TOP 7 bài văn cảm nhận khổ thơ đầu Viếng lăng Bác cực kỳ ấn tượng, giúp các bạn học sinh lớp 9 hiểu sâu hơn về tác phẩm, cảm nhận được tinh thần và cảm xúc sâu xa của nhà thơ Viễn Phương khi thăm lăng Bác.
Khổ thơ đầu trong bài Viếng lăng Bác là một tác phẩm ngắn nhưng chứa đựng nhiều cảm xúc sâu sắc, tái hiện một cách sống động tâm trạng của tác giả khi đến viếng lăng Bác. Mời các bạn cùng tham khảo bài viết dưới đây của Mytour để có thêm nhiều ý tưởng học tốt môn Văn 9:
Dàn ý phân tích cảm nhận khổ thơ đầu trong bài Viếng lăng Bác
1. Khởi đầu
- Giới thiệu về nhà thơ Viễn Phương và bài thơ Viếng lăng Bác.
- Mô tả giá trị văn học và nghệ thuật của tác phẩm.
2. Nội dung chính
- Thông báo về sự hiện diện của nhân vật trữ tình.
- Miêu tả về làng tre trong bài thơ Viếng lăng Bác.
- Phát biểu cảm xúc về hàng tre, một biểu tượng đặc trưng của Việt Nam.
3. Kết luận
- Tóm tắt lại giá trị nghệ thuật và nội dung của khổ thơ đầu Viếng lăng Bác.
- Phân tích ý nghĩa của những cảm xúc chân thành trong bài thơ.
Cảm nhận khổ thơ đầu Viếng lăng Bác ngắn gọn
Viếng lăng Bác là một trong những tác phẩm xuất sắc của Viễn Phương. Bài thơ được viết năm 1976, khi lăng Bác mới được xây dựng và nhà thơ, một người con miền Nam, có cơ hội thăm lăng Bác. Trong khổ thơ đầu tiên, Viễn Phương thể hiện sự xúc động khi đến lăng Bác, nơi ông hy vọng gặp lại Bác sau bao ngày xa cách.
'Con ở miền Nam ra thăm lăng Bác', câu thơ này tươi sáng nhưng chứa đựng nhiều cảm xúc sâu sắc. Từ 'con' thể hiện sự gần gũi, thân thiết của người con với Bác. Viễn Phương dùng từ 'thăm' thay vì 'viếng' để làm giảm bớt nỗi buồn và tiếc nuối. Đối diện với lăng, nhà thơ chú ý đến hàng tre 'bát ngát'.
Hình ảnh hàng tre này không chỉ mô tả chân thực mà còn đại diện cho sức mạnh của con người Việt Nam, luôn kiên cường và vững vàng giữa những gian khó.
Hàng tre xanh giống như những người dân Việt Nam canh giữ quanh lăng để bảo vệ giấc ngủ của Bác. Thán từ 'ôi' đã thể hiện được xúc động của tác giả khi bắt gặp những hình ảnh thân thương, gần gũi trước lăng Bác.
Cảm nhận khổ thơ đầu Viếng lăng Bác
Viếng lăng Bác viết vào tháng 4 năm 1976 khi nhà thơ lần đầu tiên được ra thăm lăng Bác. Ngay từ phần mở đầu, Viễn Phương đã giới thiệu về sự kiện đặc biệt này:
'Con ở miền Nam ra thăm lăng Bác
Đã thấy trong sương hàng tre bát ngát
Ôi! Hàng tre xanh xanh Việt Nam
Bão táp mưa sa, đứng thẳng hàng'
Cách gọi 'con - Bác' tạo cảm giác gần gũi, thân thiết như những người thân trong gia đình. 'Thăm' là cách nói giảm nhẹ đau buồn, mất mát trước sự thực đau lòng. Trước mắt nhà thơ là hình ảnh 'hàng tre bát ngát' hai bên lăng. Tre là biểu tượng cho sự kiên cường, mạnh mẽ và sức sống bền bỉ của Việt Nam, dù 'bão táp mưa sa' vẫn 'đứng thẳng hàng'. 'Ôi' ở đầu câu bộc lộ nỗi xúc động mạnh mẽ của nhà thơ khi nhìn thấy lăng Bác và hình ảnh hàng tre.
Khổ thơ đầu đã hiện lên một cách sống động về những cảm xúc của tác giả khi đứng trước lăng Bác, đó là nỗi xúc động, nghẹn ngào của người con miền Nam lần đầu tiên được ra thăm lăng Bác.
Cảm nhận khổ thơ đầu bài thơ Viếng lăng Bác
Viễn Phương là một trong những nhà văn có mặt sớm nhất trong lực lượng văn nghệ giải phóng miền Nam thời kỳ chống Mỹ cứu nước. Thơ ông giàu cảm xúc, sâu lắng, thiết tha. Bài thơ 'Viếng lăng Bác' được nhà thơ sáng tác năm 1976, đã thể hiện niềm xúc động thiêng liêng, lòng tự hào của tác giả khi lần đầu ra thăm lăng Bác. Khổ thơ đầu của bài thơ là tiếng lòng của Viễn Phương khi đứng trước cảnh vật ngoài lăng.
Bài thơ Viếng lăng Bác viết vào tháng 4 năm 1976, khi đất nước vừa thống nhất được một năm, lăng Bác vừa khánh thành. Nhà thơ Viễn Phương vinh dự có mặt trong đoàn cán bộ chiến sĩ miền Nam ra Bắc viếng Bác. Xúc động, nghẹn ngào, hạnh phúc trào dâng, ông đã viết bài thơ trong những giây phút lịch sử đó.
Mở đầu bài thơ là lời chào, lời gửi thưa:
Lời thơ ngắn gọn, giản dị không hoa mĩ, câu thơ như một lời chào, một lời gửi thưa thành kính. Địa danh “miền Nam” cũng thật giàu sức gợi. Nó không chỉ xác định vị trí địa lí rất xa xôi mà còn có ý nghĩa lịch sử. Trong tim Bác, miền Nam luôn là nỗi đau chia cắt, là biểu tượng anh hùng, là thành đồng Tổ quốc… Trong tâm trạng của người con miền Nam “mong Bác nỗi mong cha”. Đó là niềm mong ước không chỉ của riêng nhà thơ mà còn của biết bao người con miền Nam muốn được gặp Bác, muốn được ở bên Bác. Niềm mong ước ấy giống như cây tìm về cội, sông trở về nguồn, như máu chảy về tim. Đó là tình cảm chân thành, tha thiết của nhà thơ đối với vị cha già dân tộc.
Nhà thơ gọi mình là “con” – “Bác”, “con” – cách xưng hô thật gần gũi, thân thiết, ấm áp thân thương mà vẫn rất mực thành kính thiêng liêng. Trong sâu thẳm lòng mình Viễn Phương coi Bác là người cha nhân hậu, hiền từ như nhà thơ Tố Hữu đã từng bộc bạch:
Bác Hồ là vị cha chung
Là sao bắc đẩu là vầng thái dương.
Nhà thơ sử dụng từ “thăm” thay cho từ “viếng”. “Viếng” là đến chia buồn với người thân đã mất, “thăm” là gặp gỡ, trò chuyện với người đang còn sống. Nhan đề dùng từ “viếng” theo đúng nghĩa đen, trang trọng khẳng định sự thật Bác đã qua đời. “Thăm” trong câu thơ ngụ ý nói giảm, nói tránh, giảm nhẹ nỗi đau thương mất mát, khẳng định Bác vẫn còn sống mãi trong trái tim nhân dân miền Nam, dân tộc Việt Nam. Đồng thời gợi sự thân mật, gần gũi: Con về thăm cha – thăm người thân ruột thịt, thăm chỗ Bác nằm, thăm nơi Bác ở để thỏa lòng khát khao, mong nhớ bấy lâu. Câu thơ giản dị, mộc mạc nhưng lại vô cùng gợi cảm, dồn nén biết bao cảm xúc.
Điều tuyệt vời của khổ thơ không chỉ ở ngôn từ đơn giản mà còn ở hình ảnh “hàng tre xanh bát ngát”
Đã thấy trong sương hàng tre bát ngát.
Nhà thơ phải sớm ra xếp hàng mới nhìn thấy trong sương sớm lung linh hàng tre bát ngát. “bát ngát” – từ láy biểu cảm gợi không gian rộng lớn, xanh mát. Câu thơ tả thực “tre” là hình ảnh thân thuộc mà bao năm in vào tâm hồn người dân Việt Nam. Gặp lại hàng tre nhà thơ liên tưởng Bác đang sống gần gũi thân thuộc với làng quê. Hàng tre ấy như bao bọc, ôm lấy hình bóng của Người – vị lãnh tụ kính yêu của dân tộc Việt Nam. Sự xuất hiện của hàng tre khiến nhà thơ phải than thở:
Ôi! Hàng tre xanh xanh Việt Nam.
Thán từ “ôi” tách biệt thành câu đặc biệt vừa diễn đạt sự ngạc nhiên, vừa thể hiện nỗi xúc động. “Hàng tre xanh xanh Việt Nam” là hình ảnh biểu tượng cho con người, dân tộc Việt Nam anh dũng, kiên cường.
Bão táp mưa sa đứng thẳng hàng.
“Bão táp mưa sa” là cụm từ thành ngữ, tượng trưng cho những khó khăn, gian khổ. Còn tư thế “đứng thẳng hàng” ẩn chứa ý nghĩa về sức mạnh tinh thần, ý chí kiên cường, bản lĩnh bất khuất. Dân tộc Việt Nam, dù nhỏ bé nhưng không khuất phục trước kẻ thù, không đầu hàng trước thiên tai bão lụt, vẫn giữ vững lòng thủy chung và sức mạnh. Tình cha con ruột thịt được mở rộng, nâng lên hòa quyện trong tình thân quần chúng – lòng tôn kính sâu sắc dành cho lãnh tụ cao quý và thiêng liêng.
Nhờ sử dụng các biện pháp tu từ ẩn dụ, nói giảm nói tránh, và lựa chọn từ ngữ và hình ảnh cẩn thận, khổ thơ đầu đã thành công trong việc diễn tả sâu sắc nỗi xúc động, nghẹn ngào của nhà thơ khi lần đầu tiên viếng thăm lăng Bác.
Dù thời gian trôi qua nhưng niềm xúc động không phai nhạt trong lòng mỗi người khi đọc những dòng thơ trong “Viếng lăng Bác” của Viễn Phương. Với nhiều cung bậc cảm xúc, tác giả đã thực sự làm cho lòng người rung động, để họ tôn trọng và kính phục sự vĩ đại và cao quý của Bác, đồng thời trưởng thành hơn trong tâm hồn và nhân cách.
Ta bên Người, Người tỏa sáng bên ta
Ta bỗng lớn ở bên Người một chút
(Tố Hữu)
Cảm nhận khổ 1 bài Viếng lăng Bác - Mẫu 1
Khổ thơ đầu tiên đã thể hiện một cách xuất sắc những cảm xúc sâu sắc của tác giả khi nhìn thấy quang cảnh bên ngoài lăng Bác. Cách mở đầu rất gần gũi, đơn giản, nhưng lại rất sáng tạo, nhà thơ đã tài tình giới thiệu vị trí không gian của quãng đường từ miền Nam xa xôi ra thăm Bác:
“Con ở miền Nam ra thăm lăng Bác”.
Tiếng “con” ở đầu bài thơ vang lên rất thân thiết, gần gũi. Đây là cách gọi rất quen thuộc, rất ấm áp của những người dân Nam Bộ, thể hiện sâu sắc lòng nhớ mong của nhà thơ và người dân miền Nam đối với Bác, làm tan đi khoảng cách giữa lãnh tụ và nhân dân. Sử dụng từ “thăm” thay vì “viếng” như một cách để quên đi nỗi buồn, tiếc nuối, và hình dung Bác như vẫn còn sống mãi với dân tộc Việt Nam. Ấn tượng đầu tiên mà nhà thơ nhìn thấy khi đứng trước lăng Bác là hình ảnh của hàng tre:
“Đã thấy trong sương hàng tre bát ngát
Ôi! hàng tre xanh xanh Việt Nam
Bão táp mưa sa đứng thẳng hàng”.
Hiện ra trong sương mù của quảng trường Ba Đình lịch sử là hình ảnh của hàng tre xanh bát ngát - hình ảnh thực tế chỉ hàng tre thân quen trong làng quê Việt Nam khiến lăng Bác trở nên trang trọng và gần gũi. Câu cảm thán 'Ôi!' đã thể hiện sự xúc động kết hợp với niềm tự hào sâu sắc của tác giả. Hình ảnh hàng tre cũng mang theo ý nghĩa ẩn dụ về phẩm chất của con người Việt Nam, đó là sức sống kiên cường, bền bỉ, vẻ đẹp xanh mát như cây tre luôn tươi mới giữa đất đá khô cằn. Thành ngữ 'bão táp mưa sa' kết hợp với hình ảnh nhân hóa 'đứng thẳng hàng' đã mô tả vẻ đẹp kiên cường, bất khuất của con người Việt Nam giữa mọi thử thách và khó khăn.
Hàng tre mang đầy đủ phẩm chất của con người Việt Nam: giản dị, thanh cao, thẳng thắn, bất khuất. Hình ảnh hàng tre đầu tiên xuất hiện tại nơi lăng Bác cũng là biểu tượng của dân tộc Việt Nam, vì Bác cũng là biểu tượng của Việt Nam, đại diện cho con người Việt Nam hơn bao giờ hết. Hàng tre xanh được trồng xung quanh lăng Bác như muốn thay cả dân tộc Việt Nam canh giữ giấc ngủ yên bình cho Người. Tình cảm của nhà thơ và của người dân miền Nam khi trở về bên Bác thật sự chân thành, xúc động biết bao!
Cảm nhận khổ 1 bài Viếng lăng Bác - Mẫu 2
Trong khổ 1 của bài thơ Viếng lăng Bác, tác giả giới thiệu tình hình 'Con ở miền Nam ra thăm lăng Bác', đồng thời thể hiện tâm trạng dồn nén, xúc động, vì đây là cuộc viếng thăm trọng đại, đầy ý nghĩa với cách xưng hô 'Con - Bác'. Hình ảnh đầu tiên mà nhà thơ chú ý là hàng tre quen thuộc, kiên cường, bền bỉ, biểu tượng cho đất nước, cho dân tộc Việt Nam:
“Con ở miền Nam ra thăm lăng Bác
Đã thấy trong sương hàng tre bát ngát
Ôi! Hàng tre xanh xanh Việt Nam
Bão táp mưa sa, đứng thẳng hàng”.
“Đứa ở miền Nam ra lăng Bác thăm” không chỉ miêu tả tình hình mà còn thể hiện tâm trạng thiêng liêng, đầy ý nghĩa của cuộc viếng thăm lăng Bác. Cách xưng hô thân mật, gần gũi. Với nhiều người Việt Nam, Bác mãi “là Cha, là Bác, là Anh. Người không con mà có triệu con” nên tác giả mới dùng từ 'đứa'. Các nhà thơ Tố Hữu, Xuân Diệu, Chế Lan Viên, Nguyễn Đình Thi đều gọi Người là 'cha'. Nhưng đứa ở miền Nam, của Viễn Phương mang một sắc thái thiêng liêng bởi đó là tiếng lòng của đứa con đi xa mất cha.
Cụm từ “miền Nam” kích thích nhiều cảm xúc. Miền Nam là nơi xa xôi, miền đất cha ông đi mở cõi. Miền Nam, nơi đi trước về sau. Miền Nam, nơi Bác sinh sống luôn khao khát nhớ nhà: “Bác nhớ miền Nam nỗi nhớ nhà – Miền Nam mong Bác nỗi mong cha” (Tố Hữu).
Chữ “thăm” được tác giả sử dụng tinh tế và gợi cảm. Nó vừa giảm bớt nỗi đau buồn, vừa nhấn mạnh: Bác Hồ, vị cha già kính yêu vẫn ở đó, Người chỉ nghỉ ngơi thôi. Và tác giả như đứa con đi xa lâu ngày, nay chỉ mong gặp lại cha thân yêu.
Cảnh vật đầu tiên mà nhà thơ thấy ở lăng Bác là hàng tre bát ngát. Đứa con xa lần đầu về quê cha đã xúc động trước hàng tre xanh quanh nơi ở của Người. Hàng tre thật bên lăng Bác được nhìn với con mắt hiện thực và tưởng tượng vì thế thành hàng tre bát ngát, thành màu xanh dân tộc (xanh xanh Việt Nam) thành những chiến sĩ vững vàng bất chấp bão táp, mưa sa (Bão táp mưa sa đứng thẳng hàng). Vậy, lăng Bác thân quen như một làng quê sau hàng tre xanh. Nhưng ở đây cũng có ý nghĩa tượng trưng: Tre là biểu tượng của dân tộc cần cù, kiên cường, mạnh mẽ, xếp hàng cùng với các chiến sĩ bảo vệ giấc ngủ của Người.
Những câu thơ trong đoạn này không chỉ dừng lại ở việc mô tả khung cảnh xung quanh lăng với hàng tre có thật mà còn đưa ra những ý nghĩa sâu xa. Đến với Bác, chúng ta gặp được dân tộc và nơi Bác nghỉ ngơi luôn xanh mát dưới bóng tre của làng quê Việt Nam.
Khổ thơ 1 bài thơ Viếng lăng Bác ghi lại cái nhìn của nhà thơ khi đứng trước lăng Bác. Có lẽ, tác giả đã đứng im lặng để ngắm nhìn, suy ngẫm, hồi tưởng trong niềm xúc động mãnh liệt. Đây là lần đầu tiên được đến thủ đô, được viếng lăng Bác, gặp gỡ người cha già vĩ đại của dân tộc. Biết bao tâm sự, biết bao nhớ thương dồn nén bấy lâu giờ sắp được thỏa mãn. Giây phút trọng đại ấy khiến cho nhà thơ nghẹn ngào, xúc động không thể diễn tả hết.
Cảm nhận khổ 1 bài Viếng lăng Bác - Mẫu 3
Trong bài thơ Viếng lăng Bác của nhà thơ Viễn Phương, ông đã có những dòng thơ xúc động về hoàn cảnh ra viếng thăm vị cha già kính yêu của dân tộc:
“Đứa ở miền Nam đến thăm lăng Bác
Đã thấy trong sương hàng tre bát ngát
Ôi! Hàng tre xanh Việt Nam
Bão táp mưa sa, hàng tre đứng thẳng hàng”.
Bài thơ mở đầu bằng câu thơ thẳng thắn về hoàn cảnh viếng thăm lăng Bác của một đứa con miền Nam 'Đứa ở miền Nam đến thăm lăng Bác'. Cách xưng hô 'đứa-Bác' thể hiện sự gần gũi và tôn trọng như của một đứa con đối với một người cha vĩ đại. Cách xưng hô này gợi lên những dòng thơ:
'Bác nhớ miền Nam, nỗi nhớ nhà
Miền Nam mong Bác, nỗi mong cha'.
Với mỗi người dân miền Nam và cả Việt Nam, Bác Hồ chính là người cha già bao dung ôm cả đất nước vào lòng. Nay nhà thơ ra miền Bắc thăm lăng Bác và tác giả dùng từ 'thăm' thay vì 'viếng' như một cách nói giảm nói tránh. Người đọc cảm thấy như đang đi thăm người thân, một đứa con miền Nam đến thăm vị cha già kính yêu của mình.
Câu thứ ba là một lời cảm thán của tác giả 'Ôi! Hàng tre xanh xanh Việt Nam'. Câu thơ như một tiếng reo hân hoan và niềm tự hào về biểu tượng của dân tộc và con người Việt Nam: hàng tre Việt Nam trồng quanh lăng Bác. Hàng tre Việt Nam là biểu tượng của con người Việt Nam qua bao thế hệ với phẩm chất 'Bão táp mưa sa, đứng thẳng hàng'. Bão táp mưa sa là biểu tượng của những năm tháng khó khăn, vất vả của người dân Việt Nam.
Tuy nhiên, trong hoàn cảnh khó khăn đó, con người Việt Nam vẫn là những cây tre quật cường, anh dũng, nhân hậu với những phẩm chất tốt đẹp và hàng tre xanh Việt Nam cũng vậy. Tóm lại, khổ thơ đầu tiên của bài Viếng lăng Bác là những dòng thơ xúc động về hoàn cảnh đi thăm lăng của nhà thơ.
Cảm nhận khổ 1 bài Viếng lăng Bác - Mẫu 4
Khi nhắc đến hai tiếng Bác Hồ, mỗi người dân Việt Nam chúng ta luôn cảm thấy thân thương và gần gũi hơn bao giờ hết. Vẻ đẹp của một vị lãnh tụ hết lòng vì dân vì nước, một trái tim tràn ngập yêu thương và bản lĩnh phi thường ấy đã trở thành cảm hứng để các nhà thơ sáng tạo nên những tác phẩm song hành cùng thời gian. Viếng lăng Bác của Viễn Phương là bài thơ như thế, đặc biệt khổ thơ đầu của văn bản đã để lại trong lòng người đọc nhiều suy nghĩ và liên tưởng sâu xa:
“Con ở miền Nam ra thăm lăng Bác
Đã thấy trong sương hàng tre bát ngát
Ôi! Hàng tre xanh xanh Việt Nam
Bão táp mưa sa, đứng thẳng hàng”.
Viếng lăng Bác được sáng tác vào năm 1976, khi công trình lăng Bác vừa được khánh thành. Lần đầu tiên từ miền Nam hòa vào dòng người vào lăng viếng Bác, Viễn Phương chất chứa cảm xúc vừa trân trọng, vừa xúc động nghẹn ngào. Đặc biệt, khổ thơ đầu tiên khái quát cảm xúc của tác giả khi đứng trước lăng Bác.
Câu thứ nhất như thông điệp mộc mạc đồng thời chứa đựng biết bao cảm xúc thân thương của người con ở miền Nam lần đầu vào lăng viếng Bác: ' Con ở miền Nam ra thăm lăng Bác'. Chữ 'con' truyền đạt sự ấm áp, gần gũi nhưng không thiếu lòng kính trọng, trân trọng. Khoảng cách về địa lý được thu hẹp và khoảng cách giữa lãnh tụ và nhân dân cũng trở nên thân mật như tình cha con một nhà. Nghệ thuật nói giảm nói tránh được Viễn Phương sử dụng rất khéo léo, tác giả không dùng chữ 'viếng' mà lại sử dụng từ 'thăm' để giảm nhẹ nỗi đau thương mất mát, đồng thời cũng gợi sự gần gũi, gắn bó giữa Bác với 'con'. Bác dường như vẫn còn sống mãi trong muôn triệu trái tim, khối óc của người con đất Việt. Câu thơ đã khái quát được hoàn cảnh và cảm xúc của tác giả, đó cũng là cảm xúc của tất cả người dân Việt Nam dành cho Bác - vị cha già của dân tộc.
Đứng trước lăng Bác, hình ảnh đầu tiên để lại ấn tượng sâu đậm với tác giả đó chính là hàng tre bát ngát:
“Trong sương, hàng tre bát ngát
Ôi! Tre xanh xanh Việt Nam
Bão táp mưa sa, đứng thẳng hàng”.
Có phải ngẫu nhiên không mà trước bao nhiêu loài cây, hoa rực rỡ sắc màu trước lăng Bác, Viễn Phương chỉ nhớ cây tre giản dị? Câu trả lời là không, vì cây tre gắn với làng quê Việt Nam, gợi lên sự trang nghiêm nhưng không kém phần gần gũi. Không chỉ là một hình ảnh thực tế, cây tre còn mang ý nghĩa biểu tượng sâu xa. 'Hàng tre xanh xanh Việt Nam' là biểu tượng của con người Việt Nam, kết hợp với thành ngữ 'bão táp mưa sa' và nghệ thuật nhân hóa 'đứng thẳng hàng' thể hiện vẻ đẹp thanh cao, ý chí bất khuất kiên cường của mỗi công dân Việt Nam. Dù trải qua bao gian khó, nhân dân ta vẫn chung lòng quyết tâm chiến thắng, giành lại độc lập cho dân tộc. Hàng tre cũng giống như một đội quân anh dũng đứng canh bảo vệ giấc ngủ của Bác. Thán từ 'ôi' ở đầu câu thơ chuyển tải cảm xúc xúc động của người con miền Nam xa xôi ra thăm người.
Với bốn câu thơ ngắn ngủi, người đọc có thể hình dung được cảm xúc của nhà thơ khi đứng trước lăng Bác. Đó cũng là cảm xúc của nhân dân khi đối diện với người cha già vĩ đại của dân tộc Việt Nam.