Cảm nhận về khổ thơ 2 bài Nói với con được lựa chọn kỹ lưỡng, có 10 mẫu hay nhất, cùng với 4 dàn ý chi tiết và sơ đồ tư duy, giúp các em học sinh lớp 9 hiểu rõ hơn về tinh thần kết nối, lòng trung thành với quê hương của đồng bào.
Thông qua khổ thơ thứ hai Nói với con, tác giả đã sử dụng lời cha dạy con một cách tinh tế, tôn vinh những phẩm chất cao quý của cộng đồng, những giá trị truyền thống quý giá của quê hương cùng lời khuyên tri thức. Hãy cùng đọc bài viết dưới đây của Mytour để hiểu biết về môn Văn 9 ngày một sâu hơn.
Cảm nhận về đoạn thứ 2 trong bài thơ Nói với con của tác giả Y Phương
- Sơ đồ tư duy Cảm nhận khổ 2 bài Nói với con
- Dàn ý cảm nhận đoạn 2 bài Nói với con (4 mẫu)
- Cảm nhận khổ 2 Nói với con ngắn gọn
- Cảm nhận khổ 2 Nói với con hay nhất
- Cảm nhận khổ 2 bài thơ Nói với con (5 mẫu)
- Cảm nhận ý nghĩa đoạn 2 bài thơ Nói với con
- Phân tích khổ 2 bài Nói với con
- Phân tích khổ 2 bài thơ Nói với con
Sơ đồ tư duy về Cảm nhận khổ thứ 2 của bài thơ Nói với con
Dàn ý về việc cảm nhận đoạn 2 của bài thơ Nói với con
a. Bắt đầu:
Tổng quan về tác giả Y Phương, bài thơ Nói với con và hướng dẫn vào khổ thơ thứ hai
b. Nội dung chính:
* Khen ngợi về phẩm chất cao quý của “người đồng mình”
- Mặc dù sống trong khó khăn nhưng người đồng mình vẫn thể hiện sức mạnh, kiên trì và sự gắn bó với quê hương dù có phải đối mặt với khó khăn và nghèo đói:
- “Người đồng mình”: là cách gọi thân thiết, gần gũi chỉ những người cùng sống trong một khu vực, rộng hơn là người cùng một dân tộc, một quốc gia.
- “Cao” và “xa” là biểu hiện của những thách thức, khó khăn mà con người phải đối mặt.
- “Sống như sông, suối” mang ý nghĩa sống trung thành với quê hương, chấp nhận khó khăn và vượt qua chúng bằng niềm tin và nỗ lực của bản thân.
- Người đồng mình giản dị nhưng tràn đầy ý chí và lòng tin, nhỏ bé về hình thức nhưng không hề nhỏ bé về tâm hồn và khát vọng xây dựng quê hương đất nước.
- Biểu tượng “Thô sơ da thịt” tượng trưng cho phẩm chất mộc mạc, chân thành và bất khuất của người đồng mình, mặc dù bề ngoài có vẻ “nhỏ bé” nhưng bản chất không hề nhỏ nhoi.
- “Đục đá kê cao quê hương” là biểu hiện của ý chí xây dựng quê hương của người đồng mình.
* Ước muốn của người cha qua lời tâm sự với con
- Tiếng gọi “con ơi” sâu sắc, chân thành, truyền đạt với con ý nghĩa quan trọng nhất là lòng tự hào dân tộc và sự tự tin khi bước vào cuộc sống.
- “Nghe con” lời nhắn chứa đựng tình thương, sự hiểu biết và hy vọng của cha dành cho con.
* Nét độc đáo trong nghệ thuật
- Tiếng điệu thơ mộng, trìu mến: lời gọi tôn vinh “người đồng mình yêu thương con ơi”
- Bức tranh giản dị, gần gũi đậm chất thơ, vừa cụ thể lại vừa tổng quát
c. Kết luận:
Xác nhận giá trị về nội dung và nghệ thuật của khổ thơ, diễn đạt cảm nhận của bạn về khổ thơ thứ hai.
....
Nhận xét ngắn gọn về khổ thơ 2 Nói với con
Bài thơ 'Nói với con' của nhà thơ Y Phương là biểu tượng của tình cảm cha con sâu sắc và lòng ca ngợi cho truyền thống quê hương, tâm hồn đẹp của những dân tộc miền núi. Khổ thơ thứ hai đã thể hiện rõ những phẩm chất cao quý của những người cùng quê cùng lời dặn dò sâu sắc từ người cha tới con của mình. Trong đoạn thơ, phẩm chất đầu tiên mà chúng ta nhìn thấy ở những người cùng quê là ý chí, nghị lực kiên cường:
'Người cùng quê yêu dấu con lắm ơi
Vượt lên trên nỗi buồn
Mơ ước xa xôi phải nuôi chí lớn'
Những người cùng quê phải trải qua những khó khăn, gian khổ, nhưng mỗi người đều có trong lòng một ý chí, một nghị lực 'nuôi chí lớn' để vươn lên trong tương lai. Phẩm chất cao quý thứ hai của họ là lòng trung thành, sự gắn bó với quê hương:
'Sống trên núi không than trách vách đá gập gềnh
Sống trong thung lũng không oán trách thung lũng nghèo khó
Sống giống như dòng sông, suối
Chảy từ thác rồi đến ghềnh nước
Không sợ khó khăn, gian khổ'
Hai câu 'sống' và 'không oán' đã xác nhận lòng trung thành không biên giới của những người cùng quê với quê hương của họ. Dù quê hương của họ có nghèo khó với 'núi đá gập gềnh', với 'thung lũng nghèo khó' nhưng họ luôn gắn bó với quê hương thân thương của mình. Phẩm chất thứ ba của người cùng quê là tinh thần tự lập, tự chủ, xây dựng quê hương:
'Những người cùng quê dù có mộc mạc đến đâu
Chẳng ai là nhỏ bé cả con ạ
Người cùng quê tự mình khắc đắc đá kê cao quê hương
Và quê hương đã trở thành phong tục'
Hình ảnh 'tự mình khắc đắc đá kê cao quê hương' là tượng trưng cho tinh thần tự lập, tự cường, quyết tâm xây dựng quê hương giàu đẹp của những người cùng quê. Cuối cùng của đoạn thơ là lời dặn dò quý báu của cha dành cho con:
'Con ơi, dù có mộc mạc đến đâu
Đi lên con ạ
Không ai là nhỏ bé cả
Hãy lắng nghe con'
Con đã trưởng thành, đã đến lúc bước vào một chặng đường mới của cuộc đời. Người cha mong con sẽ kiên định trên con đường, tiếp tục và kế thừa những truyền thống vẻ vang từ cha ông. Về mặt nghệ thuật, đoạn thơ được viết bằng thể thơ tự do và tư duy rộng lớn của người dân miền núi, giọng điệu thơ linh hoạt, hình ảnh thơ mộc mạc đã tạo ra thành công cho khổ thứ hai của bài thơ Nói với con. Khổ thơ đã làm cho chúng ta thấy được những phẩm chất cao quý của người cùng quê cùng tình cảm gia đình sâu sắc.
Cảm nhận khổ thứ hai của bài thơ Nói với con tuyệt vời nhất
'Nói với con' là một bài thơ rất đặc sắc của nhà thơ Y Phương. Thông qua khổ thơ thứ hai của tác phẩm, dùng lời của cha dạy con, tác giả đã tinh tế ca ngợi những phẩm chất cao quý của người đồng mình, những truyền thống quý báu của quê hương cùng lời dặn dò chân thành - hành trang cho đứa con bước vào cuộc đời. Người đồng mình là những người có ý chí, nghị lực mạnh mẽ 'Cao đo nỗi buồn/ Xa nuôi chí lớn'. Họ phải chịu đựng khó khăn, gian nan nhưng vẫn mang trong mình chí lớn và nghị lực để 'nuôi chí lớn' đó. Hai từ 'cao, xa' đã được nhà thơ sử dụng để so sánh, diễn đạt chí khí của người đồng mình. Dù cuộc sống còn nhiều khó khăn, nghèo đói nhưng họ luôn gắn bó, trung thành với quê hương. Hai hình ảnh 'đá gập ghềnh', 'thung nghèo' đã diễn tả sự thiếu thốn, vất vả của những người đồng mình trên quê hương. Nhưng dù như thế nào, họ vẫn ở lại với quê hương, gắn bó, trung thành. Hai từ 'sống', 'không chê' lặp lại hai lần để khẳng định sự trung thành đó. Không chỉ gắn bó, trung thành mà người đồng mình còn mang trong mình tinh thần tự lập, tự cường, xây dựng quê hương. Hình ảnh 'tự đục đá kê cao quê hương' là hình ảnh ẩn dụ cho thấy ý chí tự lập, tự cường của những người đồng mình. Họ tự mình xây dựng quê hương với mong muốn quê hương sẽ trở nên mạnh mẽ và vững chắc hơn. Kết thúc bài thơ là lời dặn dò của cha dành cho con:
'Con ơi dù có thô sơ đến đâu
Hãy tiến lên
Không bao giờ nhỏ bé
Hãy lắng nghe con'
Con đã trưởng thành, phải bước ra đi tìm kiếm sự nghiệp riêng cho mình, nhưng dù đi đâu cũng phải luôn nhớ về quê hương, gia đình, với những phẩm chất cao quý, sống để xứng đáng với những người đồng mình trên quê hương. Bằng lối thơ tự do của người dân tộc miền núi cùng với hình ảnh thơ đẹp, giàu sức gợi, các biện pháp tu từ ẩn dụ, điệp ngữ, ... qua khổ thứ hai của bài thơ Nói với con, nhà thơ Y Phương đã cho chúng ta thấy được những phẩm chất đáng quý của người đồng mình cùng lời dặn dò chân thành dành cho con. Khổ thơ này là biểu tượng của toàn bộ bài thơ Nói với con.
Cảm nhận khổ thứ hai của bài thơ Nói với con
Cảm nhận khổ thứ hai của bài thơ Nói với con - Mẫu 1
“Nói với con” là bài thơ đặc sắc nhất của Y Phương. Qua khổ thơ thứ hai, lấy lời cha nhắc nhở con về nguồn gốc, người cha tinh tế khen ngợi những phẩm chất cao quý của “người đồng mình”, tôn vinh nét đẹp văn hóa của quê hương xứ sở. Những phẩm chất đó không lớn lao nhưng rất đáng tự hào và cần được giữ gìn, là bộ hành trang mà con cần mang theo khi bước vào cuộc đời.
Phẩm chất cao quý của “người đồng mình” hiện ra qua lời tâm tình của cha. Cuộc sống của họ đầy niềm vui và lòng lạc quan:
“Cao đo nỗi buồn
Xa nuôi chí lớn”.
Cách sử dụng đảo ngữ đầy sáng tạo làm cho ý thơ cao vời, thanh thoát. Dân miền núi lấy núi, suối, sông làm đơn vị đo. Tập tục ấy xuất hiện trong thơ của Y Phương rất ấn tượng. Người đồng mình cũng trải qua nỗi buồn nhưng luôn biết “nuôi chí lớn”. Họ mạnh mẽ, kiêu hãnh, sống sót giữa thiên nhiên khắc nghiệt và bí ẩn. Họ không bao giờ khuất phục. Đó là phẩm chất đáng tự hào mà Y Phương muốn nhấn mạnh.
Đồng thời, đó là sự trung thành của “người đồng mình” với nơi họ sinh sống:
“Sống trên đá không chê đá gập ghềnh
Sống trong thung không chê thung nghèo đói”
Bằng những lời tâm tình, điều khiển từ, và so sánh cụ thể, người cha đã khẳng định người miền núi không chê đá gập ghềnh, không chê thung nghèo đói. Dù cuộc sống gian nan, họ vẫn sống mạnh mẽ, như sông suối mạnh mẽ, bền bỉ, gắn bó với quê hương. Cha mong muốn con hiểu được ý chí, nghị lực, và niềm tin là chìa khóa để vượt qua khó khăn, thử thách, và giữ vững nghĩa tình với quê hương.
“Người đồng mình” mộc mạc, dũng cảm, giàu ý chí và niềm tin. Dù “thô sơ da thịt” nhưng họ không hề nhỏ bé về tâm hồn và ý chí. Họ biết lo toan và mong ước. Họ tự lập, tự cường xây dựng quê hương, duy trì truyền thống với những tập quán tốt đẹp:
“Người đồng mình đục đá kê cao quê hương
Còn quê hương thì làm phong tục”
Câu thơ này có 2 lớp ý nghĩa. Trong nghĩa hiện thực: Đục đá kê cao quê hương là hành động thực tế thường thấy ở miền núi. “Quê hương” là nơi sinh sống của một người. Họ xây nhà trên những miền đất cao để có nơi ổn định, chống lại thiên nhiên khắc nghiệt. Từ xa xưa, đá núi là biểu tượng cho ý chí kiên cường, không bao giờ khuất phục.
Nghĩa ẩn dụ: Đúc đá kê cao quê hương. Hình ảnh thơ tổng quan về lòng tự trọng, ý thức bảo vệ nguồn gốc. Tình yêu và tự hào của con và mọi “người đồng mình” đều vững chắc như đá núi. Đó là niềm tin vĩnh cửu, không đổi. Cha muốn con nhớ điều đó dù cuộc sống có biến đổi thế nào.
Kết thúc bài thơ là lời nhắn nhủ, dặn dò và hy vọng của cha, mong con mình tự hào về truyền thống tốt của quê hương mình. Hãy mang những tình cảm ấy làm hành trang để vững bước trên đường đời rộng lớn”
“Con ơi tuy thô sơ da thịt
Lên đường
Không bao giờ nhỏ bé được
Nghe con”.
Hình ảnh người đồng mình “thô sơ da thịt” lặp lại hai lần như muốn con ghi nhớ sâu sắc về con người và quê hương. “Người đồng mình” mặc dù giản dị, chân chất nhưng sống cao đẹp. Con phải sống cao quý, tự trọng để xứng đáng với “người đồng mình” đã từng sống, từng yêu như vậy. Con là đại diện của họ, mang những phẩm chất của họ nên “không bao giờ nhỏ bé được”, dù con đường phía trước còn khó khăn. Hãy tự tin bước đi, bởi con mang theo gia đình, quê hương, và trong tim con chứa đựng những phẩm tốt đẹp của “người đồng mình”.
Hai tiếng “nghe con” chứa đựng tấm lòng yêu thương và niềm tin sâu sắc của cha dành cho con. Hai tiếng ấy kết thúc bài thơ với một dư âm nhẹ nhàng và ý nghĩa.
Với thể thơ tự do, mạch cảm xúc tự nhiên, cách diễn đạt giàu hình ảnh vừa mộc mạc mà vẫn sâu sắc, cụ thể mà giàu tính khái quát, bài thơ thể hiện tình cảm gia đình ấm áp, ca ngợi truyền thống cần cù, sức sống mạnh mẽ, những phẩm chất cao quý của “người đồng mình”, của quê hương nguồn cội. Khổ thơ 2 của bài thơ giúp ta hiểu thêm về sức sống và vẻ đẹp tâm hồn của một dân tộc miền núi, gợi nhớ tình cảm gắn bó với truyền thống, với quê hương và ý chí vươn lên trong cuộc sống.
Cảm nhận khổ 2 bài Nói với con - Mẫu 2
Ai đã đọc qua bài thơ “Nói với con” của Y Phương chắc chắn sẽ trải qua không ít cảm xúc, nỗi xúc động về tình cảm gia đình cũng như tình quê hương thắm thiết. Nổi bật trên nền cảnh núi rừng Tây Bắc là vẻ đẹp của đời sống và phẩm chất của “người đồng mình” cần cù nhẫn nại, gắn kết muôn đời với quê hương, với cội rễ sinh thành khiến ta thêm trân trọng và yêu mến được thể hiện rõ nét qua đoạn 2 bài thơ.
Ở đoạn 2 bài thơ “Nói với con”, Nhà thơ Y Phương đã dùng những lời thơ giản dị, chân thành để vẽ nên hình ảnh “người đồng mình” trong mối liên hệ giữa con người và nguồn cội sinh thành. Dù cuộc sống khó khăn, gian truân, nhưng họ luôn tỏa sáng ý chí vươn lên:
“Người đồng mình thương lắm con ơi
Cao đo nỗi buồn
Xa nuôi chí lớn”.
Từ “thương lắm” bắt nguồn từ tấm lòng đồng cảm, biết ơn những con người đã góp phần tạo nên bản sắc của cuộc sống “người đồng mình”. Giữa vùng đại ngàn bao la, “người đồng mình” mãi mãi khao khát vươn cao, vươn xa. Sử dụng kỹ thuật đảo ngữ tinh tế làm cho bản thơ trở nên thanh thoát đặc biệt. Mặc dù biết rằng cuộc sống cay đắng, nhưng ước mơ không bao giờ phai nhạt. Đó là nguồn sức mạnh giúp họ sinh tồn và hướng tới cuộc sống tươi đẹp. Y Phương hiểu rõ, trân trọng và lấy điều đó làm bài học dạy con. Một lần nữa, vẻ đẹp của cuộc sống và phẩm chất của “người đồng mình” hiện ra rực rỡ:
“Dẫu làm sao thì cha vẫn muốn
Sống trên đá không chê đá gập ghềnh
Sống trong thung không chê thung nghèo đói”.
Biện pháp điệp cấu trúc “sống – không chê” và nghệ thuật so sánh mô tả cuộc sống của người đồng mình với sự khó khăn nhưng hào hùng, mạnh mẽ. Cuộc sống có thể gian khó nhưng tâm hồn luôn thanh cao, lạc quan, yêu đời. Họ biết chấp nhận và trân trọng cuộc sống, biết cải thiện nó theo hướng tốt đẹp và gìn giữ cho muôn đời sau. Càng gian khó, họ càng nương tựa lẫn nhau, xây dựng một lối sống bao dung, hài hòa với thiên nhiên:
“Sống như sông như suối
Lên thác xuống ghềnh
Không lo cực nhọc”.
Với giọng điệu nhẹ nhàng, yêu thương và trìu mến, cùng cách diễn đạt giản dị, chân thành, phản ánh đúng chuẩn giọng điệu dân tộc Tày – quê hương của tác giả, ở vùng Cao Bằng, cùng với việc so sánh thường thấy trong các bài thơ dịu dàng, Y Phương đã làm nổi bật nét đặc sắc qua lời tâm tình của người cha đối với con. Con thường lớn lên trong sự che chở, nuôi dưỡng của cha mẹ. Với tư duy riêng, tác giả đã thể hiện sự khó khăn ở các vùng quê miền núi, “gập ghềnh”, “nghèo đói”. Đó cũng là niềm tự hào, lời khen ngợi về vẻ đẹp cuộc sống và phẩm chất của “người đồng mình” mà nhà thơ đã dành tặng cho quê hương, dân tộc mình.
Tính cách của những người sống ở miền núi thường là vô tư, không tính toán hay ích kỷ, họ cho đi mọi thứ theo cách của họ. Phép so sánh “Sống như sông như suối” thể hiện vẻ đẹp tâm hồn và ý chí của người đồng mình: sức sống mạnh mẽ, bền bỉ. Dù gặp khó khăn và gian khổ, họ vẫn toát lên sự phấn chấn, tâm hồn lãng mạn, kiên cường như hình ảnh bát ngát của dòng sông núi. Mặc dù giản dị nhưng họ lại giàu có về ý chí và tâm hồn. Tình cảm của họ trong trẻo, dồi dào như dòng suối không bao giờ cạn, niềm tin vào cuộc sống và con người.
“Người đồng mình thô sơ da thịt
Chẳng mấy ai nhỏ bé đâu con”
Một lần nữa, “người đồng mình” lại được nhắc đến với lòng trân trọng và yêu mến. Người đồng mình “tuy thô sơ da thịt” nhưng “chẳng mấy ai nhỏ bé”. Dù ở hoàn cảnh nào, “người đồng mình” luôn coi trọng danh dự, nhân phẩm và biết giữ gìn, bảo vệ như là mạng sống của mình. Họ không bán đứng lương tâm, không phản bội núi rừng, không phản bội quê hương. Mỗi hành động của họ trở thành phong tục, cách sống, cách ứng xử của cả cộng đồng:
“Người đồng mình tự đục đá kê cao quê hương
Còn quê hương thì làm phong tục”.
Niềm tự hào về sức mạnh sinh tồn và vẻ đẹp văn hóa của “người đồng mình” khiến cho lời thơ trở nên ngọt ngào hơn. Dù chưa phải là những giá trị lớn lao khi so sánh với những giá trị khác nhưng chúng là quý báu nhất, lớn nhất đối với “người đồng mình”. Họ tự hào và kiêu hãnh khi xây dựng quê hương trên núi đá, sinh sống trong vùng đất khắc nghiệt và chiến thắng thế giới xung quanh bằng sức mạnh của văn hóa cộng đồng. Họ hiểu rằng, nếu không bảo vệ và phát huy sức mạnh đó, một ngày nào đó, quê hương của họ sẽ tan rã, mọi công sức của cha ông sẽ mất trước sức mạnh của thiên nhiên vĩ đại. Họ cũng hiểu, ngoài kia luôn có những điều tốt đẹp hơn nhưng họ mong muốn thế hệ sau không bị hèn hạ, ích kỷ như bản thân mình:
“Con ơi dù thô sơ da thịt
Hãy bước đi
Không bao giờ tự ti
Nghe cha”.
Cách diễn đạt của tác giả cùng với biện pháp nghệ thuật đã làm cho bài thơ trở nên sống động và đậm chất nhân văn hơn. Việc sử dụng cấu trúc điệp ngữ đã tạo ra một đặc điểm riêng cho bài thơ, giúp người đọc cảm nhận sâu sắc hơn mà ít bài thơ nào có thể đạt được. Y Phương sử dụng cả hai biện pháp này chủ yếu để nhấn mạnh, nhắc nhở, và ghi nhớ trong lòng người con rằng dù có gian lao, khó khăn như thế nào thì vẫn không nên chê bai, trách móc mà hãy chấp nhận nó. Hãy sống thoải mái, thanh thản, không phải đua đòi với cuộc sống thành thị. Nhà thơ đã thay lời cha dặn con phải chịu khó, trung thành với đất rừng, quê hương, tổ tiên, điều mà mỗi người đều nên tuân thủ nhưng ít ai làm được.
Lời thơ chân thành, dày vò, đầy cảm xúc, và sâu sắc. Lời dặn dò của cha gửi đến con về trách nhiệm phải tự hào, yêu quý, tôn trọng và bảo vệ truyền thống quê hương cũng là một lời nhắc nhở rằng chúng ta phải sống có trách nhiệm với quê hương, đất nước.
Con người chỉ có thể tách rời khỏi quê hương nhưng không thể tách rời quê hương khỏi con người. Thông qua vẻ đẹp cuộc sống và phẩm chất của “người đồng mình” cùng với tình cảm chân thành của nhà thơ Y Phương, đoạn thơ 2 của bài thơ “Nói với con” đã giúp chúng ta hiểu rõ hơn về sức sống và vẻ đẹp tâm hồn của một người sống ở miền núi. Đồng thời, nó gợi nhớ về tình cảm gắn bó với truyền thống, quê hương mà ta đã lâu nay lãng quên.
Cảm nhận khổ thơ 2 của bài “Nói với con” - Mẫu 3
Y Phương là một nhà thơ của dân tộc Tày. Quê anh ở Trùng Khánh, thuộc tỉnh Cao Bằng. Từ một người lính trong thời kỳ chiến tranh chống lại Mỹ, anh đã trở thành một nhà thơ.
Thơ của Y Phương mang một vẻ đẹp độc đáo, 'thể hiện tâm hồn chân thành, mạnh mẽ và tinh khiết, cùng với cách tư duy sâu sắc và phong phú của người sống trong miền núi'.
Bài thơ 'Nói với con' của Y Phương là một tác phẩm xuất sắc, một bông hoa nghệ thuật toả hương từ những rừng núi ở biên giới phía Bắc. Đây là phần thứ hai của bài thơ:
Người đồng mình yêu thương con nhiều lắm
Cao cả tâm hồn
Trông xa nuôi dưỡng ý chí lớn
Dù cho ra sao thì cha vẫn mong muốn
Sống trên đỉnh núi không chê đá gập ghềnh
Sống trong hang động không chê ẩm ướt nghèo khó
Sống như dòng sông, như dòng suối
Chảy từ thác đến ghềnh
Không lo lắng gì về khó khăn
Người đồng mình chân thật da thịt
Riêng một mình ai cũng to lớn
Người đồng mình tự mình khắc đá xây dựng quê hương
Quê hương cũng chính là phong tục
Con ơi dù thân thể bình dị
Lên đường
Không bao giờ tự cho mình nhỏ bé
Hãy lắng nghe cha.
Trong phần đầu, Y Phương đã viết: 'Người đồng mình yêu thương con nhiều lắm', sau đó, ở phần hai, anh mở đầu bằng lời cha nói với con một cách trìu mến. Lời cha dành cho con rất ấm áp và chân thành: 'Người đồng mình yêu thương con nhiều lắm'. 'Người đồng mình' ở đây là đồng bào cùng quê hương, là bà con dân tộc Tày, Nùng, trong 'vùng núi cao Cao Bằng', nơi 'lúa trắng nước trong'. Phải yêu thương, phải quý trọng 'người đồng mình', một điều rất đáng tự hào. Họ không bao giờ chùn bước trước khó khăn. Tinh thần sẽ càng cao cả, ý chí sẽ càng kiên định, tầm nhìn sẽ càng xa và rộng lớn:
Thấu đáo nỗi buồn
Viển vông chăm chỉ
Cha dạy con về những nguyên tắc đạo lý trong cuộc sống. Dù trong bất kỳ hoàn cảnh nào, cha luôn hy vọng con biết tự tự tin bước đi và sống một cuộc sống ý nghĩa. Quê hương, sau những năm tháng đầy khó khăn và chiến tranh, vẫn còn nhiều vấn đề chưa được giải quyet, vẫn còn nhiều khó khăn. Con hãy nhớ rằng 'không chê... không chê...':
Sống trên núi đá không chê đá gập ghềnh Sống trong thung lũng không chê thung nghèo đói.
Con phải sống mạnh mẽ, kiên cường như dòng sông, như con suối. Con phải trang bị cho mình ý chí và bản lĩnh, dù phải vượt qua nhiều gian khó vẫn không lo lắng:
Các tục ngữ: 'không chê... không chê', 'sống trên... sống trong... sống như...' đã làm cho bài thơ trở nên phong phú về âm điệu và lời cha dặn con cũng trở nên chân thành hơn. Cách sử dụng ví von và tục ngữ đã làm cho những lời dặn dò của cha trở nên cụ thể mà sâu sắc:
Sống như dòng sông, như con suối
Vượt qua thác, vượt qua rặng
Không sợ gian khó.
Từ ngữ và hình ảnh như 'thô sơ da thịt', 'nhỏ bé', 'tự đục đá kê cao quê hương' thể hiện rõ bản sắc, phẩm chất của người dân ta, đồng bào quê hương. Ba từ 'người đồng mình' được nhắc đi nhắc lại nhiều lần, đẩy lên tình cảm tự hào, yêu mến quê hương đến không gian hạn. 'Người đồng mình' sống giản dị, chịu khó, kiên nhẫn, không bao giờ chấp nhận sự nhỏ bé, bình thường. Cha dạy con về nhân phẩm, dạy con sống đẹp, mạnh mẽ, biết giữ gìn và phát huy truyền thống cao quý của 'người đồng mình', của quê hương:
Người đồng mình thô sơ da thịt
Chẳng mấy ai nhỏ bé đâu con
Người đồng mình tự đục đá kê cao quê hương
Còn quê hương thì làm phong tục.
Con chuẩn bị lên đường, như cánh chim vươn tới chân trời xa (đi học, nhập ngũ, đi làm?). Cha dặn con, khuyến khích con, 'tuy thô sơ du thịt', nhưng không thể sống bình thường, trở thành con người tầm thường, phải 'lớn lên' trước mắt mọi người. Bài học cha dạy con ngắn gọn nhưng sâu sắc, đầy ý nghĩa:
Con ơi tuy thô sơ da thịt Lên đường
Không bao giờ nhỏ bé được
Nghe con.
Y Phương đã diễn đạt một cách cụ thể, dùng hình ảnh của dân tộc mình, 'người đồng mình'. Thơ bình dị, tình cảm chân thành, lời cha dạy bảo con. Cha dạy con về nhân phẩm, yêu quê hương, sống đẹp như 'người đồng mình' đã làm từ lâu.
Bài thơ Nói với con thể hiện tình cha thương con, niềm tin của cha dành cho đứa con yêu thương. Kết thúc bài thơ là tiếng cha động viên con tiến lên đường.
Đọc thơ của Y Phương, chúng ta nhớ lại lời ru ân cần của mẹ hiền trong tuổi thơ:
Con ơi hãy trở thành người tốt,
Nghe lời dạy của cha mẹ.
.....
Cảm nhận ý nghĩa của đoạn thơ 2 bài Nói với con
Y Phương quê ở Cao Bằng, là người dân tộc Tày. Thơ ông thể hiện tâm hồn chân thật, mạnh mẽ và trong sáng, cách tư duy giàu hình ảnh của con người miền núi. Tác phẩm được viết vào năm 1980, xuất hiện trong tập Thơ Nam 1945, là lời tâm sự của tác giả với đứa con gái đầu lòng và với chính bản thân. Đặc biệt, đoạn 2 của bài thơ: “Người đồng mình thương lắm con ơi… Nghe con” không chỉ là lời dặn dò đơn giản mà còn chứa đựng tất cả tình cảm trân trọng, ngợi ca, và tự hào về con người, về đất nước quê hương.
Bằng những hình ảnh thơ đẹp, giản dị và cách diễn đạt gần gũi của người miền núi, người cha muốn nói với con rằng: vòng tay yêu thương của cha mẹ, gia đình và nghĩa tình sâu nặng của quê hương làng bản. Đó là cái nôi đã nuôi con khôn lớn, là nguồn cội của sự sống cho con. Con hãy ghi nhớ điều đó.
Trong hồi ức ngọt ngào về gia đình và quê hương, người cha đã tha thiết nói với con về những phẩm chất tốt đẹp của người đồng mình. Điệp ngữ “người đồng mình” là điểm nhấn quan trọng của thi phẩm này. “Người đồng mình” là cha mẹ, là đồng bào, là những người cùng quê hương, dân tộc Tày, Nùng.
Với lời nói mộc mạc, giản dị và hình ảnh cụ thể, tác giả đã gợi lên bao tình yêu thương về người đồng mình. “Người đồng mình” sống vất vả, nghèo đói, gian khổ, nhưng luôn lạc quan, chân chất, yêu đời, mạnh mẽ, và giàu mơ ước với chí lớn. Người cha muốn giáo dục cho con sống phải có lòng trung hậu, tình thương quê hương, và biết vượt qua khó khăn bằng ý chí và niềm tin của mình:
“Người đồng mình thương lắm con ơi
Cao đo nỗi buồn
Xa nuôi chí lớn”
Người đồng mình sống mạnh mẽ và bền bỉ, gắn bó với quê hương, thủy chung với nơi chôn nhau dù quê hương còn cực nhọc, đói nghèo. Họ biết sử dụng kinh nghiệm sống để nuôi dưỡng tinh thần lớn lao, không bao giờ chùn bước trước khó khăn, tâm càng sáng, chí càng cao, tầm nhìn càng xa rộng, tràn đầy niềm vui và lòng lạc quan.
Người đồng mình mộc mạc, dung dị, giàu ý chí, niềm tin. Họ biết giữ vững bản sắc dù cuộc sống thiếu thốn, không nhỏ bé về tâm hồn và ý chí. Họ biết lo toan và mong ước: “Cao đo nỗi buồn, xa nuôi chí lớn”. Họ biết xây dựng và duy trì truyền thống tốt đẹp với những phương tiện có sẵn.
“Sống trên đá không chê đá gập ghềnh
Sống trong thung không chê thung nghèo đói
Sống như sông như suối
Lên thác xuống ghềnh
Không lo cực nhọc”.
Người đồng mình không giàu có nhưng chẳng mấy ai nhỏ bé, chẳng mấy ai cúi đầu khuất phục trước khó khăn, thử thách. Người cha mong muốn con chấp nhận và vượt qua khó khăn, thử thách bằng ý chí và niềm tin. Nhà thơ gợi ra những phẩm chất đáng quý của “người đồng mình” như chấp nhận khó khăn, hồn nhiên, mạnh mẽ, và phóng khoáng:
“Sống như sông như suối
Lên thác xuống ghềnh
Không lo cực nhọc”.
Phép so sánh “Sống như sông như suối” thể hiện vẻ đẹp tâm hồn và ý chí của người đồng mình. Dù gian khó, họ vẫn tràn đầy sinh lực, tâm hồn lãng mạn, khoáng đạt như hình ảnh đại ngàn của sông núi. Tình cảm của họ trong trẻo, dạt dào như dòng suối, sống trước niềm tin yêu cuộc sống và con người.
Đoạn thơ rất dồi dào nhạc điệu, tạo bởi điệp từ, điệp ngữ, và cấu trúc câu thơ linh hoạt, lúc vươn dài lúc rút ngắn. Lời thơ giản dị, chắc nịch, thấm thía, truyền cảm mạnh mẽ, thể hiện sự tự hào. Người cha nhấn mạnh truyền thống người đồng mình:
“Người đồng mình tự đục đá kê cao quê hương
Còn quê hương thì làm phong tục”.
Câu thơ gợi lên hình ảnh đập đá kê cao là biểu tượng của ý thức xây dựng và bảo tồn quê hương, góp phần tạo nên phong tục, truyền thống đẹp của quê hương.
Hình ảnh quen thuộc như đá, thung, ghềnh, thác, suối, sông là biểu tượng cho cuộc sống gian khổ của người dân vùng cao. Những câu thơ với nhiều âm điệu, thanh trắc, và ngắt nhịp không đều nhau, gợi lên cảm giác cứng cỏi, vững vàng của con người quê hương.
Bên cạnh hình ảnh miêu tả sự khó khăn chồng chất, từ “sống” trong mỗi câu thơ thể hiện tư thế kiêu hãnh của người dân quê hương. Họ dám đối mặt với mọi thử thách, luôn sống mạnh mẽ, cứng cỏi, và gắn bó bền bỉ với quê hương dù có nghèo khó.
“Đá” trong thơ Y Phương là biểu tượng của sự cứng cỏi và kiên định của người vùng cao. Lời thơ gợi lên vẻ đẹp của sự cần cù, ý chí bền bỉ, và nghị lực phi thường của con người quê hương.
Người cha mong con sống có tình nghĩa với quê hương, giữ đạo lí “Uống nước nhớ nguồn” và chấp nhận gian khó để vươn lên bằng ý chí. Hãy tự hào về truyền thống và dân tộc để tự tin bước trên con đường đời.
Hãy tự hào về quê hương, sống với ý chí và khát vọng, luôn ngẩng cao đầu và bước đi bằng niềm tin, nghị lực của chính mình. Đó là cách để sống xứng đáng với quê hương, vẫn giọng thơ tha thiết nhưng có cả sự nghiêm nghị, rắn rỏi.
Kết thúc bài thơ là lời nhắn nhủ của người cha mong muốn con mình tự hào về truyền thống tốt đẹp của quê hương, hãy lấy những tình cảm đó làm hành trang để “lên đường”, vững bước trên đường đời.
“Con ơi dẫu thân thể mộc mạc
Trên con đường
Không bao giờ phải nhỏ bé
Hãy lắng nghe cha”.
Nếu phần một của bài thơ là một khúc hát nhẹ nhàng, tươi vui với hoa thơm ngát, tiếng cười rộn ràng, với bao nghĩa tình thơm ngát, thi phần hai là một bản hành khúc vừa tha thiết vừa mạnh mẽ, mang âm hưởng của thác nước, sông suối, mang theo cả hơi thở, cả chí khí, niềm tin, sức mạnh của con người quê hương. Qua đó, người cha muốn truyền gửi cho con niềm tin yêu, khát vọng.
Hình ảnh “thân thể mộc mạc” lặp lại hai lần như muốn con ghi nhớ người đồng mình dù mộc mạc, chân chất nhưng có lẽ sống cao đẹp. Trên cuộc đời con phải sống cao thượng, tự trọng để xứng đáng với họ. Con “không bao giờ phải nhỏ bé” dù con đường phía trước còn nhiều gian khó. Con hãy tự tin bước đi, bởi sau lưng con có gia đình, quê hương, bởi trong tim con sẵn ẩn chứa những phẩm chất quý báu của người đồng mình.
Hai tiếng “Hãy lắng nghe cha” chứa đựng tấm lòng yêu thương, kì vọng và niềm tin sâu nặng cha đặt nơi con: mong con biết sống sao cho tốt, cho xứng đáng với tình cảm của cha. Hai tiếng ấy khép lại bài thơ để lại một dư âm nhẹ nhàng mà âm vang xao xuyến: mong con sống có tình nghĩa, biết chấp nhận gian khó, vươn lên bằng ý chí của mình, vững vàng trên cuộc đời. Điều lớn lao nhất mà người cha muốn truyền cho con chính là lòng tự hào với quê hương và niềm tự tin khi bước vào cuộc sống. Nói với con mà chính là cha đã trao tặng cho con. Cha đã vun đắp cho con những tình cảm tốt đẹp, cho con một hành trang quý và đã sẵn sàng tung cánh cho con bay đi khắp mọi nơi.
Bày tỏ tình cảm trân trọng, ngợi ca, tự hào về con người, về đất nước quê hương không chỉ có tác phẩm Nói với con của Y Phương. Đoạn thơ “Mùa xuân người cầm súng.,. Cứ đi lên phía trước” trích trong bài Mùa xuân nho nhỏ của Thanh Hải đã thể hiện những cảm xúc đầy ấn tượng.
Đoạn thơ thể hiện sự kết nối của tác giả với mùa xuân đất nước với một niềm tự hào, xúc động thiêng liêng về lịch sử bốn nghìn năm mặc dù “vất vả và gian lao nhưng vẫn rực rỡ, bền vững, bất diệt. Hình ảnh đất nước nổi bật với không khí sôi động, hối hả khi bước vào mùa xuân mới không chỉ là để bảo vệ mà còn để xây dựng Tổ quốc. Hai trách nhiệm này nặng nề trên vai của “người cầm súng” và “người ra đồng”, những người đã gieo mùa xuân, bảo vệ mùa xuân, tạo nên sức sống mùa xuân trên mọi miền đất nước.
Khát vọng hiến dâng mùa xuân, tuổi trẻ cho đất nước được thể hiện qua thể thơ năm chữ nhẹ nhàng, tha thiết, hình ảnh giàu ý nghĩa biểu trưng, khái quát, ngôn ngữ thơ tươi sáng, gợi cảm, phát huy triệt để giá trị các hình thức diễn đạt và biện pháp tu từ khác như ẩn dụ, hoán dụ… Cả hai đoạn thơ đều bày tỏ lòng trân trọng, ngợi ca, tự hào về con người, về đất nước quê hương. Cả hai đoạn thơ đều giúp người đọc hiểu rõ hơn về giá trị tư tưởng của tác phẩm, cũng như thấm sâu hơn tình cảm của tác giả thể hiện trong bài thơ.
Đoạn 2 của bài thơ “Nói với con” mang giọng điệu thân mật, tình cảm, trìu mến hay có sự thay đổi phù hợp với nội dung từng đoạn, dù thể hiện tình yêu thương sâu sắc của cha mẹ dành cho con cái hay những cảm xúc tinh tế của nhà thơ trước vẻ đẹp của mùa xuân và khát vọng được cống hiến cho đất nước, cuộc sống; cả hai bài thơ đều đã thể hiện niềm tự hào về quê hương đất nước và lời nhắn gửi cũng như lòng tin vào những giá trị tích cực vĩnh cửu của dân tộc. Điều này đã làm cho hai tác phẩm sau bao nhiêu năm vẫn lưu lại trong lòng nhiều người với tâm hồn cùng nhịp điệu với thi sĩ.
Phân tích khổ 2 của bài thơ Nói với con
Y Phương là một trong những nhà thơ dân tộc Tày nổi tiếng. Những bài thơ của ông thường thể hiện tâm hồn chân thành, mạnh mẽ, lời thơ tinh tế, giàu hình ảnh về những con người miền núi. Một trong những tác phẩm nổi tiếng của ông phải kể đến bài thơ “Nói với con”, đây là bài thơ về tình cảm gia đình, ca ngợi truyền thống cần cù, sức sống mạnh mẽ của con người, quê hương đất nước. Một trong những đoạn trích ấn tượng nhất là khổ thứ 2 của bài thơ. Đây là khổ thơ thể hiện lòng tự hào về sức sống mãnh liệt, bền bỉ, những truyền thống tốt đẹp cao cả của quê hương.
“Cha thương con nhiều lắm đó con ơi
Ca ngợi lòng kiên cường
Xa trải chí cao lớn”
Tác giả sử dụng cụm từ “Cha thương con” để thể hiện sự gắn bó, tình cảm sâu đậm của người dân nơi đây. Cha thương con chính là cha mẹ, đây là tiếng nói từ trái tim của mỗi gia đình, tiếng nói thấm đẫm yêu thương. Lời cha dành cho con đầy tình cảm, sâu lắng và chân thành. Với cách gọi thân mật “cha thương con”, cha đang truyền đạt cho con sự quan tâm, yêu thương và nhớ về gia đình. Cha cũng mong con hãy biết trân trọng, giữ gìn những phẩm chất tốt đẹp của dân tộc. Đặc biệt cụm từ “thương con nhiều lắm đó con ơi” nghe tha thiết, tình cảm đầy đủ. Khi đọc xong câu thơ này, ta cảm nhận được sự ấm áp, ân cần từ cha mẹ đến con cái, đến quê hương đất nước. Cảm giác tình yêu của cha mẹ, của quê hương là một điều rất đáng quý, đáng trân trọng. Câu nói “thương con nhiều lắm đó con ơi”, tuy mộc mạc nhưng chân thành, đi vào lòng người.
Tình yêu của cha mẹ dành cho con cũng thể hiện qua sự thấu hiểu, sẻ chia với những khó khăn mà mọi người đang phải đối mặt. Đó là “ca ngợi lòng kiên cường” – lòng kiên nhẫn của người dân tộc giữa khó khăn, gian nan. Họ luôn phải xa quê, bước chân trên đỉnh non nguy hiểm, trải qua nhiều gian khổ để có thể sống và tồn tại. Đó là cuộc sống vất vả, nghèo khó, đói kém mà người dân tộc phải chịu đựng. Tuy nhiên, cha mẹ vẫn tự hào khi nói với con rằng họ vẫn sống với chí cao lớn. Người dân tộc dù vất vả nhưng ai cũng mang trong mình một tinh thần lớn lao, quyết tâm vươn lên trong tương lai.
Chỉ với hai câu thơ ngắn đã thể hiện niềm tự hào về những phẩm chất tốt đẹp của dân tộc, lòng kiên cường của người dân nơi đây.
'Dẫu chật chội nhưng cha vẫn mong muốn
Sống trên đất đá không oán trách núi đồi
Sống trong căn nhà nhỏ không khinh thường cơ cực”
Một lời chia sẻ chân thành tự tận đáy lòng cha, dù cuộc sống có gian nan thế nào cha vẫn không “oán trách” quê hương, cha vẫn sẽ vượt qua. Đây là lời khẳng định về sự gắn bó, nghĩa tình sâu nặng của “người đồng mình” với quê hương, dân tộc. Ba câu thơ sử dụng từ ngữ rất giàu hình ảnh, gợi lên một không gian sống đơn sơ, giản dị, nghèo đói. Đặc biệt, từ “sống” và “không oán trách” thể hiện tấm lòng cha son sắc biết bao nhiêu. Dù cuộc sống có nghèo đói, gian truân, cha vẫn mong con vượt lên mọi thử thách bằng tất cả tình thương và nghị lực của con.
“Sống như sông như suối
Lên thác xuống ghềnh
Không sợ gian khó”
Phân tích khổ 2 bài nói với con – Đây là lời động viên, khích lệ con hãy sống mạnh mẽ như dòng sông, dòng suối, dù cho lên thác xuống ghềnh con cũng sẽ vượt qua mọi khó khăn phía trước. Tác giả tài tình sử dụng từ ngữ giàu hình ảnh, gắn liền với người dân tộc. Sông, suối, thác ghềnh đều là những hình ảnh quen thuộc với người dân tộc miền núi. Sử dụng những hình ảnh này để nói lên sự gian khó, vất vả đồng thời ca ngợi sự kiên trì, nghị lực phi thường của người dân nơi đây. Cuộc sống không hề êm đềm như mặt hồ thu, mà nó là “lên thác xuống ghềnh”, nhưng người dân nơi đây vẫn không sợ hãi, họ sẵn sàng đương đầu với mọi thử thách phía trước. Đây chính là tâm ý mà cha muốn truyền lại cho con.
'Người đồng mình thô sơ da thịt
Chẳng mấy ai nhỏ bé đâu con
Người đồng mình tự đục đá kê cao quê hương
Còn quê hương thì làm phong tục.”
Tiếp tục đoạn thơ này chúng ta thấy lời khẳng định mạnh mẽ về người đồng mình. Hình ảnh người đồng mình hiện lên “thô sơ da thịt”, một vẻ đẹp giản dị, rắn rỏi, khỏe khoắn. Hình ảnh của người lao động, băng rừng vượt suối. Ngôn từ mộc mạc, giản dị lột tả đầy đủ vẻ đẹp bên ngoài của người dân tộc. Đặc biệt, hình ảnh bên ngoài đối lập hoàn toàn với bên trong “chẳng mấy ai nhỏ bé đâu con”. Nếu vẻ đẹp bên ngoài thô sơ, không hoàn mỹ thì ngược lại, vẻ đẹp tâm hồn lại được đề cao và lớn lao vô cùng. Người đồng mình ai cũng đều nuôi chí lớn, khát vọng sống một cuộc đời tươi đẹp và đủ nghị lực để thực hiện khát vọng đó. Không có ai là “nhỏ bé” – đó là sự nhỏ bé trong tâm hồn chứ không phải vẻ bề ngoài. Hai câu thơ được đặt cạnh nhau, đối lập nhau, càng tôn lên vẻ đẹp tâm hồn của người dân tộc miền núi. Họ sống giữa núi rừng bạt ngạt nên trái tim, tâm hồn và khát vọng cũng lớn lao như núi rừng vậy.
'Người đồng mình tự vật vã đá lên cao quê hương
Và quê hương thì sẽ tôn cao phong tục.”
Họ xây dựng quê hương bằng đôi bàn tay của mình. Hình ảnh “vật vã đá” là biểu tượng cho công việc nặng nhọc, đòi hỏi sự kiên trì, nhẫn nại. Đây là hình ảnh ẩn dụ thể hiện lòng tự tôn dân tộc, ý thức bảo vệ quê hương. Hình ảnh “vật vã đá” vừa mộc mạc chân thành mà giàu ý nghĩa. Qua ý thơ, chúng ta có thể hình dung người dân lao động miền núi với khát vọng “vật vã đá lên cao quê hương” để tôn tạo lên văn hóa dân tộc, vượt qua mọi khó khăn để bảo vệ dân tộc. Và “Và quê hương thì sẽ tôn cao phong tục” càng khẳng định rằng, khi ta làm giàu cho quê hương, quê hương sẽ mang lại sự phát triển cho con người về đời sống, tinh thần và vật chất. Đây là hai câu thơ thể hiện sự gắn kết với nhau. Chúng ta xây dựng quê hương tốt đẹp chính là xây dựng cho mình một cuộc sống tinh thần, vật chất tốt hơn.
“Con ơi dù thô sơ da thịt
Hãy đi
Không bao giờ bị coi thường
Hãy lắng nghe.”
Nhịp thơ chậm rãi chân thành, nghe như lời nhắn nhủ tha thiết từ trái tim người cha. Một lần nữa người cha khẳng định người đồng mình “thô sơ da thịt”, đó là hình ảnh đáng trân trọng và tự hào. Hình ảnh của sự vất vả, lao động nơi núi rừng bạt ngàn. Hình ảnh khỏe mạnh, rắn rỏi của người dân lao động miền núi. Vẻ ngoài tuy không đẹp, tuy thô s, chân chất mộc mạc nhưng người cha nhắn con hãy nhớ, dù đi đâu, con cũng không bao giờ bị coi thường, hãy luôn tự hào về dân tộc, về những con người của núi rừng, hãy sống với khát vọng và đam mê. Người dân quê ta có thể nhỏ bé về hình dáng, thô sơ về bề ngoài nhưng khí phách, tinh thần thì thật lớn lao. Sự đối lập giữa bên ngoài và bên trong càng khẳng định niềm tự hào về những con người dân tộc miền núi, càng cho thấy được tình yêu thương, tự hào của người cha dành cho quê hương.
Câu cuối “hãy lắng nghe” vừa nhẹ nhàng mà vừa dứt khoát như lời nhắn nhủ và khẳng định. Trên đường đời, dù con có đi đâu làm gì cũng hãy tự hào về dân tộc, về những con người của núi rừng, luôn mang trong mình khát khao, nghị lực, khí phách lớn lao.
Chỉ qua khổ 2 của bài thơ Nói với con đã hiểu được phần nào những ước mơ lớn lao của người dân miền núi. Bằng cách miêu tả, ẩn dụ, tác giả đã vẽ lên một bức tranh về cuộc sống của người dân miền núi, mạnh mẽ, hiên ngang. Lời thơ giản dị, chân thành nhưng động vào trái tim bạn đọc, cảm nhận được tình yêu to lớn của người cha dành cho con hoặc chính xác hơn là dành cho quê hương đất nước.
Phân tích khổ 2 của bài thơ Nói với con
Quê hương là đề tài quen thuộc và là nguồn cảm hứng bất tận để người nghệ sĩ thể hiện tình yêu sâu sắc, thấm đẫm. Nếu nhà thơ Đỗ Trung Quân thể hiện tình cảm đó bằng những câu thơ tha thiết cùng giai điệu êm dịu 'Quê hương là chùm khế ngọt - Cho con trèo hái mỗi ngày...' thì tác giả Y Phương lại truyền đạt tình yêu thiêng liêng đó thông qua lời tâm tình của người cha dành cho người con. Tình cảm gia đình đã được tổng hợp thành tình yêu quê hương vô cùng tự nhiên. Điều này được thể hiện rõ qua khổ thơ thứ hai của bài thơ. Tác giả đã ca ngợi sức sống, những phẩm chất tốt đẹp của người miền núi cũng như hy vọng thế hệ sau sẽ tiếp nối, phát triển truyền thống của dân tộc, quê hương.
'Người đồng mình thương lắm con ơi
Cao đo nỗi buồn
Xa nuôi chí lớn
Dẫu làm sao thì cha vẫn muốn
Sống trên đá không chê đá gập ghềnh
Sống trong thung không chê thung nghèo đói
Sống như sông như suối
Lên thác xuống ghềnh
Không lo cực nhọc'
Tác giả vẫn sử dụng lối nói giàu hình ảnh 'người đồng mình' - cách gọi thân mật, trìu mến của người vùng cao để gợi lên sự thân thiết, gần gũi nhưng cùng chung một gia đình. Hệ thống từ ngữ chọn lọc, đặc biệt là động từ 'thương' kết hợp với từ chỉ mức độ 'lắm' để thể hiện sự đồng cảm, chia sẻ về tinh thần đối với những khó khăn, vất vả, sóng gió. Để vượt qua những thử thách đó, con người quê hương đã đo nỗi buồn bằng cao nguyên của bầu trời rộng lớn, sử dụng xa xôi của đất đai làm thước đo đong đếm ý chí con người. 'Cao' và 'xa' trong không gian đất trời đều là những vùng không hạn chế không điểm dừng, gợi liên tưởng đến những dãy núi cao, rộng lớn, xa xăm. Sự lựa chọn từ ngữ khéo léo, tinh tế của nhà thơ đã thể hiện sự tiến triển của ý chí con người: khó khăn, thử thách càng lớn thì bản lĩnh 'người đồng mình' càng trở nên mạnh mẽ hơn, vượt qua cuộc sống nghèo khó, cực nhọc của 'đá gập ghềnh', 'thung nghèo đói'. Trải qua mọi khó khăn, họ vẫn lạc quan, mạnh mẽ 'sống' với tâm hồn phóng khoáng như thiên nhiên: 'Sống như sông như suối'. Tác giả đã sử dụng kỹ thuật đối lập 'lên thác' - 'xuống ghềnh' để thể hiện một cuộc sống đầy thử thách, vất vả ở nơi núi rừng. Từ đó, nhà thơ đã tóm lược những vẻ đẹp truyền thống của người vùng cao:
'Người đồng mình chân thật tự lòng mình
Chẳng mấy ai bé nhỏ đâu con
Người đồng mình tự dựng nền quê hương bằng đá
Còn quê hương thì tạo ra phong tục'
Cách gọi thân thiết 'Người đồng mình chân thật tự lòng mình' ẩn chứa niềm tự hào về những con người giản dị, chân thành, thật thà, đồng thời là lời ngợi ca ý chí, phẩm chất không hề 'bé nhỏ' của họ. Đặc biệt, cách diễn đạt hình ảnh 'Người đồng mình tự dựng nền quê hương bằng đá' tạo ra một cách nói độc đáo, vừa mô tả quá trình xây dựng đất nước, vừa là hình ảnh ẩn dụ miêu tả ý thức tự hào, tinh thần cao quý, nâng tầm, làm phong phú đất nước. Những phong tục tập quán, truyền thống văn hóa của quê hương chính là nền tảng tinh thần nâng đỡ và tạo động lực cho con người vượt qua mọi khó khăn, thử thách.
Sau khi nhấn mạnh những phẩm chất của 'người đồng mình' bằng lời khen ngợi, tự hào, tác giả Y Phương đã kết thúc bài thơ bằng những lời dặn dò ân cần, trìu mến:
'Con ơi tuy chân thật tự lòng mình
Lên đường
Không bao giờ bé nhỏ được
Nghe con.'
Trong những câu thơ ẩn chứa tình thương, chúng ta cảm nhận được niềm tin, hy vọng mà người cha đã truyền đi. Đó là ước mong khi trưởng thành, tự tin 'Lên đường' bước đi trên con đường cuộc sống, người con vẫn mang trong mình những phẩm chất của 'người đồng mình' và 'không bao giờ được bé nhỏ' để có đủ lòng can đảm, kiên cường vượt qua mọi khó khăn, thử thách của cuộc sống. Lời dặn dò vì thế trở thành một bài học quý giá và có ý nghĩa giáo dục sâu sắc đối với thế hệ trẻ trong mọi thời đại.
Bằng tài năng trong việc sử dụng ngôn từ và hình ảnh, tác giả Y Phương đã làm nổi bật những phẩm chất cao quý của 'người đồng mình'. Thể thơ tự do phản ánh được lối sống tự do, tư duy sáng tạo của người miền núi cùng với giọng điệu thơ linh hoạt, tinh tế.
...