Đánh giá về khổ thơ đầu và khổ thơ cuối Viếng lăng Bác gồm 5 mẫu tốt nhất, cùng với cấu trúc chi tiết, giúp các học sinh lớp 9 hiểu rõ hơn về niềm xúc động thiêng liêng, niềm tự hào và nỗi đau xót mà nhà thơ Viễn Phương dành cho Bác.
Trái ngược với khổ đầu, khổ thơ cuối của bài Viếng lăng Bác là nơi chứa đựng những ước mơ và hy vọng của nhà thơ. Hãy đồng hành cùng các bạn trong bài viết dưới đây của Mytour để khám phá thêm nhiều ý tưởng mới, từ đó tiếp tục nâng cao kiến thức về môn Văn 9.
Tóm tắt cấu trúc Cảm nhận về khổ thơ đầu và khổ thơ cuối trong bài thơ Viếng lăng Bác
1. Khai mạc
- Tác giả: Viễn Phương
- Tác phẩm: Viếng lăng Bác
2. Nội dung chính
* Phần mở đầu:
- Người con từ miền Nam về thăm lăng Bác
- Con và Bác là cách gọi ấm áp, thân thương phản ánh nét văn hóa Nam Bộ -> Thể hiện lòng kính yêu và gần gũi với Bác.
- Tác giả chọn từ 'thăm' thay cho 'viếng' để làm dịu đi nỗi đau mất mát nhưng vẫn không thể giấu được nỗi xúc động trước sự ra đi của một tâm hồn vĩ đại.
- Điều này phản ánh cảm xúc chung của người Việt trước sự ra đi của một người lãnh tụ yêu quý.
- Dưới hàng tre sương mờ phất phơ.
- Đây là hình ảnh đầu tiên tác giả gặp được
- Hình ảnh hàng tre trong sương đã làm cho câu thơ trở nên sống động và mơ màng. Khi đến lăng Bác, tác giả gặp lại hình ảnh thân thuộc của đất Việt: cây tre. Cây tre trở thành biểu tượng của dân tộc Việt Nam. Việc nhìn thấy biểu tượng của dân tộc càng khiến tác giả nhớ về Bác hơn.
- Bão táp mưa sa là một câu thành ngữ tượng trưng cho khó khăn và gian khổ. Tuy nhiên, dù gian khó đến đâu, cây tre vẫn đứng thẳng. Điều này thể hiện ý chí bất khuất của dân tộc, không có khó khăn nào có thể làm cho họ khuất phục.
* Phần kết thúc
- Trái tim cảm ơn ngàn thu.
- Âm thanh của từ 'thương' ở miền Nam là biểu hiện toàn bộ tình cảm mà người dân miền Nam dành cho Bác.
- 'Thương' có nghĩa là yêu, là tôn trọng, là quý trọng cuộc đời cao quý và vĩ đại của Bác, người đã dành hết tâm huyết cho dân tộc, cho đất nước và cho sự nghiệp giải phóng. Đó là những cống hiến vô cùng vĩ đại.
=> Câu thơ thể hiện một cách chân thành sâu sắc sự xót thương vô hạn trước sự chia ly, biểu hiện qua dòng lệ tuôn trào.
Ước muốn làm con chim hót quanh lăng Bác
Ước muốn làm đóa hoa tỏa hương khắp nơi
Ước muốn làm cây tre trung hiếu ở đây
- Mong ước của tác giả
- Điều này được biểu hiện qua cụm từ 'ước muốn làm' được nhắc lại ba lần kèm theo hình ảnh liên tiếp của con chim, đoá hoa và cây tre, nhấn mạnh vào ước mong sâu xa của nhà thơ muốn Bác yên lòng và muốn đền đáp công ơn của Người.
=> Nguyện ước của nhà thơ, chân thành và sâu sắc, cũng là cảm xúc của hàng triệu người dân miền Nam khi họ rời xa lăng Bác sau những lần đến thăm Người.
* Tương quan giữa 2 khổ thơ
Nếu khổ thơ đầu là lúc tác giả đến, thì khổ thơ cuối là khi tác giả rời đi và nhớ mãi. Khổ đầu mô tả những gì tác giả trực tiếp quan sát (hiện thực), trong khi đó khổ cuối chứa đựng những mong muốn, ước ao.
-> Tuy nói về hai thời điểm khác nhau, nhưng cả hai khổ thơ đều thể hiện lòng yêu quý và tôn trọng đối với vị lãnh tụ vĩ đại của dân tộc.
3. Phần kết: Tổng kết vấn đề, thể hiện cảm xúc
Cảm nhận khổ thơ đầu và khổ thơ cuối bài thơ Viếng lăng Bác - Mẫu 1
Trong bài thơ Viếng lăng Bác của nhà thơ Viễn Phương, tác giả đã diễn đạt những dòng thơ cảm động về việc ra viếng thăm người cha già kính yêu của dân tộc:
'Con ở miền Nam đến thăm lăng Bác
Đã thấy trong sương hàng tre bát ngát
Ôi! Hàng tre xanh xanh Việt Nam
Bão táp mưa sa, đứng thẳng hàng'
Bài thơ mở màn bằng câu thơ chân thành về việc ra viếng lăng Bác của một con người miền Nam 'Con ở miền Nam đến thăm lăng Bác'. Cách gọi 'con-Bác' thể hiện sự gần gũi và kính trọng như của một con trai đối với một người cha vĩ đại. Cách gọi này gợi nhớ đến những câu thơ:
'Bác nhớ miền Nam, nỗi nhớ nhà
Miền Nam mong Bác, nỗi mong cha'.
Đối với mỗi người con miền Nam cũng như toàn thể dân tộc Việt Nam, Bác Hồ là vị cha già bao dung ôm trọn đất nước vào lòng. Tác giả đến thăm lăng Bác và chọn từ 'thăm' thay vì 'viếng' như một cách nói giảm nói tránh. Điều này khiến người đọc cảm thấy như đang thăm người thân, trong trường hợp này là một con trai miền Nam đến thăm người cha già yêu dấu của mình. Câu thơ thứ ba là một lời khen ngợi của tác giả 'Ôi! Hàng tre xanh xanh Việt Nam'. Câu thơ như một tiếng ca hân hoan và tự hào về biểu tượng của dân tộc và con người Việt Nam: tre Việt Nam mọc quanh lăng Bác. Tre Việt Nam là biểu tượng của nhân dân Việt Nam qua nhiều thế hệ với phẩm chất 'Bão táp mưa sa, đứng thẳng hàng'. Bão táp mưa sa là biểu tượng của những thời kỳ khó khăn, gian khổ của nhân dân Việt Nam. Tuy nhiên, trong hoàn cảnh đó, con người Việt Nam vẫn không sợ hãi mà chính là những cây tre kiên cường, dũng mãnh, nhân từ với những phẩm chất tốt đẹp và tre Việt Nam cũng như vậy. Ở khổ thơ cuối, nhà thơ Viễn Phương viết:
'Mai quay về miền Nam, lòng tràn đầy nước mắt
....
Mong muốn trở thành cây tre, trung hiếu tại đây'.
Tâm trạng bịn rịn, lưu luyến không muốn rời xa Bác của nhà thơ Viễn Phương được thể hiện trong khổ thơ cuối này. Cụm từ 'tràn đầy nước mắt' diễn đạt một nỗi buồn sâu thẳm không nguôi trong lòng tác giả đối với sự ra đi của Bác và việc sắp phải xa Bác. Khi sắp phải trở về miền Nam, tâm trạng của nhà thơ giống như tâm trạng của một người con chuẩn bị phải xa cha, đau buồn tột cùng. Tiếp theo, tác giả sử dụng điệp ngữ 'mong muốn trở thành' để thể hiện khát vọng muốn được hóa thân vào những thứ nhỏ bé để mãi ở bên Bác. Những hình ảnh giản dị như 'con chim hót, đóa hoa tỏa hương' thể hiện khát khao cống hiến, muốn dâng hiến cho Bác. Đây là một ước mơ vô cùng giản dị nhưng cao quý của tác giả. Quan trọng hơn, tác giả muốn trở thành 'cây tre, trung hiếu'. Hình ảnh cây tre lại một lần nữa xuất hiện. Cây tre trung hiếu dường như là biểu tượng của nhân dân Việt Nam với những phẩm chất giản dị, kiên cường, trung hiếu.
Dường như, tác giả khao khát được hóa thân vào những điều giản dị để được mãi mãi ở bên Bác, được Bác soi sáng cho con đường đi của dân tộc Việt Nam. Những cảm xúc của tác giả là những cảm xúc vô cùng chân thực, giản dị nhưng cao quý, đó là tâm trạng của một người con trước vị cha già yêu dấu của dân tộc.
Cảm nhận khổ 1 và 4 bài thơ Viếng lăng Bác - Mẫu 2
Khổ thơ đầu diễn đạt cảm xúc của nhà thơ khi đến lăng Bác, đứng trước cảnh vật bên ngoài lăng. Câu thơ đầu 'Con ở miền Nam đến thăm lăng Bác' như một thông điệp giản dị nhưng chứa đựng nhiều tình cảm thân thiết. Tác giả gọi 'con' và 'Bác' để thể hiện sự gần gũi và tôn trọng. Đây là cách gọi thân thuộc với Bác, nhưng với Viễn Phương, nó vẫn mang sắc thái riêng, bởi ông là người con của miền Nam, miền Nam anh dũng, miền Nam trong trái tim Bác. Nhà thơ không nói 'viếng' mà là 'thăm', như con đến thăm cha, thăm nơi Bác nghỉ ngơi. Nỗi đau như cố giấu mà giọng thơ vẫn ngậm ngùi.
Hình ảnh đầu tiên và cũng là ấn tượng sâu sắc với tác giả về phong cảnh xung quanh lăng Bác là hình ảnh hàng tre. Như thể lòng nóng nảy, hồi hộp, nhà thơ đã đến sớm, từ “trong sương”, và ở đây, nhà thơ gặp một cảnh tượng rất thân thương của quê hương Việt Nam: cây tre. Lăng Bác như nằm trong dòng tre, giữa dòng tre. Dãy tre “bát ngát” trải dài quanh lăng, “xanh xanh” như màu đất nước Việt Nam, hàng tre sống trong mọi không gian, thời gian: “Bão táp mưa sa đứng thẳng hàng”. Cây tre từ lâu đã là biểu tượng của sức sống bền bỉ, kiên cường của dân tộc. Trong cái nhìn xúc động của nhà thơ, hàng tre vừa thực vừa mộng, lung linh trong tưởng tượng. Dãy tre ấy cũng là hình ảnh cây cối mang màu sắc của đất nước đến đây bảo vệ giấc ngủ yên bình cho Người. Hàng tre như những chiến sĩ đang trinh giữ cho Bác. Đó cũng là hình ảnh của dân tộc kiên cường, bất khuất, gắn bó, trung thành bên Bác. Hình ảnh hàng tre như khúc dạo đầu đã diễn đạt bao xúc động, lòng thành kính của nhà thơ khi đến bên lăng Người.
Khổ cuối (khổ thơ thứ tư) là cảm xúc của nhà thơ khi rời đi. Nhà thơ lưu luyến mong muốn ở mãi bên lăng Bác. Lòng nhớ thương, đau xót dâng trào khi phải chia tay đã không thể kìm nén được: “Mai quay về miền Nam, lòng đầy nước mắt'. Tình cảm ấy là động lực cho ước mơ, nhà thơ muốn được sống, hoà nhập vào cảnh vật ở bên làng Bác:
Muốn trở thành con chim hót quanh lăng Bác
Muốn trở thành đóa hoa tỏa hương đâu đây
Muốn trở thành cây tre trung hiếu chốn này.
Hình ảnh cây tre tái diễn tạo nên ấn tượng sâu sắc và làm cho dòng cảm xúc trở nên trọn vẹn. Cây tre khách thể đã hòa mình cùng cây tre chủ thể. Hình ảnh này tiết lộ lòng kính yêu và trung thành không lối thoát với Bác, theo đuổi con đường của Người. Các điều muốn được thể hiện thông qua các điệp ngữ “muốn trở thành” cùng các hình ảnh thơ đằng sau tạo ra một bản nhạc thơ rộn ràng, khao khát dâng cao. Bài thơ dường như kết thúc trong sự xa cách của không gian nhưng vẫn giữ được sự gần gũi trong tình cảm, ý chí. Điều này cũng là những tâm tư chân thành của mỗi người khi đến viếng Bác, đặc biệt là những người con miền Nam thường xa cách không gian, cũng như những ai chưa từng đặt chân đến lăng Bác nhưng lòng vẫn hướng về Người.
Cảm nhận khổ 1 và 4 bài thơ Viếng lăng Bác - Mẫu 3
Trong các tác phẩm văn viết về Bác Hồ, bài thơ Viếng lăng Bác của Viễn Phương là một tác phẩm xuất sắc, gợi cho tôi nhiều cảm xúc nhất. Bài thơ toát lên niềm thương cảm vô tận, lòng kính trọng và biết ơn sâu sắc của nhà thơ đối với Bác Hồ vĩ đại.
Câu thơ khai mạc 'Con ở miền Nam ra thăm lăng Bác' như một lời nói rất cảm động của một đứa con đi xa trở về viếng thăm người cha kính yêu. Tình cảm đó là tình cảm chung của những người con và chiến sĩ miền Nam dành cho vị lãnh tụ vĩ đại của dân tộc.
Nhà thơ đứng lặng im, suy tư từ xa nhìn thấy lăng Bác. Hàng tre gợi lại trong anh nhiều cảm xúc và tưởng tượng sâu xa. Màu xanh của tre là màu quen thuộc của quê hương Việt Nam luôn gắn bó với tâm hồn của Bác. Bác đã 'đi xa' nhưng tâm hồn Bác vẫn liên kết chặt chẽ với quê hương xứ sở:
Ôi! Hàng tre xanh xanh Việt Nam
Bão táp mưa sa đứng thẳng hàng.
Cây tre, 'hàng tre xanh xanh'... 'đứng thẳng hàng' hiện hữu một cách mờ nhạt trước lăng Bác. Cây tre đã trở thành biểu tượng ca ngợi dáng đứng của con người Việt Nam: kiên cường, bất khuất, mộc mạc, thanh cao... Hình ảnh cây tre trong lời thơ của Viễn Phương tôn vinh phẩm chất cao quý của Bác Hồ cũng như của người dân Việt Nam trong suốt bốn nghìn năm lịch sử.
Trong thơ ca hiện đại của Việt Nam, có nhiều bài thơ đề cập đến hình ảnh mặt trời. 'Mặt trời chân lí chói qua tim' (Từ ấy - Tố Hữu). 'Mặt trời của bắp thì nằm trên đồi - Mặt trời của mẹ, em nằm trên lưng' (Nguyễn Khoa Điềm). Viễn Phương có một cách diễn đạt rất sáng tạo, mang lại cho tôi nhiều cảm xúc thú vị:
Hàng ngày mặt trời đi qua trên lăng,
Thấy một mặt trời trong lăng rất đỏ.
Ở đây, 'mặt trời... rất đỏ' là biểu tượng ẩn dụ cho đạo đức, lòng yêu nước, tinh thần cách mạng sáng ngời của Bác. Mặt trời thiên nhiên luôn vĩnh hằng, giống như tên tuổi và sự nghiệp cách mạng của Bác Hồ mãi mãi bất tử.
Viễn Phương đã so sánh hàng người vô tận đến viếng lăng Bác như 'Kết tràng hoa dâng bảy mươi chín mùa xuân '. Mỗi người Việt Nam đến viếng Bác với tấm lòng kính yêu và biết ơn vô biên. Mọi người đều muốn dâng lên Người những thành tựu tốt đẹp, những bông hoa tươi thắm nảy nở trong sản xuất, chiến đấu và học tập. Hương hoa của tâm hồn, hương hoa của đất nước được dâng lên Người. Lối diễn đạt của Viễn Phương rất lôi cuốn và đầy xúc động: lòng thương tiếc, lòng kính yêu Bác Hồ kết hợp với niềm tự hào của nhân dân ta - nhớ Bác và tuân theo Di chúc của Người.
Khổ cuối, cảm xúc thơ dồn nén, sâu lắng, khiến lòng tôi xúc động. Lời hứa thiêng liêng của nhà thơ đối với hương hồn Bác trước khi trở về miền Nam rất chân thành. Nhà thơ viết: 'Con ở miền Nam ra thăm lăng Bác'... sau đó, anh lại nghẹn ngào nói: 'Mai về miền Nam thương trào nước mắt'... Biết bao lưu luyến, buồn thương! Ra về giữa muôn dòng lệ 'thương trào nước mắt'. Xúc động tột cùng, nhà thơ muốn hóa thân thành 'con chim hót', thành 'đóa hoa tỏa hương', thành 'cây tre trung hiếu' để được đền ơn đáp nghĩa, để được mãi mãi sống bên Người. Ba lần nhà thơ nhấc lại hai chữ 'muốn làm' như thế giọng thơ trở nên thiết tha, cảm động. Câu thơ của Viễn Phương không chỉ giàu hình tượng mà còn chứa đựng biểu cảm sâu sắc, khiến tôi cảm nhận được tình thương và biết ơn vô hạn đối với Bác Hồ kính yêu. Trong câu thơ của Viễn Phương, dù có tiếng khóc nhưng không làm chúng ta trở nên yếu đuối, mà ngược lại, nó đã làm cho tâm hồn chúng ta bay cao hơn:
Xin ước ao cùng Người vươn tới mãi
Vững chắc như dãy Trường Sơn vô biên'
(Bác ơi - Tố Hữu)
Mọi người đều cảm thấy rằng họ phải sống một cuộc sống đáng sống, phải sống đẹp để trở thành 'cây tre trung hiếu' của đất nước và quê hương:
Mai về miền Nam, lòng trào nước mắt,
Muốn hóa thân thành con chim hót quanh lăng Bác,
Muốn trở thành đóa hoa tỏa hương nơi này,
Muốn làm cây tre trung hiếu tại đây.
'Cây tre trung hiếu' là một biểu tượng sáng tạo, thể hiện đạo lý cao quý của con người Việt Nam, trung thành với đất nước, hiếu thảo với dân tộc, luôn kiên trì với sự nghiệp cách mạng của Bác.
Bác Hồ đã ra đi, nhưng hình ảnh của Người, công cuộc cách mạng và đức tính cao quý của Người vẫn sống mãi trong tâm hồn của dân tộc. Bài thơ của Viễn Phương đã thể hiện một cách chân thành và tinh tế tình cảm của hàng triệu người Việt Nam dành cho lãnh tụ Hồ Chí Minh.
Cảm nhận khổ 1 và 4 bài thơ Viếng lăng Bác - Mẫu 4
“Viếng lăng Bác” là tâm hồn của nhà thơ đối với Bác Hồ kính yêu trong chuyến ra Bắc viếng lăng Bác cùng đoàn cán bộ miền Nam năm 1976, khi đất nước thống nhất. Bài thơ thể hiện sự xúc động thiêng liêng, thành kính, niềm tự hào và nỗi đau xót của nhà thơ khi lần đầu tiên được viếng Bác. Tình cảm ấy được diễn đạt chân thành và cảm động qua khổ 1 và khổ 4 của bài thơ.
Mở đầu bài thơ, Viễn Phương không kìm được cảm xúc của một người con đã đi từ một nơi rất xa, cả về không gian và thời gian, giờ đây giây phút được trở về bên Bác, được nhìn ngắm nơi Bác yên nghỉ, hồi tưởng về quá khứ xa xăm:
“Con ở miền Nam ra thăm lăng Bác
Đã thấy trong sương hàng tre bát ngát
Ôi! Hàng tre xanh mơn mởn Việt Nam
Bão táp mưa sa, đứng thẳng hàng”
Câu thơ mở đầu như một lời kêu gọi ngắn gọn, lời lẽ đơn giản nhưng chứa đựng trong đó biết bao tâm hồn sâu sắc. Nhà thơ nói về việc ở miền Nam, ở tuyến đầu của Tổ quốc, nơi máu đổ suốt mấy chục năm qua. Điều này không chỉ đơn giản là việc thăm một công trình kiến trúc, không chỉ là việc chiêm ngưỡng di tích của một vĩ nhân mà là việc tìm về gốc, tìm về nguồn, máu chảy về tim, sông trở về nguồn.
Chữ “con” đầu câu thơ nghe thật thân mật và cảm động. Trong ngôn từ của nhân loại không có chữ nào lại xúc động và sâu nặng bằng từ “con”. Cách xưng hô này thật gần gũi, thân thiết, ấm áp tình thân thương mà vẫn rất mực thành kính, thiêng liêng. Đồng thời, cũng diễn tả tâm trạng xúc động của người con khi trở về thăm cha sau bao nhiêu năm xa cách.
Nhà thơ sử dụng từ “thăm” thay cho từ “viếng” cũng là một dụng ý đặc biệt. “Viếng” là đến chia buồn với thân nhân người chết. còn “thăm” là gặp gỡ, trò chuyện với người đang sống. Cách nói giảm, nói tránh đã làm giảm nhẹ nỗi đau thương mất mát. Lời thơ khẳng định Bác vẫn còn mãi trong trái tim nhân dân miền Nam, trong lòng dân tộc. Đồng thời gợi sự thân mật, gần gũi: Con về thăm cha – thăm người thân ruột thịt, thăm chỗ Bác nằm, thăm nơi Bác ở để thỏa lòng khát khao mong nhớ bấy lâu.
Câu thơ không có một dụng công nghệ thuật nào nhưng lại vô cùng gợi cảm, dồn nén biết bao cảm xúc. Cách xưng hô và cách dùng từ của Viễn Phương giúp cho người đọc cảm nhận được tình cảm xúc động, nhớ thương của một người con đối với cha. Đó không chỉ là tình cảm riêng của nhà thơ mà còn là tình cảm chung của dân tộc Việt Nam. Thế hệ này tiếp nối thế hệ khác song tất cả đều có chung một tình cảm như thế với Bác Hồ kính yêu.
Hình ảnh hàng tre bát ngát mở ra không gian rộng lớn, khoáng đạt. Hàng tre tiêu biểu cho mọi miền quê hương đất nước, biểu tượng tâm hồn của Bác luôn rộng mở trước thiên nhiên, là biểu tượng cho tinh hoa, cho đất nước, cho sức sống bền bỉ của dân tộc Việt Nam. Thành ngữ “bão táp mưa sa” nhằm chỉ những khó khăn, gian khổ, những vinh quang và cay đắng mà nhân dân ta đã vượt qua trong trường kì dựng nước và giữ nước, đặc biệt là trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mĩ vừa qua. “Đứng thẳng hàng” là tinh thần đoàn kết đấu tranh, chiến đấu anh hùng, không bao giờ khuất phục, tất cả vì độc lập tự do của nhân dân Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng và Bác Hồ.
Hàng tre bát ngát ấy như những đội quân danh dự cùng với những loài cây khác đại diện cho những con người ở mọi miền quê trên đất nước Việt Nam tụ họp về đây sum vầy với Bác, trò chuyện và bảo vệ giấc ngủ cho Người. Nơi Bác nghỉ vẫn luôn xanh mát bóng tre xanh. Chỉ một khổ thơ ngắn thôi nhưng cũng đủ để thể hiện những cảm xúc chân thành, thiêng liêng của nhà thơ và cũng là của nhân dân đối với Bác kính yêu.
Nếu ở khổ thơ đầu, tôi tự giới thiệu mình là người con miền Nam ra thăm Bác thì trong khổ thơ cuối, tôi lại đề cập đến sự chia xa Bác. Nghĩ đến ngày mai về miền Nam, xa Bác, xa Hà Nội, tình cảm của tôi không kìm nén, ẩn giấu trong lòng mà được bộc lộ thể hiện ra ngoài:
“Mai về miền Nam thương trào nước mắt
Muốn làm con chim hót quanh lăng Bác
Muốn làm đoá hoa toả hương đâu đây
Muốn làm cây tre trung hiếu chốn này…”
Câu thơ “Mai về miền Nam thương trào nước mắt” như một lời giã biệt. Lời nói giản dị diễn tả tình cảm sâu lắng. Từ “trào” diễn tả cảm xúc thật mãnh liệt, luyến tiếc, bịn rịn không muốn xa nơi Bác nghỉ. Đó là không chỉ là tâm trạng của tác giả mà còn là của muôn triệu trái tim khác. Được gần Bác dù chỉ trong giây phút nhưng không bao giờ ta muốn xa Bác bởi Người ấm áp quá, rộng lớn quá.
Mặc dù lưu luyến muốn được ở mãi bên Bác nhưng tôi cũng biết rằng đến lúc phải trở về miền Nam. Và chỉ có thể gửi tấm lòng mình bằng cách muốn hóa thân, hòa nhập vào những cảnh vật quanh lăng để được luôn ở bên Người trong thế giới của Người:
“Muốn làm con chim hót quanh lăng Bác
Muốn làm đoá hoa toả hương đâu đây
Muốn làm cây tre trung hiếu chốn này…”
Điệp ngữ “mong muốn làm” cùng với hình ảnh đẹp của thiên nhiên như “chim hót”,”hoa nở”,”cây tre” đã thể hiện ước muốn mãnh liệt, sâu sắc của tác giả. Tác giả mong ước được hóa thân thành con chim nhỏ vang tiếng hót vui nhộn quanh lăng Bác, trở thành đóa hoa toả hương, tô điểm cho vườn hoa xung quanh lăng. Đặc biệt là ước nguyện “Muốn trở thành cây tre trung hiếu ở đây” để thêm vào hàng tre bát ngát, canh giữ giấc ngủ bình yên của Người.
Hình ảnh của cây tre có tính chất tượng trưng lại một lần nữa nhấn mạnh cấu trúc song song của bài thơ. Hình ảnh hàng tre quanh lăng Bác được lặp lại ở câu thơ cuối cùng như một tầng ý mới, tạo ra ấn tượng sâu sắc, tăng cường cảm xúc đầy đặn. “Cây tre trung hiếu” là biểu tượng ẩn dụ thể hiện lòng tôn kính, sự trung thành vô hạn với Bác, nguyện mãi mãi đi theo con đường cách mạng mà Người đã dẫn dắt. Đó là lời hứa kiên trì của riêng tác giả và cũng là ý muốn của cả miền Nam, của mỗi người chúng ta nói chung với Bác.
Kết thúc song song khiến bài thơ trở nên như một tiếng khóc xót xa, nghẹn ngào trước sự ra đi của Bác, là sự nhớ thương không dứt, lòng kính trọng vô bờ của nhà thơ Viễn Phương và của toàn dân ta đối với Bác Hồ. Khổ thơ 1 và 4 của bài Viếng lăng Bác thành công tái hiện hình tượng vĩ đại của Bác Hồ qua những hình ảnh đẹp, nhịp điệu tình cảm và cảm xúc sâu lắng. Tiếng thơ vang mãi trong lòng người đọc.
Phân tích khổ thơ 1 và 4 của bài Viếng lăng Bác. Rút ra bài học liên quan đến bản thân
Bài thơ “Viếng lăng Bác” của nhà thơ Viễn Phương là một tác phẩm nổi tiếng, thể hiện tình cảm kính trọng của nhà thơ và nhân dân Việt Nam đối với Bác Hồ. Dưới đây là phân tích của khổ thơ 1 và 4 trong bài thơ:
Khổ 1:
Con từ miền Nam về viếng lăng Bác
Nhìn thấy trong sương hàng tre bát ngát
Ồ! Hàng tre xanh xanh Việt Nam
Bão táp mưa sa, đứng thẳng hàng.
Khổ thơ khai mạc bằng hình ảnh người con từ miền Nam về thăm lăng Bác, thể hiện lòng thành kính và tình cảm sâu sắc của nhân dân miền Nam dành cho Bác Hồ. Hình ảnh “hàng tre bát ngát” là biểu tượng của sự kiên cường, không khuất phục của dân tộc Việt Nam.
Khổ 4:
Mai trở về miền Nam, lòng đau nước mắt
Ao ước trở thành con chim hót quanh lăng Bác
Ao ước làm đóa hoa thơm phảng phất ở đây
Ao ước trở thành cây tre trung hiếu nơi này.
Khổ thơ kết thúc thể hiện sự nhớ nhung, tiếc nuối khi phải rời xa lăng Bác. Tác giả ước ao trở thành con chim, đóa hoa, cây tre để mãi ở bên Bác, thể hiện tình cảm yêu kính và lòng trung hiếu.
Bài học cho bản thân: Bài thơ “Viếng lăng Bác” mang đến cho chúng ta bài học về tình yêu quê hương, lòng kính trọng đối với Bác Hồ và lòng trung hiếu của người con đối với Tổ quốc. Đối với bản thân, bài thơ khuyến khích chúng ta phải luôn nhớ về công lao to lớn của Bác Hồ, cống hiến cho sự nghiệp giải phóng dân tộc, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Bài thơ cũng khích lệ chúng ta phải sống và làm việc theo tấm gương sáng của Bác, luôn giữ vững niềm tin, tình yêu quê hương và lòng trung hiếu với Tổ quốc.