời điểm giao mùa, làm đám mây như kéo dài ra, nhẹ trôi như tấm lụa mềm treo lơ lửng giữa bầu trời cao rộng. Đám mây vắt lên ranh giới mỏng manh và ngày càng bé dần, bé dần, rồi đến một lúc nào đó không còn nữa, để cả đám mây mùa hạ hoàn toàn nhuốm màu sắc thu. Đây quả là một sự liên tưởng thú vị, một hình ảnh đầy chất thơ. Có thể nói, khổ thơ là bức tranh hữu tình thi vị, là tiếng nói yêu thiên nhiên tha thiết của thi nhân.
Hai khổ thơ là hai bức tranh thiên nhiên đầy cảm hứng. Cùng với một tâm hồn nhạy cảm, một trái tim tha thiết yêu thiên nhiên trải ra trên từng nét chữ, Thanh Hải và Hữu Thỉnh đã tặng cho người đọc cái rộn ràng của sắc xuân cùng với một chút lắng đọng thật êm khi thu đến. Nếu Thanh Hải cho ta cảm nhận cái rộn ràng, say mê cống hiến cùng niềm tin yêu Tổ quốc, thì Hữu Thỉnh lại mang đến cái dân dã, mộc mạc, đẩy rung cảm và thân quen. Dẫu hai ngòi bút nghệ thuật khắc họa hai đường nét đặc sắc khác nhau nhưng đâu đó ta vẫn thấy ngân vang lên yêu thiên nhiên nồng nàn say đắm, tầm hồn thi sĩ luôn lạc quan và say sưa trong niềm cảm hứng bất tận với cảnh sắc quê hương. Điều đó phần nào đã được gợi tả thật thành công qua hai khổ thơ hấp dẫn ở trên.
Cảm nhận hình ảnh thiên nhiên trong Mùa xuân nho nhỏ và Sang thu - Mẫu 4
Bức tranh thiên nhiên từ xưa đến nay luôn là nguồn đề tài, cảm hứng của biết bao nhà thơ. Thanh Hải và Hữu Thỉnh cũng góp vào thơ Việt Nam hai tác phẩm đặc sắc làm phong phú cho nền văn học nước nhà là bài Mùa xuân nho nhỏ (Thanh Hải ) và Sang thu (Hữu Thỉnh ). Bài thơ của Thanh Hải thể hiện lòng yêu mùa xuân thiên nhiên tha thiết, còn Hữu Thỉnh thì thể hiện sự cảm nhận tinh tế về những chuyển biến lúc đất trời từ cuối hạ sang đầu thu.
Mở đầu bài thơ “Mùa xuân nho nhỏ” là hình ảnh của mùa xuân thiên nhiên tươi đẹp:
“Mọc giữa dòng sông xanh
Một bông hoa tím biếc
Ơi con chim chiền chiện
Hót chi mà vang trời
Từng giọt long lanh rơi
Tôi đưa tay tôi hứng”
Bức tranh mùa xuân được nhà thơ chọn lọc qua hai hình ảnh “dòng sông xanh “ và “bông hoa tím biếc. Hai màu ‘xanh” và “tím biếc” thật hài hòa, dịu mát và tràn đầy sức sống. Màu tím phải chăng đó là biểu tượng của xứ Huế mộng mơ quê hương của nhà thơ? Động từ “mọc” đặt ở đầu câu tạo nên phép đảo ngữ nhấn mạnh sức sống bền bỉ của bông hoa giữa bốn bề sông nước. Bức tranh mùa xuân còn có cả âm thanh rộn ràng của tiếng chim chiền chiện.
Tiếng hót trong vắt của chú chim chiền chiện làm xao động cả không gian đem đến cho mùa xuân niềm vui rạo rực. Từ cảm “Ơi”, “chi mà” nghe sao thân thương trìu mến, nhà thơ như ngỡ ngàng thích thú và nhà thơ như trách yêu tiếng chim chiền chiện vì đã làm cho tâm hồn nhà thơ rạo rực trước hình ảnh mùa xuân tươi đẹp.
Tiếng chim đang vang xa bỗng lại gần:
“Từng giọt long lanh rơi
Tôi đưa tay tôi hứng”
Hai câu thơ sử dụng nghệ thuật chuyển đổi cảm giác thật tài tình: Từ thính giác sang thị giác rồi sang xúc giác. Tiếng chim như kết tinh thành những giọt sương long lanh sắc màu rơi xuống và nhà thơ đón nhận bằng tất cả các giác quan. Sự chuyển đổi ấy đã thể hiện cảm xúc nhà thơ trước cảnh đất trời thiên nhiên xứ Huế vào mùa xuân.
“Mùa xuân người cầm súng
Lộc giắt đầy trên lưng
Mùa xuân người ra đồng
Lộc trải dài nương mạ
Tất cả như hối hả
Tất cả như xôn xao”
Ở khổ hai, hình ảnh mùa xuân đất nước được nhà thơ thể hiện qua hai hình ảnh “người cầm súng”, “người ra đồng”. Tượng trưng cho người với nhiệm vụ chiến đấu bảo vệ đất nước và người nông dân với nhiệm vụ sản xuất xây dựng quê hương. Đó là hai nhiệm vụ quan trọng hàng đầu nước ta lúc bấy giờ. “Lộc” là chồi non, cành lá non, “lộc” còn có ý nghĩa tượng trưng cho sự may mắn và tốt đẹp cho niềm tin và chiến thắng. “Lộc” đi theo chân người lính đi đến mọi miền đem lại sự bình yên cho mọi nhà, còn “lộc” của người nông dân là nương mạ xanh rờn hứa hẹn một mùa bội thu đem lại cuộc sống ấm no cho mọi người.
Bốn câu thơ với kết cấu đối xứng và điệp ngữ “tất cả như” đã thể hiện được mọi người cùng chung ý nghĩ và hành động để bảo vệ xây dựng quê hương đất nước. Từ láy “hối hả”, “xôn xao” đã thể hiện được không khí khẩn trương hối hả nhộn nhịp vui tươi. Từ mùa xuân thiên nhiên đất nước nhà thơ suy nghĩ về lịch sử dân tộc đầy tự hào:
“Đất nước bốn ngàn năm
Vất vả và gian lao
Đất nước như vì sao
Cứ đi lên phía trước.”
Cụm từ “bốn ngàn năm” mộc mạc, giản dị nhưng có sức khái quát được bề dày lịch sử của dân tộc. Không tự hào làm sao được khi đất nước có bốn ngàn năm văn hiến. Niềm tự hào ấy ta cũng đã bắt gặp được trong bài “Bình ngô đại cáo” của Nguyễn Trãi:
“Như nước Đại Việt ta từ trước
Vốn xưng nền văn hiến đã lâu”
Từ “vất vả gian lao” thật giàu sức gợi tả tái hiện được hành trình đầy gian khổ, thăng trầm của đất nước. Trong 4000 năm ấy, dân tộc ta không lúc nào ngừng nghỉ tiếng súng gươm để đương đầu với giặc ngoại xâm và chống chọi với thiên nhiên. Hình ảnh so sánh đất nước như “vì sao” thật gợi cảm. “Vì sao” ấy có phải chăng là biểu tượng của lá cờ tổ quốc? Luôn tung bay tự hào trước bạn bè thế giới. Cụm từ “cứ đi lên” như khẳng định không có thể ngăn cản được nước Việt Nam sẽ ngày càng phát triển.
Khát vọng được hòa nhập, dâng hiến cho đời của nhà thơ:
“Ta làm con chim hót
Ta làm một cành hoa
Ta nhập vào hòa ca
Một nốt trầm xao xuyến.”
Điệp ngữ “ta làm” có tác dụng nhấn mạnh tấm lòng chân thành tự nguyện của nhà thơ. Ước nguyện của Thanh Hải thật nhỏ bé đơn sơ nhưng lại vô cùng có ích cho đời. Nhà thơ ước nguyện được làm con chim cành hoa để cùng với muôn ngàn tiếng chim, muôn ngàn sắc hoa để góp vào mùa xuân của đất nước làm đẹp thêm cho cuộc đời. Và thật khiêm nhường khi nhà thơ chỉ ước nguyện được làm một nốt trầm trong bản hòa ca chứ không phải là một nốt cao vút nổi trội. Nhà thơ xưng “tôi” ở khổ thơ đầu nhưng đến khổ thơ này nhà thơ xưng “ta”, “ta” ở đây vừa là nhà thơ vừa là để chỉ mọi người. Khát vọng hòa nhập của Thanh Hải thật cao đẹp và cảm động biết bao.
Khổ thơ tiếp theo nhà thơ vẫn thể hiện rõ khát vọng dâng hiến cho đời:
“Một mùa xuân nho nhỏ
Lặng lẽ dâng cho đời
Dù là tuổi hai mươi
Dù là khi tóc bạc.”
Hình ảnh ẩn dụ “mùa xuân nho nhỏ” thật độc đáo và gợi cảm. Nhà thơ như muốn nhắn nhủ với chúng ta rằng cuộc đời của mỗi người chúng ta là hữu hạn, chỉ là mùa xuân nho nhỏ phải biết góp vào mùa xuân lớn của đất nước. Và thái độ của nhà thơ thật đáng trân trọng khi chỉ “lặng lẽ dâng cho đời”. Cụm từ “ lặng lẽ’ thể hiện thái độ cống hiến âm thầm, không phải phô trương, không cần mọi người biết đến. Đó là sự cho đi mà không cần đền đáp.
Và cuối cùng là lời ca ngợi quê hương xứ Huế:
“Mùa xuân – ta xin hát
Câu Nam ai, Nam Bình
Nước non ngàn dặm mình
Nước non ngàn dặm tình
Nhịp phách tiền đất Huế.”
Ta có cảm giác như nhà thơ vừa làm thơ vừa hát ngân nga những câu thơ của mình. Đó là những lời thủ thỉ tâm tình nồng ấm nghĩa tình quê hương. Kết thúc bài thơ là những âm thanh rộn ràng của “nhịp phách tiền” đất Huế ta có cảm giác nhà thơ đang mỉm cười trước lúc ra. Còn Hữu Thỉnh Mở đầu bài thơ đã khắc họa bức tranh thiên nhiên lúc giao mùa thật sinh động và tinh tế.
“Bỗng phát hiện ra mùi hương ổi
Thoáng thoảng trong cơn gió se lạnh
Sương khói lay động qua lối
Có lẽ mùa thu đã về.”
“Bỗng phát hiện ra mùi hương ổi” thể hiện trạng thái bất ngờ, đột ngột. Nhà thơ nhận ra tín hiệu mùa thu chính là “mùi hương ổi”, một hương thơm tự nhiên của làng quê, không phải là hình ảnh truyền thống về “lá vàng, trời xanh” mà thơ ca thường đề cập:
“Không nghe tiếng mùa thu kia
Mùa thu rơi lá đào xào xạc
Con nai vàng đứng ngơ ngác
Đạp lên những chiếc lá vàng khô”
(Tiếng thu – Lưu Trọng Lư)
Thêm hình ảnh “mùi hương ổi” vào bài thơ là sáng tạo mới mẻ của Hữu Thỉnh. Động từ “phả” rất tinh tế, diễn tả mùi hương ổi lan tỏa trong không gian như sánh lại. Mùi hương ổi như “phả” vào đất trời, “phả” vào cả hồn người. Nhà thơ không chỉ cảm nhận tín hiệu mùa thu qua khứu giác mà còn bằng cả xúc giác “gió se” cảm nhận được cái không khí lạnh của “gió se”.
Mùa Thu ở miền Bắc đã bắt đầu chớm se lạnh, điều đặc trưng của khí trời vào mùa Thu. Nhà thơ cũng nhận biết được tín hiệu của mùa Thu qua thị giác: “Sương chùng chình qua ngõ”. Sương Thu như được nhân hóa “chùng chình qua ngõ”, giống như một cô gái Thu mặc áo trắng đi chậm chạp qua “ngõ”. Từ “ngõ” không chỉ là cửa ngõ của con đường làng, mà còn là cửa ngõ của thời gian từ Hạ sang Thu. Tất cả điều đó khiến nhà thơ thốt lên: “Hình như Thu đã về”. Từ “hình như” thể hiện tâm trạng bâng khuâng của nhà thơ.
Từ đó có thể hiểu nhà thơ muốn ám chỉ rằng, ông vừa thầm hỏi và vừa thể hiện sự ngạc nhiên khi thấy sự chuyển giao này đến đột ngột như vậy. Qua khổ thơ đầu, ta có thể cảm nhận được tâm trạng và cảm xúc của nhà thơ về thời điểm giao mùa. Hữu Thỉnh đã cảm nhận tín hiệu của mùa thu bằng tất cả giác quan nhạy bén của một nghệ sĩ yêu thiên nhiên tha thiết.
Hình ảnh về mùa thu được mở rộng theo không gian:
“Sông dường như dịu dàng
Chim bắt đầu vội vàng
Có những đám mây mùa hạ
Đưa nửa mình sang thu”
Sự thay đổi của thời điểm giao mùa được miêu tả cụ thể thông qua sự biến đổi của mọi vật. Hình ảnh về dòng sông được nhân hóa “sông dường như dịu dàng” thực sự sống động. Khi chuyển sang mùa thu, dòng sông trở nên nhẹ nhàng, thong thả hơn sau những ngày hè mạnh mẽ, sôi động. Do đó, mùa thu có lẽ là thời điểm dòng sông được nghỉ ngơi, và giờ đây, dòng sông trở nên êm đềm và thơ mộng.
Ngược lại với dòng sông hiền hòa, những chú chim bỗng trở nên vội vã. Chúng vội vã chuẩn bị cho mùa đông rét buốt sắp tới, cảm nhận được tuyết trời lành lạnh của mùa thu. Hữu Thỉnh tinh tế khi nhận biết bầy chim chỉ mới “bắt đầu vội vã” chứ không phải đã vội vã. Bức tranh mùa thu trở nên độc đáo và đặc sắc qua hai câu kế:
“Có đám mây mùa hạ
Vắt nửa mình sang thu.”
Đám mây mùa hạ nhưng phần nửa đã chuyển sang mùa thu, hay nói cách khác, đám mây mùa thu vẫn còn gìn giữ nắng hạ chưa muốn chia tay với mùa hạ. Động từ “vắt” thật đặc biệt, tác giả không dùng từ “lơ lửng” hay “bồng bềnh” mà lại chọn từ “vắt” rất tinh tế. “Vắt” nguyên bản ngang bầu trời, chia rẽ hai mùa hạ-thu. Hình ảnh được nhà thơ miêu tả qua không gian, từ dưới lên trên, từ gần ra xa, tất cả hướng vào không gian bao la. Mùa thu đã đến, đến tất cả mọi nơi trong vạn vật và trong lòng nhà thơ.
Ở khổ thơ cuối là những cảm nhận và suy ngẫm của nhà thơ khi nhìn cảnh vật trong những ngày đầu thu:
“Vẫn còn bấy nhiêu nắng
Đã dần vơi cơn mưa
Sấm cũng ít bất ngờ
Trên hàng cây đứng tuổi”.
Ở khổ thơ này vẻ đẹp của mùa thu không còn được miêu tả trực tiếp như ở hai khổ thơ đầu mà được khẳng định bằng những suy ngẫm của nhà thơ. Những hiện tiện thiên nhiên như nắng, mưa, sấm chớp như mùa hạ nhưng khi sang mùa thu thì mức độ đã khác rồi. Nắng mưa khi sang thu khác hẳn với nắng mưa khi ở mùa hạ, nắng vẫn còn nhưng không còn là cái nắng gay gắt và chói chang của mùa hạ mà là cái nắng dịu đi và nhạt đi. Còn mưa cũng ít đi nhất là những trận mưa rào ào ạt, vì thế cũng không còn những tiếng sấm trên hàng cây đứng tuổi. Những cụm từ “vẫn còn”, “đã với dần”, “cũng bớt bất ngờ” gợi tả rất hay về hiện tượng sự vật lúc sang thu. Bài thơ khép lại với hình ảnh:
“Sấm cũng bớt bất ngờ
Trên hàng cây đứng tuổi”.
Hai câu thơ vừa tả thực hiện tượng thiên nhiên lúc sang thu còn mang tính ẩn dụ như “sấm” là những vang động bất thường của ngoại cảnh cuộc đời. “Hàng cây đứng tuổi”tượng trưng cho những con người từng trải. Cả câu muốn nói những con người từng trải luôn chín chắn và không chùn bước trước những phong ba bão tố cuộc đời. Đó là những con người luôn bình tĩnh trước những tác động bất thường của ngoại cảnh của cuộc sống đầy thử thách.Cùng với tư tưởng ấy nhà thơ Phan Chu Trinh cũng từng viết:
“Tháng ngày bao quản thân sành sỏi
Mưa nắng càng bền dạ sắt son.”
Khổ thơ cuối bài thơ không chỉ tả cảnh sang thu mà còn chất chứa những suy nghiệm của bài thơ về con người và cuộc đời.
Cả hai bài thơ được sáng tác vào hoàn cảnh giống nhau, bài thơ “Mùa xuân nho nhỏ” và bài “Sang thu” đều thuộc thế hệ những nhà thơ trưởng thành từ trong kháng chiến chống Mỹ. Những vần thơ của Thanh Hải chần thật, bình dị, đôn hậu trong khi sáng tác của Hữu Thỉnh tinh tế, triết lí. Mùa xuân nho nhỏ (Thanh Hải) và Sang thu (Hữu Thỉnh) là hai bài thơ tiêu biểu cho phong cách của hai ông.
Hai đoạn trích thuộc hai tác phẩm trên tuy khắc họa những bức tranh thiên nhiên khác nhau nhưng đểu cùng chung nguồn cảm hứng và tình yêu dào dạt trước thiên nhiên quê hương. Cả hai bài thơ nói chung đã góp vào văn học những tác phẩm đặc sắc làm phong phú cho nền văn học nước nhà, tuy vậy Thanh Hải và Hữu Thỉnh vẫn giữ riêng phong cách sáng tác của mỗi nhà thơ.
Hai bài thơ là hai bức tranh thiên nhiên đầy cảm hứng. Cùng với một tâm hồn nhạy cảm, một trái tim tha thiết yêu thiên nhiên trải ra trên từng nét chữ, Thanh Hải và Hữu Thỉnh đã tặng cho người đọc cái rộn ràng của sắc xuân cùng với một chút lắng đọng thật êm khi thu đến. Nếu Thanh Hải cho ta cảm nhận cái rộn ràng, say mê cống hiến cùng niềm tin yêu Tổ quốc, thì Hữu Thỉnh lại mang đến cái dân dã, mộc mạc, đẩy rung cảm và thân quen. Dẫu hai ngòi bút nghệ thuật khắc họa hai đường nét đặc sắc khác nhau nhưng đâu đó ta vẫn thấy ngân vang lên yêu thiên nhiên nồng nàn say đắm, tầm hồn thi sĩ luôn lạc quan và say sưa trong niềm cảm hứng bất tận với cảnh sắc quê hương. Điều đó phần nào đã được gợi tả thật thành công qua hai khổ thơ hấp dẫn ở trên.