Đây là tài liệu hữu ích mà chúng tôi tổng hợp từ những bài văn mẫu xuất sắc nhất của học sinh trên cả nước. Hy vọng rằng qua tài liệu này, các em đã có thêm những kiến thức để viết văn tốt hơn.
Kỹ thuật sáng tạo trong việc xây dựng hình ảnh thơ trong các bài thơ Đồng chí và Ánh Trăng
Trong cuộc gặp gỡ với các nhà văn, nghệ sĩ ở chiến khu Việt Bắc, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định: Văn hóa cũng là một mặt trận và các nghệ sĩ của chúng ta cũng là chiến sĩ trên mặt trận đó. Theo lời dạy của Bác, không ít nhà văn, nhà thơ đã vừa cầm bút vừa cầm súng. Tài năng của họ đã được rèn luyện và phát triển qua những cuộc chiến đấu dũng cảm chống lại sự xâm lược của đối phương.
Trong thời kỳ 9 năm đấu tranh chống thực dân Pháp, bài thơ Đồng chí của Chính Hữu đã đánh dấu một bước tiến quan trọng trong sự phát triển của thơ ca hiện đại ở Việt Nam. Đây là lần đầu tiên mà bức tranh về Chủ tịch Hồ Chí Minh được vẽ bằng từ ngữ sống động thông qua câu chuyện của nhân vật về bản thân và đồng đội.
Bài thơ bắt đầu bằng một giai điệu tâm trạng đơn giản, chân thành.
Quê hương ta là biển, đồng ruộng mặn mòi,
Làng quê nghèo khó, cày cấy trên những cánh đồng đá
Anh em xa lạ, từng người một nơi
Chúng ta gặp nhau, không có sự hẹn hò trước
Vũ khí gần nhau, đầu sát cạnh đầu,
Trong những đêm lạnh, chúng ta cùng nằm chung một chiếc chăn, trò tri kỉ.
Đồng chí!
Đó là những lời tâm sự của hai lính xa quê trong những khoảnh khắc nghỉ ngơi sau những ngày dài đi quân ngựa mệt mỏi hoặc sau những trận đánh gay cấn tiêu diệt địch.
Đáp lại tiếng gọi của sông núi, hàng triệu thanh niên nông dân tình nguyện tham gia quân đội, chiến đấu để bảo vệ chủ quyền độc lập tự do thiêng liêng của Tổ quốc. Trong cuộc sống chiến đấu đầy gian khổ, chiến sĩ chúng ta đoàn kết, gắn bó chặt chẽ với nhau. Một tình bạn mới mẻ ra đời và ngày càng trở nên sâu đậm, thiêng liêng. Đó chính là tình đồng chí.
Nhà thơ Chính Hữu thể hiện sự nhạy cảm khi nhận ra rằng tình cảm và câu chuyện về quê hương có thể làm cho những người ban đầu xa lạ dễ dàng gần gũi và hiểu nhau hơn. Quê hương anh là một vùng đất ven biển mặn mà, đồng chua. Làng tôi nằm ở vùng trung du. Dù sinh ra và lớn lên trong những nơi quê nghèo, nhưng chúng ta vẫn đọng lại trong lòng mình tình yêu nước và lòng thương nòi. Bước ra khỏi những hàng tre, cây đa, giếng nước, mái nhà tranh, ruộng đồng, vườn nhỏ,... chúng ta cùng nhau chiến đấu chống lại sự xâm lăng.
Trong bài thơ Đồng chí, hình ảnh được tạo ra có đặc tính trừu tượng cao. Nhà thơ tập trung vào việc thể hiện những đặc điểm chung của nhiều người lính nông dân cầm súng để tạo nên bức tranh về chiến sĩ Vệ quốc đầu tiên của cuộc kháng chiến:
Áo anh rách vá
Quần tôi thưa thớt mảnh vá
Miệng cười buốt giá
Chân không đôi giày
Thân thiện nhau, tay nắm lấy tay.
Dù gặp gian khổ và thiếu thốn, chúng ta vẫn giữ vững niềm vui và tin tưởng vào chiến thắng của cuộc cách mạng. Đó chính là tinh thần lạc quan và dũng cảm của người Việt Nam qua thời gian.
Chính Hữu kết thúc bài thơ bằng một hình ảnh thơ tuyệt đẹp:
Hôm nay rừng hoang mờ sương
Đứng cạnh nhau chờ đợi giặc tới
Trăng treo cao, súng đang bên cạnh.
Sự kết hợp giữa hiện thực khắc nghiệt và lãng mạn bay bổng đã tạo ra một hình ảnh đặc biệt đáng nhớ. Trong đêm đen chờ đợi giặc, trăng đã lên ngang tầm súng. Bất ngờ, các chiến sĩ phát hiện một điều thú vị: Đầu súng trở nên như một điểm nhấn vui tươi, mang theo nhiều ý nghĩa sâu sắc. Trong sự đối lập giữa súng và trăng, người đọc vẫn cảm nhận được sự gắn kết. Súng tượng trưng cho ý chí quyết định chiến thắng trước kẻ thù xâm lược. Trăng tượng trưng cho cuộc sống yên bình và hạnh phúc. Khẩu súng và ánh trăng là biểu tượng gắn liền với lịch sử xây dựng và bảo vệ tổ quốc của dân tộc Việt Nam, mãi mãi kiêu hãnh và vinh quang.
Đúng với tên gọi, bài Đồng chí là một bức tranh sống động về chân dung anh bộ đội Cụ Hồ ở giai đoạn đầu kháng chiến chống Pháp. Chính Hữu đã vẽ nên bức tranh đó bằng tình yêu và lòng kính trọng sâu sắc.
Trong bài Ánh trăng của Nguyễn Duy viết vào năm 1978, khi đất nước đã thống nhất hòa bình được ba năm, hình ảnh thơ được xây dựng bằng sự kết hợp giữa ký ức và trữ tình. Bài thơ như một lời nhắc nhở của tác giả về những thời gian gian lao đã trải qua, về cuộc sống gắn bó với thiên nhiên, đất nước dịu dàng và hiền hậu. Nó nhấn mạnh về ý nghĩa giữ gìn nguồn cội, tri ân và thủy chung với quá khứ.
Hình ảnh của vầng trăng trong bài thơ mang nhiều ý nghĩa sâu sắc. Trăng liên quan đến kỷ niệm tuổi thơ trên quê hương thân thương. Trăng cũng đồng nghĩa với cuộc sống chiến đấu khó khăn, vất vả, luôn đương đầu với kẻ thù:
Khi còn bé sống bên cánh đồng
Với dòng sông, rồi lại với biển
Thời chiến tranh, ở rừng sâu
Vầng trăng trở thành tri kỉ
Trăng là biểu tượng của thiên nhiên vĩnh cửu, không bao giờ tàn phai. Giữa cuộc chiến tranh ác liệt, vầng trăng như là một nguồn an ủi, làm dịu đi tâm hồn của người lính, khơi dậy trí tưởng tượng bay cao, vượt lên trên nỗi đau khổ, cái chết, thôi thúc lòng khao khát bình yên. Con người và thiên nhiên hòa quyện thành một:
Liên kết với thiên nhiên
Tinh thần tự do như cỏ cây
Như chưa bao giờ quên
Vầng trăng đậm tình nghĩa
Dòng cảm xúc trìu mến của nhà thơ dội vào lời kể theo thứ tự thời gian: vầng trăng ký ức từ tuổi thơ, vầng trăng của những chiến sĩ, và bây giờ là vầng trăng của cuộc sống hòa bình.
Trong dòng thơ cuối cùng, âm điệu rưng rưng, đầy ân hận và tự trách, như là hối tiếc vì đã quên mất vầng trăng:
Từ khi trở về thành phố
Quen với ánh đèn, gương soi
Vầng trăng qua ngõ như người xa lạ
Chợt bước qua như dạo chơi qua phố
Ở đây, vầng trăng không chỉ đơn thuần là biểu tượng của thiên nhiên mà còn là biểu tượng cho quá khứ đậm đà tình cảm. Mặc dù vầng trăng vẫn không đổi nhưng lòng người đã thay đổi. Vầng trăng tình nghĩa dường như đã in sâu vào tâm trí nhưng giờ đây lại được nhìn bằng ánh mắt lạnh lùng như một người xa lạ đi ngang qua.
Mất điện đột ngột làm cho căn phòng tối om, và lúc đó, vầng trăng vẫn hiển hiện, toả sáng, soi rõ những góc khuất trong tâm hồn con người. Ánh trăng đánh thức những điều tốt đẹp bị che khuất bởi cuộc sống ồn ào hiện tại:
Ngẩng đầu nhìn trăng
Có điều gì đau lòng
Như đồng bãi, như biển rộng
Như sông, như rừng xanh
Trăng tròn tỏa sáng
Làm sao thời người vô tình
Ánh trăng im lặng và khắc khoải
Đủ để ta rụt rè.
Trong bài thơ Đồng chí của Chính Hữu, hình tượng người lính cách mạng và sự gắn bó của họ được thể hiện qua những chi tiết, hình ảnh ngôn ngữ giản dị, chân thực, cô đọng mà sâu sắc. Ánh trăng là biểu tượng của tâm trạng, là suy tư riêng của Nguyễn Duy về quá khứ và hiện tại, được thể hiện thông qua giọng điệu tự nhiên, hình ảnh vầng trăng giàu biểu cảm.
Hai bài thơ sáng tạo trong hai thời kỳ khác nhau nhưng đều tập trung vào đề tài về người lính. Đặt hai hình ảnh thơ song song, chúng bổ sung cho nhau để hoàn thiện một bức tranh tinh thần đẹp và phong phú về cuộc sống của những người lính, những người chiến đấu để bảo vệ đất nước và nhân dân.