TOP 10 bài Phân tích 6 câu thơ đầu của Kiều ở lầu Ngưng Bích hay và đặc sắc nhất, giúp học sinh lớp 9 hiểu được tâm trạng cô đơn, bất hạnh, đáng thương và tội nghiệp của nàng Kiều khi bị giam cầm ở lầu Ngưng Bích.
Chỉ với 6 câu thơ đầu của Kiều ở lầu Ngưng Bích, Nguyễn Du đã diễn đạt một cách sâu sắc về sự nhớ nhung người thân, gia đình qua giọng điệu đầy cảm xúc của Thúy Kiều. Hãy tham khảo thêm bài phân tích tâm trạng của Thúy Kiều, phân tích 8 câu thơ cuối.... Đến với bài viết này của Mytour để nâng cao kiến thức môn học Văn 9:
Dàn ý phân tích 6 câu thơ đầu trong đoạn trích Kiều ở lầu Ngưng Bích
1. Giới thiệu
Tổng quan về sáu câu thơ đầu trong đoạn trích của Kiều ở lầu Ngưng Bích: bức tranh về thiên nhiên trước lầu Ngưng Bích qua góc nhìn đầy cảm xúc của Thúy Kiều.
2. Nội dung chính
Bối cảnh của lầu Ngưng Bích:
Trước lầu Ngưng Bích mùa xuân tới,
Vẻ đẹp non nước, ánh trăng lấp lánh gần xa.
Bốn phía mênh mông xa xôi,
Cát vàng, cồn trắng, bụi hồng xa xăm.
Môi trường: rộng lớn với “non xa”, “trăng gần” ⇒ sự mở rộng của môi trường làm cho con người cảm thấy cô đơn, lạc lõng hơn.
Từ “xa trông”: thể hiện rõ tâm trạng chờ đợi, hoang mang.
⇒ Không gian vô tận, bao la.
Từ “khóa xuân”: Thúy Kiều nhận ra tuổi trẻ đã qua, ý thức được sự xa xôi khi bước vào lầu xa.
Tâm trạng của Thúy Kiều trước vẻ đẹp mênh mông, bát ngát của không gian.
Đám mây buồn, đèn sáng soi trong đêm dài,
Nửa lòng, nửa cảnh như phân chia tấm trái tim.
Từ “bẽ bàng”: biểu hiện sự thất vọng, sự buồn rầu, sự chán chường kết hợp với nỗi đau đang tràn ngập trong tâm trạng của Kiều.
3. Tóm tắt
- Sáu câu thơ đầu tạo ra bức tranh sâu sắc về tâm trạng cô đơn, tuyệt vọng của Thúy Kiều.
Phân tích sáu câu thơ đầu của Kiều ở lầu Ngưng Bích
Trước hết sáu câu thơ đầu tái hiện tâm trạng cô đơn, bất hạnh, đáng thương và tội nghiệp của Kiều trước thiên nhiên ở lầu Ngưng Bích. Ngay từ câu thơ mở đầu: 'Trước lầu Ngưng Bích khóa xuân', Nguyễn Du đã làm nổi bật cảnh ngộ đáng thương của Kiều. 'Khóa xuân' ẩn chỉ việc Kiều bị giam giữ. Điều này biểu hiện sự hững hờ, chán nản và đau khổ mà Kiều phải trải qua. Vậy là tuổi thanh xuân của Kiều bị kìm hãm, khóa kín trong cái lồng lâu Ngưng Bích, một biểu tượng của sự tù túng, đau khổ mà Kiều phải trải qua. Những câu thơ sau, mô tả quang cảnh xung quanh lầu Ngưng Bích mênh mông, rộng lớn được nhìn từ góc nhìn đầy cảm xúc của Kiều:
Bức tranh với 'non xa tấm trăng gần'
Không gian vô tận, bao la
Cát vàng, cồn trắng, bụi hồng dặm xa
Đám mây buồn, ánh đèn sáng đêm khuya
Nửa lòng, nửa cảnh như chia tấm trái tim.
Nguyễn Du đã đặt Kiều trong một cảnh ngộ rất đặc biệt: một mình, cô đơn, trơ trọi giữa một không gian rộng lớn, mênh mông: 'bốn bề bát ngát'. Đứng trên lầu mà nhìn lên trời cao, Kiều chỉ thấy 'non xa' và 'tấm trăng gần'. Nhìn xuống mặt đất chỉ thấy không gian trống trải, xa xa là những con sóng lượn, những bãi cát dài phẳng lặng nối tiếp nhau, dưới ánh nắng của buổi chiều tà, bãi cát như trở nên lấp lánh giống như những bụi hồng. Cảnh thật đẹp, thơ mộng, lãng mạn nhưng đượm buồn. Bởi xung quanh Kiều, không hề có một chút bóng dáng sự sống của con người. Vì thế, từ “xa trông” như miêu tả cái nhìn xa xăm của Kiều, nàng đang cố gắng kiếm tìm một chút bóng dáng, sự sống xung quanh. Nhưng tuyệt nhiên chỉ là một không gian vắng lặng, tĩnh tại, không có chút động nhỏ bé nào đó xung quanh mình. Sau này trong bài thơ 'Tràng Giang', Huy Cận cũng từng có câu thơ:
Không gian mênh mông, không đò xuôi dòng
Không gợi lên chút gì thân mật
Bờ xanh lặng lẽ, bãi cát vàng dài.
Vậy, trong ánh mắt nhìn 'xa trông' như đang trông mong, ngóng chờ ấy là niềm hi vọng, khát vọng, đợi chờ một tương lai hạnh phúc phía trước nhưng trước không gian trống trải, hoang vắng ấy thì chắc chắn chỉ làm cho Kiều trở nên thất vọng, cô đơn hơn mà thôi.
Mây sớm, đèn khuya âm u
Nửa tình, nửa cảnh, tâm buồn.
Từ “bẽ bàng” thể hiện sự xấu hổ và tủi thẹn của Kiều đối diện với số phận của mình. Cảm giác bị Mã Giám Sinh lừa dối, và cảm thấy không xứng đáng với tình cảm của Kim Trọng khiến Kiều cảm thấy xấu hổ và tủi thẹn. Cụm từ “mây sớm, đèn khuya” thể hiện sự cô đơn và đơn độc của Kiều trong không gian rộng lớn của lầu Ngưng Bích. Kiều chỉ có mình và không gian xung quanh, từ buổi sáng đến buổi tối, chỉ có mây và đèn làm bạn. Do đó, tâm trạng của Kiều được chia thành hai phần: “nửa tình – nửa cảnh, tâm buồn”. Dù cảnh vật đẹp đến đâu cũng không thể xóa tan tâm trạng “bẽ bàng” của Kiều.
Tóm lại, Nguyễn Du đã vẽ nên cảnh lầu Ngưng Bích rộng lớn, mênh mông và hoàn toàn không có sự sống. Tác giả đã thành công trong việc truyền đạt tâm trạng cô đơn, tủi hổ và xấu hổ của Kiều khi bị giam giữ trong lầu Ngưng Bích.
Phân tích sáu câu thơ đầu của Kiều ở lầu Ngưng Bích - Mẫu 1
Nguyễn Du, vị đại thi hào dân tộc, đã đưa văn học Việt Nam ra thế giới thông qua tác phẩm Truyện Kiều. Tác phẩm này phản ánh sâu sắc hiện thực xã hội phong kiến với sự tàn bạo của tầng lớp thống trị, đồng thời thể hiện lòng thương cảm, tình yêu thương con người của tác giả. Đoạn trích về Kiều ở lầu Ngưng Bích là một ví dụ xuất sắc cho điều này.
Trong phần thứ hai của 'Gia biến và lưu lạc', sau khi Kiều nhận ra mình bị lừa vào lầu xanh, cô quyết định tự tử. Tuy nhiên, Tú Bà lo sợ mất vốn và thuyết phục cô nhân nhượng, hứa rằng khi Kiều hồi phục, sẽ kết hôn với một người đàn ông tốt. Thực tế, đây chỉ là một kế hoạch để giữ Kiều giam giữ tại lầu Ngưng Bích và chờ đợi thời cơ thực hiện âm mưu mới. Đoạn trích này thể hiện sự bộc bạch, nỗi cô đơn và buồn bã của Kiều khi nhớ về người yêu và đau đớn về số phận của mình.
Sáu câu thơ đầu miêu tả thiên nhiên tại lầu Ngưng Bích với không gian và thời gian:
'Trước lầu Ngưng Bích khóa xuân
Vẻ non xa, tấm trăng gần ở chung
Bốn bề bát ngát xa trông
Cát vàng cồn nọ, bụi hồng dặm kia
Bẽ bàng mây sớm, đèn khuya
Nửa tình, nửa cảnh như chia tấm lòng'
Khung cảnh thiên nhiên nhìn từ góc nhìn của Thúy Kiều. Lầu Ngưng Bích, nơi Kiều bị giam giữ, là nơi mà tuổi thanh xuân của cô bị khóa kín. Hai từ 'khóa xuân' mà Nguyễn Du dùng để miêu tả Kiều làm cho đau lòng, buồn bã. Ở một mình tại lầu Ngưng Bích, rộng lớn và mênh mông, Kiều chỉ có mây và ánh đèn làm bạn. Sự tương phản giữa 'non xa' và 'trăng gần' tạo ra một không gian u ám, không có bóng người, chỉ có cô đơn và trống trải. Các cồn cát vàng xếp chồng lên nhau, những đám bụi hồng ở xa kia, dù Kiều biết mình cô đơn và trơ trọi, nhưng không thể tìm được sự gần gũi với chúng. Trước cảnh vật u buồn của buổi chiều, Kiều cảm thấy lòng mình như được chia thành hai phần, diễn tả nỗi đau đớn, chua xót trong vòng tuần hoàn không kết thúc của 'mây sớm, đèn khuya'. Mỗi ngày, cảnh vật vẫn như vậy, chỉ có trái tim Kiều ngày càng đau đớn hơn.
Phân tích sáu câu thơ đầu của bài Kiều ở lầu Ngưng Bích - Mẫu 2
Hai câu thơ đầu, Kiều đang bị giam trong một lầu cao, trơ trọi giữa trời đất, như chỉ còn có 'non xa' (núi xa) và 'trăng gần' (lầu cao nên trăng gần) làm bạn. Đứng trong lầu cao nhìn ra xung quanh, Kiều chỉ thấy 'cát vàng cồn nọ' (cồn cát nhấp nhô, bát ngát), 'bụi hồng dặm kia' (bụi hồng đỏ rực, do gió thổi bốc lên) cảnh thiên nhiên mênh mông, vắng lặng trơ trọi, rợn ngợp ở lầu Ngưng Bích để tôn vinh tâm trạng, nỗi buồn niềm cô đơn, buồn tủi của Kiều. Đây là một trong những câu thơ tả cảnh ngụ tình đặc sắc.
Về thời gian, Kiều chỉ biết sớm làm bạn với mây, khuya làm bạn với đèn, thức - ngủ một mình, thui thủi triền miên, ngao ngán và vô vọng (bẽ bàng). Cô không chỉ buồn về cảnh mà còn buồn về tình, hai nỗi buồn ấy chia xé tâm can cô, cô rơi vào cảnh cô đơn tuyệt đối. Cô trơ trọi giữa không gian và thời gian mênh mông hoang vắng, không một bóng người, không có sự giao lưu giữa người với người.
Ý thơ chuyển đổi rất linh hoạt: tả cảnh gắn với không gian cao rộng càng khiến cho cảnh mênh mang dàn trải. Tả tâm trạng lại gắn với thời gian. Thời gian dằng dặc (mây sớm, đèn khuya) càng cho thấy tâm trạng chán nản, buồn tủi của Kiều 'Nửa tình nửa cảnh', dường như cũng không còn phân biệt nữa. Tả cảnh ngụ tình rất tài hoa, độc đáo đã khắc họa một bức tranh sinh động về ngoại cảnh và tâm cảnh, trong đó nổi lên tâm trạng bề bộn bao nỗi buồn đau, chua xót, lo sợ, vô vọng, góp phần tạo nên vẻ đẹp thủy chung, hiếu thảo và nhân hậu ở Thúy Kiều ở các câu thơ sau, nhất là ở tám câu cuối mới là chứng minh hùng hồn nhất và sáu câu đầu là tiền đề để có nguyên cớ nói lên Thúy Kiều là nhân hậu, hiếu thảo, thủy chung.
Phân tích 6 câu thơ đầu bài Kiều ở lầu Ngưng Bích - Mẫu 3
Truyện Kiều một viên ngọc long lanh trong kho tàng văn học dân tộc, cùng với một số tác phẩm khác của Nguyễn Du, có giá trị hiện thực sâu sắc và chứa chan tinh thần nhân đạo cao quý, đã “nói lên lòng xót thương vô hạn của ông đối với những lớp người bị áp bức, đau khổ”.
Thật vậy, Nguyễn Du, một nhà thơ của thời đại, đã thể hiện những đau khổ lầm than của những người bị chế độ đương thời đày đọa. Thế giới làm ông cảm thấy thương cảm, xót xa, là thế giới của những người bị giày xéo, đày đọa về cả thể xác lẫn tinh thần. “Tính hiện thực sinh động và sức tố cáo sắc bén của tác phẩm Nguyễn Du là hai ngọn lửa sáng chói của một cái lò đỏ rực, đó là trái tim đầy tình thương xót của Nguyễn Du đối với nỗi đau khổ của những con người bất hạnh dưới chế độ xã hội bất công, là tâm hồn cao cả của Nguyễn Du chứa đựng một tình nhân đạo mà cảnh chiều tà của một chế độ trên bước đường diệt vong đã nhân lên ở ông suốt mấy mươi năm, trong đó ông cũng đã chia sẻ với thế hệ của mình những nỗi đau cay đắng, tủi nhục” (Nguyễn Khánh Toàn). Truyện Kiều ca ngợi và tôn vinh tình yêu chung thủy, tình cảm kính yêu của con với cha mẹ, và nhất là ước mơ sống tự do trong xã hội đen tối bất công. Tinh thần nhân đạo rộng lớn trong Truyện Kiều là kết tinh truyền thống nhân đạo của dân tộc ta qua bao thế kỷ:
Tiếng thơ ai động đất trời
Nghe như non nước vọng lời ngàn thu.
(Tố Hữu)
Trong vô số nạn nhân của cuộc đời, Nguyễn Du đặc biệt trân trọng và thương xót những người phụ nữ tài sắc. Với ông, họ là biểu tượng của số kiếp bi đát trong một cuộc đời khốn khổ. Hình ảnh Thúy Kiều là điển hình. Thúy Kiều là một con người tài sắc tuyệt vời, với vẻ đẹp mặn mà nồng thắm, tài năng đánh đàn của cô cũng phản ánh cái bản chất của cô. Thế giới khiến ông thương cảm, xót xa, là thế giới của những người bị giày xéo, đày đọa cả về thể xác lẫn tinh thần. “Tính hiện thực sinh động và sức tố cáo sắc bén của tác phẩm Nguyễn Du là hai ngọn lửa sáng chói của một cái lò đỏ rực, đó là trái tim đầy tình thương xót của Nguyễn Du đối với nỗi đau khổ của những con người bất hạnh dưới chế độ xã hội bất công, là tâm hồn cao cả của Nguyễn Du chứa đựng một tình nhân đạo mà cảnh chiều tà của một chế độ trên bước đường diệt vong đã nhân lên ở ông suốt mấy mươi năm, trong đó ông cũng đã chia sẻ với thế hệ của mình những nỗi đau cay đắng, tủi nhục” (Nguyễn Khánh Toàn). Tình yêu của Kiều với Kim Trọng là một thứ tình yêu mãnh liệt, đắm chìm:
Tình trong như đã, mặt ngoài còn e
Chập chờn cơn tỉnh cơn mê.
Yêu nhau, Thúy Kiều tích cực xây dựng hạnh phúc với người yêu. Bước chân của Kiều đã thoải mái, lặng lẽ vượt qua lối vườn khuya để đến nhà của Kim Trọng một mình. Thúy Kiều và Kim Trọng là cặp đôi hoàn hảo, gặp nhau và yêu nhau, tình yêu của họ nồng nàn, chân thành và xứng đáng. Nguyễn Du đã vượt ra ngoài thời đại của mình khi ca ngợi mối tình thơ mộng của Kim và Kiều. Tính hiện thực sinh động và sức tố cáo sắc bén của tác phẩm Nguyễn Du là hai ngọn lửa sáng chói của một cái lò đỏ rực, đó là trái tim đầy tình thương xót của Nguyễn Du đối với nỗi đau khổ của những người bất hạnh dưới chế độ xã hội bất công, đó là tâm hồn cao cả của Nguyễn Du chứa đựng một tình nhân đạo mà cảnh chiều tà của một chế độ trên bước đường diệt vong đã nhân lên ở ông suốt mấy mươi năm, trong đó chính bản thân ông cũng đã chia sẻ với thế hệ của mình những nỗi đau cay đắng, tủi nhục” (Nguyễn Khánh Toàn). Nhiều lần, lời thơ của Nguyễn Du đau đớn vang lên. Bởi vì xã hội phong kiến phá hoại hạnh phúc, mối tình chung thủy phải chịu gian truân, Thúy Kiều bị lửa thử thách của số phận, nhưng tình yêu của họ vẫn mãi bền vững và trong sạch. Nguyễn Du đã truyền đạt quan niệm về tự do trong tình yêu, về tinh thần trinh tiết, phản đối quan điểm của xã hội phong kiến. Dù phải hy sinh bản thân để chuộc tội cho cha, phải rời xa Kim Trọng, Thúy Kiều gặp nhiều đau khổ, tự trách bản thân và phụ bạc với Kim Trọng. Nhưng vì tình yêu của họ quá đẹp đẽ, nên sau này trên con đường đầy khó khăn, những kí ức dịu dàng, ngọt ngào vẫn hiện hữu trước mắt Kiều.
Với Nguyễn Du, tình yêu kết nghĩa chặt chẽ với trách nhiệm, nên nhà thơ đã dặn em gái Thúy Vân thay mình trung thành với Kim Trọng:
Ngày xuân em hãy còn dài
Xót tình máu mủ thay lời nước non.
Đáp lại tình yêu của Thúy Kiều, Kim Trọng đã vượt ra ngoài tư tưởng của thời đại về hai từ “vị thế”, quyết tâm tìm lại Thúy Kiều để bù đắp tình cảm xưa nghĩa cũ:
Rắp mong treo ấn từ quan,
Mấy sông cũng lội, mấy ngàn cũng qua.
Dấn mình trong áng can qua,
Vào sinh ra tử họa là thấy nhau.
Với việc phát ngôn về tình yêu mới, về đạo luyến:
Trong xã hội ngày xưa,
Chuyện tình duyên không chỉ đơn giản như vậy.
Có thăng trầm, có đắng ngọt,
Miễn sao đạo luyến đúng đắn là được.
Tình cảm của con cái dành cho phụ mẫu trong câu chuyện Kiều cũng thật sâu sắc và xúc động. Kiều đã ân cần khuyên nhủ cha mình:
Hãy chấp nhận hy sinh mạng sống,
Hoàng hôn dù khuất phục, cảnh vẫn mơ màng.
Mặc cho phải đánh đổi hạnh phúc, bán thân để cứu cha, Kiều không hề phải lòng trách. Trong bức tranh tuyệt vọng và sự sống chết, nghe tiếng chim hót trong rừng, nhìn những chiếc buồm xa dần trên biển, nhìn ra vẻ đẹp của non sông, Kiều thường nhớ đến cha mẹ. Trong khi đó, Vương Ông vô cùng thương cảm với Kiều vì đã lỡ lời với Kim Trọng dù đó là vượt quyền lợi của cha mẹ. Ông muốn phản bội trời cao và quyết định tự tử.
Trong tác phẩm Truyện Kiều, Nguyễn Du không chỉ mô tả cuộc sống đầy gian truân của cô gái tài năng và xinh đẹp Vương Kiều mà còn lên án sự đau đớn của mình trước số phận bi thảm của phụ nữ trong xã hội phong kiến. Thế giới khiến ông đau lòng, thương cảm là thế giới của những người bị đối xử tệ bạc, đau khổ cả về thể chất lẫn tinh thần. “Tính hiện thực và sức mạnh phê phán sắc bén trong tác phẩm của Nguyễn Du là hai ngọn lửa sáng chói của một lò lửa đỏ rực, đó là trái tim đầy lòng nhân ái của Nguyễn Du đối với nỗi đau của những người không may mắn dưới chế độ xã hội bất công, đó là tâm hồn cao quý của Nguyễn Du chứa đựng tinh thần đạo đức khi đối mặt với sự diệt vong của một chế độ, những điều này đã ảnh hưởng đến ông suốt hàng chục năm, ông đã chia sẻ những cảm xúc đắng cay, đau khổ với thế hệ của mình” (Nguyễn Khánh Toàn). Nhiều lần, lời thơ của Nguyễn Du khiến lòng người đau đớn.
Tóm lại, tác phẩm Truyện Kiều vẽ lên hình ảnh bi kịch của cuộc đời nàng Kiều, giọng điệu của Nguyễn Du là tiếng kêu than đau đớn trước số phận của con người trong xã hội phong kiến. Tinh thần nhân đạo là nguồn cảm hứng cho tiếng kêu than đó.
Phân tích 6 câu thơ đầu của bài Kiều tại Lầu Ngưng Bích - Mẫu 4
Thiên nhiên trong sáu câu đầu được mô tả rất hoang sơ, bao la và đầy sợ hãi. Ở trên lầu, nhìn xuống thấy núi non trùng điệp, nhìn lên thấy vầng trăng sắp chạm vào, nhìn xuống thấy những đoạn cát vàng kéo dài vô hạn, như thêm vào cuộc sống cô đơn, bất hạnh của Kiều vào thời điểm này:
Trước cửa Lầu Ngưng Bích nắm chặt nỗi nhớ xuân
Khung cảnh non xa, vầng trăng gần như làm một
Bốn phía toàn là bóng đen xa mờ
Cát vàng bên dòng, bụi hồng ven đường
Có thể dễ dàng tưởng tượng ra một không gian bao la mở ra trước mắt Kiều. Không gian ấy làm cho Kiều càng thêm đau đớn, xót xa:
Mây sớm, đèn khuya, đầy mờ ảo,
Nửa tình nửa cảnh, hòa quyện lòng người.
Một từ 'bẽ bàng' đã thể hiện rõ tâm trạng sâu thẳm của Kiều: vừa chán chường, buồn bã về số phận của mình, vừa cảm thấy xấu hổ, ngượng ngùng trước sự thay đổi của mây sớm và đèn khuya. Và cảnh vật cũng như đồng cảm, chia sẻ với nàng: nửa tình nửa cảnh, như là chia sẻ một phần trong lòng. Bức tranh thiên nhiên không chỉ đơn giản là quan sát, mà còn mang trong mình tâm trạng, đó chính là hình ảnh tâm hồn của Kiều khi cô cô đơn ở lầu Ngưng Bích.
Phân tích 6 câu thơ đầu của bài Kiều tại Lầu Ngưng Bích - Mẫu 5
Đoạn trích về Kiều ở lầu Ngưng Bích không chỉ là một bức tranh thiên nhiên mà còn là một biểu hiện tâm trạng sâu sắc với bố cục rất khéo léo và chặt chẽ. Thiên nhiên ở đây không ngừng biến đổi theo tâm trạng của con người.
Cấu trúc của đoạn trích về Kiều ở lầu Ngưng Bích được xây dựng rất hợp lý: Phần đầu tác giả giới thiệu cảnh Kiều bị giam giữ ở lầu Ngưng Bích; phần thứ hai: trong nỗi cô đơn buồn bã, nàng nhớ về Kim Trọng và cha mẹ; phần thứ ba: tâm trạng buồn bã của Kiều và những dự cảm về những khó khăn sẽ đến với cuộc đời Kiều. Lời thơ chứa đựng nhịp đập của một trái tim đang đau đớn vì tình yêu! Nỗi nhớ của Kiều sâu sắc, mãnh liệt! Kiều tưởng tượng về Kim đang đợi tin nhắn của mình một cách đau đớn và tuyệt vọng. Chỉ vài ngày trước, họ đã thề hẹn một tương lai hạnh phúc, nhưng bây giờ, mọi thứ đã thay đổi và Kiều cảm thấy hối hận về sự phản bội của mình. Bóng dáng của Kim sẽ mãi không phai trong tâm trí Kiều suốt những năm tháng đi lang thang. Thiên nhiên ở đây biến đổi theo tâm trạng của con người. Mỗi hình ảnh do Nguyễn Du tạo ra đều phản ánh một mức độ khác nhau của đau đớn trong lòng Kiều.
Nhờ đó, Nguyễn Du đã thấu hiểu sâu sắc nỗi lòng của nhân vật trong hoàn cảnh đau khổ để ca ngợi tấm lòng cao quý của nhân vật, giúp chúng ta hiểu sâu hơn về tâm hồn của những người phụ nữ tài năng nhưng không may mắn.
Phân tích 6 câu đầu của bài Kiều tại Lầu Ngưng Bích - Mẫu 6
Một số người đã nói: 'Trong Truyện Kiều, Nguyễn Du đã nâng cao tiếng Việt lên tầm cao mới'. Thực tế là như vậy, khi ta suy ngẫm, ta cảm thấy thấm thía hơn, thấy độc đáo hơn - một nhà văn vĩ đại với sự sáng tạo xuất sắc đã làm cho ngôn ngữ của dân tộc ngày càng phong phú hơn. Sự miêu tả của tình yêu là một cách Nguyễn Du thể hiện thành công sự độc đáo của tiếng Việt trong tác phẩm của mình. Điều đó rõ ràng trong đoạn trích về Kiều ở Lầu Ngưng Bích. Sáu câu thơ đầu là biểu hiện của sự cô đơn, đau khổ, và đầy xót xa của Kiều; đó là 'tình' trong 'cảnh', 'cảnh' trong 'tình':
Trước lầu Ngưng Bích khóa xuân,
Vẻ non xa tấm trăng gần ở chung.
Bốn phía toàn là bóng đen xa mờ,
Cát vàng cồn nọ bụi hồng dặm kia.
Bẽ bàng mây sớm đèn khuya,
Nửa tình nửa cảnh như chia tấm lòng...
Sáu câu thơ - một bức tranh tâm trạng u sầu, đầy xót xa - toàn cảnh trước lầu Ngưng Bích qua con mắt và tâm trạng của Thúy Kiều. Kiều đơn độc giữa mênh mông không gian và thời gian, hoang vắng. Câu thơ 'Bốn bề bát ngát xa trông” tái hiện sự u ám của không gian: cảnh vật hoang vu, xung quanh chỉ là mây nước không một bóng người, vừa thật vừa mơ mịt. Phong cảnh thiên nhiên có 'non xa, trăng gần, cát vàng cồn nọ bụi hồng dặm kia' nhưng không hề mang lại sự tươi mới, sự sống. Tuổi 'xuân' của Kiều bị khóa chặt trong sự cô đơn, đau khổ. Nàng lạc lõng giữa không gian vô tận, hoang vu, trong bối cảnh xa lạ, lại bị giam giữ trong cái lầu xanh cao vút trơ trọi giữa trời đất.
Cái lầu trống trải ấy giam giữ một thân phận trống rỗng:
Bẽ bàng mây sớm đèn khuya
Nửa tình nửa cảnh như chia tấm lòng....
Một khung cảnh bao la, mênh mông nhưng lại chứa đựng nỗi buồn của nàng Kiều. Đúng như Nguyễn Du viết: “Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ”. Trong không gian u ám và thời gian trôi chậm, vòng tuần hoàn của 'mây sớm đèn khuya' gợi lên sự giam cầm của thời gian, tất cả đều giam hãm con người, như làm sâu thêm nỗi cô đơn của Kiều, khiến nàng cảm thấy 'bẽ bàng' chán ngán, chỉ có thể giao tiếp với 'mây' và 'đèn'. Câu thơ 'Nửa tình nửa cảnh như chia tấm lòng' không chỉ buồn rầu, đầy thương tâm về số phận đắng cay, nỗi đau chịu, mà nàng còn xót xa vì tình yêu đơn phương khiến trái tim nàng tan nát! Một nửa là tâm trạng của Kiều, một nửa là bối cảnh trước lầu Ngưng Bích, hai yếu tố tương phản nhau nhưng lại tác động mạnh mẽ đến Thúy Kiều, khiến lòng nàng đau xót, đầy nước mắt.
Nguyễn Du đã đau lòng cho số phận đầy sóng gió ấy. Thông qua việc miêu tả tinh tế cảnh ngụ tình, Nguyễn Du đã thể hiện một cách độc đáo bức tranh thực tại ở lầu Ngưng Bích và nỗi đau, buồn tủi của nàng Kiều về mối tình dang dở.
Phân tích 6 câu thơ đầu bài Kiều ở lầu Ngưng Bích - Mẫu 7
Qua sáu câu đầu của đoạn trích “Kiều ở lầu Ngưng Bích”, Nguyễn Du đã mô tả bức tranh thiên nhiên trước lầu Ngưng Bích qua góc nhìn đầy cảm xúc của Thúy Kiều. Câu thơ đầu với từ “khóa xuân” thể hiện tình cảnh bi thảm của Kiều: bị giam cầm ở lầu Ngưng Bích, cách ly hoàn toàn với thế giới bên ngoài. Từ trên lầu, nàng nhìn ra cảnh thiên nhiên, thấy dãy núi xa xa, trên trời có một vầng trăng lạnh lẽo, xung quanh là bốn phía mênh mông với cát vàng, bụi hồng trải dài. Từ từ “bát ngát” gợi lên không gian mênh mông, tạo cảm giác lầu Ngưng Bích bị lạc lõng giữa mênh mông trời đất. Cái lầu ấy giam giữ một số phận con người. Cảnh vật ở đây có thể là thực tế nhưng cũng có thể là ảo để thể hiện mênh mông của không gian, từ đó làm nổi bật tâm trạng cô đơn của Kiều, không chỉ về không gian mà còn về thời gian “mây sớm đèn khuya” thể hiện sự tuần hoàn của thời gian. Sáng và tối, ngày và đêm Kiều thui thủi một mình ở nơi đất khách quê người, nàng rơi vào cảnh cô đơn tuyệt vọng khiến nàng cảm thấy buồn bã:
“Bẽ bàng mây sớm đèn khuya,
Nửa tình nửa cảnh như chia tấm lòng”
Nhà thơ sử dụng từ “bẽ bàng” để diễn đạt nỗi xấu hổ tủi thân của Kiều, buồn vì cảnh hoang vắng, buồn vì tình yêu đầu tiên dang dở khiến trái tim như bị xé: “Nửa tình nửa cảnh như chia tấm lòng”. Từ đó, qua cảnh vật ở lầu Ngưng Bích, sáu câu thơ đầu của Nguyễn Du đã sâu sắc miêu tả tâm trạng cô đơn, tuyệt vọng của Thúy Kiều.
Phân tích 6 câu thơ đầu bài Kiều ở lầu Ngưng Bích - Mẫu 8
Nguyễn Du là một nhà văn vĩ đại của dân tộc, để lại nhiều tác phẩm kỳ vĩ cho thế hệ sau. Dù sinh ra trong một gia đình giàu có, quý tộc và có quan lại trong nhiều thế hệ, nhưng vì biến cố gia đình mà ông phải trải qua những năm tháng khó khăn và lưu lạc suốt 10 năm. Chính những trải nghiệm khó khăn đó đã giúp ông hiểu sâu sắc về xã hội và thấu hiểu lòng thương xót cho số phận của con người, đặc biệt là số phận của phụ nữ trong xã hội xưa. Trong số các tác phẩm văn học của ông, Truyện Kiều là tác phẩm nổi bật nhất. Truyện được chuyển thể từ tác phẩm Trung Quốc Kim Vân Kiều Truyện của tác giả Thanh Tâm Tài Nhân sang thể thơ lục bát bằng chữ nôm. Với tài năng và sự tinh tế trong việc sáng tác, Nguyễn Du đã sáng tạo ra tác phẩm vĩ đại Truyện Kiều, ghi dấu ấn sâu đậm trong văn chương Việt Nam. Trong đó, đoạn trích Kiều ở lầu Ngưng Bích là điểm cao nhất của nghệ thuật miêu tả cảnh ngụ tình, vừa thể hiện hoàn cảnh, vừa thể hiện tâm trạng của nhân vật.
Trước lầu Ngưng Bích khóa xuân,
Vẻ non xa tấm trăng gần ở chung.
Hai dòng thơ này miêu tả về tuổi thanh xuân của Kiều, trước lầu Ngưng Bích, Kiều thực sự đã bị “khóa xuân”. Khóa xuân ở đây có thể hiểu là nàng đã vượt qua tuổi thanh xuân, và giờ đây lại phải sống trong căn phòng lầu lạnh lẽo. Điều đó cũng có thể hiểu theo lời hứa của tú bà với Kiều rằng nàng sẽ không phải phục vụ khách hàng, nhưng nàng vẫn bị giam cầm. Do đó, dòng thơ này có vẻ như thể hiện sự thất vọng, buồn bã của Kiều về tuổi thanh xuân của mình. Nghe như là tiếng thở dài của Kiều khi nàng ở lầu Ngưng Bích và nhìn về phía trước.
Sang dòng thơ “Vẻ non xa tấm trăng gần ở chung.”, chúng ta càng thấy rằng, chỉ có Kiều, lầu Ngưng Bích và thiên nhiên là có, không có bóng dáng con người thứ hai nào khác. Có lẽ chỉ khi đêm về, Kiều mới có mặt trăng làm bạn, mới nhìn rõ cảnh non xa. Đây là cách miêu tả cảnh ban đêm chỉ có Kiều, ánh trăng và núi, tạo nên một cảnh vật cô đơn đến cùng cực.
Qua đó, chúng ta cũng có thể hình dung được rằng, lầu Ngưng Bích có vẻ khá cao. Từ trên cao, Kiều có thể nhìn ra xa xôi mọi thứ và cảm nhận được vẻ đẹp của thiên nhiên xung quanh.
Bốn phía mênh mông, xa vời vợi,
Cát vàng trải dài, bụi hồng bay xa.
Kiều đứng từ lầu Ngưng Bích nhìn ra xa chỉ thấy mênh mông bốn phía là cát vàng trải dài và bụi hồng bay xa. Trong lúc này, nàng chỉ biết ngắm nhìn cảnh đẹp và cảm nhận thiên nhiên. Nhưng thiên nhiên cũng quá xa vời, rộng lớn khó lòng chạm đến.
Cát vàng trải dài là những bãi cát vàng ven biển cao vút, như những dãy núi cát xa xa. Cát không nhận ánh sáng mặt trời trực tiếp nhưng vẫn tỏa sáng vì cát có màu vàng đặc trưng từ những nơi có cát già hoặc cát rời từ những ngọn núi màu vàng.
Bụi hồng bay xa là do Kiều nhìn từ xa có vẻ như là đường rất đông người đi lại nên bụi bay mù mịt hoặc có thể là do gió thổi mạnh khiến bụi bay xa nhưng không rõ có phải là đường hay không.
Từ hai câu thơ này, ta thấy Kiều chỉ có thể hình dung ra cảnh vật mơ hồ vì xa quá. Điều này chứng tỏ rằng Tú Bà đã giam Kiều ở một nơi rất khó nhận biết, đồng thời nơi này cũng cao nên cảnh vật mà Kiều nhìn thường xa, nhỏ bé và khó mường tượng. Điều này làm cho Kiều cảm thấy cô đơn và lạc lõng giữa không gian rộng lớn. Càng xa, càng nhỏ, càng khó nhận biết, càng làm cho con người trở nên quá nhỏ bé giữa bao la thiên nhiên.
Ban đêm ở Lầu Ngưng Bích chỉ thấy ánh trăng và núi, ban ngày chỉ có cồn cát và bụi bay. Một người thê lương, một người cô đơn bị giam lỏng ở đây khi nhìn thấy toàn là cát và bụi thì sao tránh khỏi ngẫm nghĩ đến cuộc đời mình có khác gì cát bụi đâu. Đây chính là nghệ thuật tả cảnh ngụ tình đặc sắc của Nguyễn Du. Nhìn cảnh mà có thể biết được tâm trạng và hoàn cảnh của Kiều. Vốn dĩ “người buồn cảnh có vui đâu bao giờ”. Cảnh thiên nhiên trong 4 câu thơ trên đều rất buồn cô đơn, trống vắng, lẻ loi. Cảnh thiên nhiên lại rất rộng lớn, mênh mông xung quanh chỉ trơ trọi cát và bụi mà không hề thấy sự sống. Như vậy con người lại càng nhỏ bé, cô đơn và dường như héo úa trong không gian này.
Chính cảnh thiên nhiên đó đã khiến cho Kiều có những suy nghĩ dưới đây:
Chán ngán bóng sớm, đèn khuya,
Ngày đêm cô đơn lòng héo hon.
Chán ngán ở đây hiểu đúng chính là mệt mỏi, buồn chán. Đặt trong hoàn cảnh này thì giải nghĩa từ chán ngán như vậy là đúng nhất. Một số ý kiến cho rằng, chán ngán nghĩa là u sầu, là tủi thân là buồn bã… Nhưng trong hoàn cảnh nàng Kiều phải bán vào lầu xanh mà lại không hề phải tiếp khách, lại chỉ bị giam ở lầu Ngưng Bích vậy thì có gì mà phải buồn bã? Vậy nên Chán ngán bóng sớm, đèn khuya, nghĩa là nàng vô cùng mệt mỏi, chán chường với cái cảnh sáng thì nhìn bóng mờ, tối thì nhìn đèn, cuộc sống nhàm chán lặp đi lặp lại nhiều lần. Ý câu thơ cũng là tả được cuộc sống của lầu Ngưng Bích chỉ có thế thôi và nó cũng lột tả được tâm trạng của Kiều rất chán cuộc sống thế này, không có gì mới mẻ.
Sang câu thơ Ngày đêm cô đơn lòng héo hon chúng ta có thể hiểu trong hoàn cảnh như thế này tâm trạng Kiều như bị héo hon, Kiều có lúc nghĩ đến tình, có lúc nghĩ đến cảnh. Có thể nói, câu thơ muốn nói về tâm trạng rối bời của nàng Kiều, tâm trạng lúc này, lúc kia. Hoặc chúng ta cũng có thể hiểu nàng Kiều lúc vì tình mà ngắm cảnh, lúc vì cảnh mà sinh tình. Đây chính là cái tài của nhà thơ khi viết câu thơ có thể khiến chúng ta diễn tả theo nhiều nghĩa. Tuy nhiên, chúng ta cần đặt trong hoàn cảnh của Kiều để diễn tả cho chính xác.
Với cách diễn đạt tinh tế về cảnh vật và tâm trạng, Nguyễn Du đã tạo ra một bức tranh sống động về môi trường và tâm trạng của Thúy Kiều. Trong đó, tâm trạng chán nản, buồn rầu của Kiều khi bị giam cầm tại Lầu Ngưng Bích, nơi hoàn toàn vắng vẻ, chỉ có thiên nhiên, trăng và cuộc sống như cát bụi bên ngoài. Nếu không đồng cảm với Kiều, Nguyễn Du không thể tả được tâm trạng và hoàn cảnh của nhân vật. Chỉ trong 6 câu thơ, độc giả có thể hiểu được cảnh đời éo le của Kiều và tâm trạng buồn chán của cô trong môi trường cô đơn và u tối này.
Nhận định về 6 câu thơ đầu trong bài Kiều ở Lầu Ngưng Bích
Trích đoạn 'Kiều ở Lầu Ngưng Bích' từ 'Truyện Kiều' của Nguyễn Du là một ví dụ xuất sắc về việc miêu tả tâm trạng cô đơn, buồn bã và nỗi nhớ nhung của Kiều khi đối mặt với khó khăn. Trong trích đoạn này, 6 câu đầu là bức tranh tự nhiên phản ánh tâm trạng của nhân vật.
'Trước lầu Ngưng Bích khóa xuân,
Vẻ non xa tấm trăng gần ở chung,
Bốn bề bát ngát xa trông,
Cát vàng cồn nọ, bụi hồng dặm kia.'
Hai từ 'Khóa xuân' mô tả cảnh đời thương tâm của Thúy Kiều khi bị giam giữ, mất đi tuổi xuân tại Lầu Ngưng Bích. Tú Bà hứa rằng sẽ chuộng chào Kiều nhưng thực ra chỉ là giam cầm nàng trong một không gian không một bóng người. Không gì đau đớn hơn là phải trải qua thời kỳ đẹp đẽ nhất của đời mình, tuổi thanh xuân, bị cắt giảm, chôn vùi. Ba câu thơ tiếp theo tạo dựng một bức tranh tự nhiên bao la, trống trải nhưng hiu quạnh, không hề có dấu vết của con người. Những từ ngữ như 'non', 'tấm trăng', 'cát vàng', 'bụi hồng',... kết hợp với các tính từ như 'xa', 'gần', tạo ra một không gian vô cùng rộng lớn và cô đơn. Phương pháp sử dụng liệt kê kết hợp với sự đối lập đã thành công tái hiện cảnh vật mênh mông nhưng lạnh lẽo, trống trải trước Lầu Ngưng Bích.
Tự nhiên càng lớn mênh mông, con người càng trơ trọi. Kiều bị bỏ rơi giữa không gian vô biên, một màu hoang vu phủ lên cảnh vật, một màu buồn thương tràn ngập trong tâm hồn. Từ lầu cao, nhìn ra xa không thấy dấu hiệu của sự sống hoặc bóng dáng con người, chỉ là những dãy núi xa xôi, mấy đám cỏ hồng nhạt, vài đám cát vàng ven sông... Mọi thứ dường như xa xôi, ngoài tầm với, làm cho nỗi đau mà Kiều phải chịu đựng trở nên tàn khốc hơn bao giờ hết. Nàng tìm đến ánh trăng để tìm sự an ủi, nhưng liệu trăng có thấu hiểu? Hay là trăng không hiểu hay lòng người đã quá phức tạp?
'Bẽ bàng mây sớm đèn khuya,
Nửa tình nửa cảnh như chia tấm lòng'
Không gian u tối, thời gian trôi đi không dừng lại, ngày đêm Kiều vẫn lẻ loi một mình. Suốt ngày, không ai để chia sẻ, không ai để hiểu. Nàng chỉ có thể tìm kiếm sự ấm áp từ ánh sáng của đèn và mây, trong cảnh tình trạng 'bẽ bàng'. Từ ngữ 'bẽ bàng' phản ánh nỗi buồn, sự thất vọng, và cảm xúc xót xa của Kiều. Thành ngữ 'Mây sớm đèn khuya' tượng trưng cho sự tuần hoàn vô ích của thời gian. Cả không gian và thời gian như đang giam giữ con người, làm cho cuộc sống trong lầu Ngưng Bích trở nên trống rỗng và u tối. Kiều đang trải qua một cuộc chiến cô đơn đầy bi kịch, nỗi nhớ mỗi ngày càng sâu, và nỗi buồn ngày càng lớn.
Sáu câu thơ lục bát ở đoạn trích đầu đã thành công tả được tâm trạng của Kiều khi ở trong lầu Ngưng Bích. Kiều thật đáng thương! Một người con hiếu thảo, có trái tim nhân từ, nhưng số phận lại trớ trêu. Liệu rằng câu 'tài hoa bạc mệnh' có phải là đúng với Kiều?