TOP 14 bài Phân tích khổ cuối Viếng lăng Bác CỰC HẤP DẪN, giúp các em học sinh lớp 9 hiểu sâu hơn về tác phẩm, cảm nhận được tình cảm sâu sắc của nhà thơ Viễn Phương khi đến viếng lăng Bác.
Bằng cách sử dụng ngôn từ tu từ tinh tế và hình ảnh sâu sắc, khổ thơ cuối của bài Viếng lăng Bác đã truyền đạt được tâm trạng thành kính và sự hiếu kỳ đối với Bác. Mời các em đọc bài viết dưới đây để hiểu sâu hơn về môn Văn 9.
Đề bài: Phân tích khổ thơ cuối của bài thơ Viếng lăng Bác của nhà thơ Viễn Phương.
Phân tích phần kết của bài thơ Viếng lăng Bác của nhà thơ Viễn Phương
- Dàn ý phân tích khổ cuối bài thơ Viếng lăng Bác (2 mẫu)
- Phân tích khổ thơ cuối bài Viếng lăng Bác ngắn gọn
- Phân tích khổ cuối Viếng lăng Bác hay nhất
- Phân tích khổ thơ cuối bài Viếng lăng Bác
- Phân tích cảm xúc của nhà thơ qua khổ cuối Viếng lăng Bác
- Phân tích cảm xúc của nhà thơ khi rời lăng Bác qua khổ thơ cuối
- Phân tích khổ cuối Viếng lăng Bác
- Phân tích khổ cuối bài thơ Viếng lăng Bác chi tiết (5 mẫu)
- Cảm nhận khổ cuối Viếng lăng Bác
- Cảm nhận ý nghĩa khổ 4 bài thơ Viếng lăng Bác
- Viết đoạn văn phân tích khổ cuối Viếng lăng Bác
Dàn ý phân tích phần kết của bài thơ Viếng lăng Bác
Phần 1
1. Khai mạc
- Giới thiệu về sự trọng thể của kết thúc bài thơ Viếng lăng Bác.
2. Phần chính
- Tình cảm sâu nặng, lòng tràn đầy khi nhớ lại khoảnh khắc rời bỏ lăng Bác để quay về miền Nam.
- Từ “thương” chứa đựng mọi cảm xúc yêu thương, tôn trọng, cũng như nỗi buồn sâu thẳm, nhớ nhung.
- Cảm xúc rưng rức, đầy lưu luyến của người con miền Nam trước thời điểm ly biệt.
- Lời cầu chân thành, sâu sắc từ tác giả:
- Ước ao bay như chim, nở hoa, trỗi dậy như cây tre, vững bền bên Bác suốt muôn đời.
- Từ “muốn làm” thể hiện lòng khát khao chân thành, sâu sắc của tác giả.
- Dù mai trở về miền Nam, nhưng tấm lòng thành kính đã được trao về nơi lăng Bác, trọn vẹn.
--> Ba câu thơ đầy ý nghĩa ấy như là lời đại diện cho triệu triệu người Việt bày tỏ tình cảm thành kính, sâu sắc đối với lãnh tụ.
3. Phần kết
- Phản ánh nhận định tổng quát.
Phân đoạn 2
I. Giới thiệu
- Trình bày về phẩm chất đạo đức của người lãnh tụ vĩ đại Hồ Chí Minh
- Đề cập đến vấn đề cần được thảo luận: Phân tích khổ cuối của bài thơ Viếng lăng Bác của nhà thơ Viễn Phương
II. Phần chính
1. Tổng quan về bài thơ
Bài thơ Viếng Lăng Bác được nhà thơ Viễn Phương viết vào năm 1976, khi ông có dịp đặc biệt cùng đoàn đại biểu miền Nam đến thủ đô Hà Nội viếng lăng Bác sau khi đất nước hoàn toàn thống nhất và lăng Bác mới được hoàn thành.
2. Phân tích nội dung khúc thơ cuối cùng
- Sự đau lòng to lớn:
Khi trở về miền Nam, nước mắt tuôn trào trong lòng
+ Một lời “thương” từ miền Nam là biểu hiện toàn bộ tình cảm của nhân dân miền Nam dành cho Bác.
+ Tình thương là tình yêu, là sự kính trọng, là sự quý trọng cao quý mà Bác đã dành hết cho dân tộc, cho đất nước, cho công cuộc giải phóng dân tộc:
Bác ghi lại tình thương cho chúng con
Một cuộc đời thanh bạch không vinh hoa
+ Tình thương là sự đau xót vì mất mát của người cha già yêu quý, nỗi đau ấy trào dâng thành dòng nước mắt, không chỉ riêng dân tộc Việt Nam. Nỗi đau và tình thương của nhân dân Việt Nam dành cho Bác khiến cho cả trời đất đều cảm động khi:
Nhiều đêm dài khấn khúc tiễn biệt
Đời tràn nước mắt, trời tràn mưa
=> Câu thơ như là sự tỏa bày chân thành, vô hạn nỗi xót thương bị kìm nén cho đến lúc chia tay và trào thành dòng lệ.
- Ước mong của tác giả:
+ Trong tâm trạng đầy xúc động, lòng tràn đầy lưu luyến ấy, nhà thơ như mong muốn được biến thành để luôn ở bên Bác:
Mong làm con chim hót bên lăng Bác
Mong làm đóa hoa tỏa hương khắp nơi
Mong làm cây tre trung hiếu ở đây
+ Từ ngữ 'mong làm' được nhấn mạnh ba lần cùng với hình ảnh liên tục của con chim, đoá hoa, cây tre như để diễn đạt ước muốn sâu sắc của nhà thơ muốn Bác yên lòng, muốn trả ơn biển đất của Người.
=> Ước nguyện chân thành, sâu sắc của nhà thơ cũng là biểu hiện của cảm xúc của hàng triệu người miền Nam trước khi rời xa lăng Bác sau những lần đến thăm Người.
III. Phần Kết
- Phân tích cảm nhận cá nhân về đoạn thơ:
+ Đoạn thơ cuối diễn đạt tâm trạng lưu luyến của nhà thơ. Muốn ở mãi bên lăng Bác, nhưng tác giả cũng hiểu rằng đến lúc phải trở về miền Nam, chỉ còn cách là gửi tấm lòng bằng cách hóa thân, kết nối với những cảnh vật bên lăng Bác để mãi ở bên Người.
Phân tích súc tích đoạn thơ cuối của bài Viếng lăng Bác
Khổ thơ cuối (khổ thơ thứ tư) thể hiện tâm trạng của nhà thơ khi rời đi. Nhà thơ lưu luyến muốn mãi ở bên lăng Bác. Lòng nhớ thương, đau xót đã trào dâng thành dòng nước mắt: “Mai về miền Nam thương trào nước mắt'. Tình cảm ấy là động lực cho ước mơ, nhà thơ mong muốn hóa thân, kết nối với cảnh vật ở gần lăng Bác:
Muốn trở thành con chim hót quanh lăng Bác
Muốn trở thành đóa hoa tỏa hương khắp nơi
Muốn trở thành cây tre trung hiếu ở đây.
Hình ảnh cây tre lặp lại tạo nên ấn tượng sâu sắc và làm cho cảm xúc trở nên trọn vẹn. Cây tre đại diện đã kết hợp với cây tre chủ thể. Ẩn dụ này thể hiện lòng trung thành vô hạn và tôn kính đối với Bác, luôn theo đuổi lý tưởng của Người. Câu 'muốn trở thành' cùng với hình ảnh thơ tạo ra một nhịp điệu mạnh mẽ, biểu hiện tình cảm, khát vọng rất mãnh liệt. Bài thơ dường như kết thúc trong sự cách biệt của không gian nhưng lại tạo nên sự gần gũi trong tình cảm, ý chí. Đây cũng là tâm trạng chân thành của mỗi người khi viếng thăm Bác, đặc biệt là những người con miền Nam, xa cách không gian, cũng như những người chưa từng đặt chân đến lăng Bác nhưng lòng vẫn hướng về Người.
Dù Bác đã ra đi, nhưng Bác sẽ mãi sống trong trái tim của Viễn Phương và của toàn bộ nhân dân Việt Nam. Ước mong cao đẹp được thực hiện để được ở bên Bác cũng là ước nguyện cao quý nhất, là biểu hiện toàn bộ tấm lòng quý trọng của nhân dân ta.
Phân tích khổ thơ cuối của bài Viếng lăng Bác một cách súc tích
Viễn Phương là một nhà văn đã xuất hiện từ sớm trong hàng ngũ văn nghệ sĩ miền Nam thời kỳ kháng chiến chống Mỹ cứu nước. Ông đã đóng góp to lớn cho văn chương dân tộc với nhiều tác phẩm xuất sắc. Trong số đó, không thể không kể đến bài thơ “Viếng lăng Bác”. Và khổ thơ cuối, đã thể hiện chân thành tâm trạng của người con khi phải nói lời tạm biệt với cha:
“Mai về miền Nam thương trào nước mắt”
Tác giả đứng trước lăng, vẫn ở bên Bác, nhưng nỗi nhớ càng lớn khi nghĩ đến việc ngày mai phải chia xa người cha vĩ đại của dân tộc. Bởi biết phải rời xa Bác, nỗi buồn tràn ngập trong lòng thi sĩ. Tác giả đã trực tiếp diễn đạt tình cảm qua cụm từ “thương trào nước mắt”. Niềm đau thương nhà thơ dành cho Bác không thể diễn tả thành lời, mà là những giọt nước mắt rơi. Đó là giọt nước mắt đau lòng của người con yêu quý và thương Bác. Tình cảm của tác giả lớn lên đến mức ước ao dường như phi lý: làm chim, làm hoa, làm cây tre:
“Muốn trở thành con chim hót quanh Bác
Muốn trở thành đóa hoa tỏa hương khắp nơi
Muốn trở thành cây tre trung hiếu ở đây”
Bằng việc sử dụng điệp ngữ “muốn trở thành”, tác giả đã nhấn mạnh những ước ao chân thành của mình: mong làm chú chim trên bầu trời tự do để mỗi ngày hót lên lời yêu Bác sâu đậm; mong được làm “bông hoa tỏa hương thơm” để làm say lòng người. Đặc biệt, chúng ta càng cảm nhận được tấm lòng của tác giả qua một ao ước chân thành, giản dị: làm “cây tre trung hiếu”. Nhà thơ muốn hòa mình vào hàng tre xanh trước lăng để mỗi ngày tỏa bóng mát. Không chỉ thế, ước nguyện muốn trở thành cây tre còn thể hiện khát vọng được ở bên canh giấc ngủ ngàn thu cho Người, được thể hiện lòng biết ơn vô hạn đối với vị cha già của dân tộc. Ước mong trở thành “cây tre trung hiếu” ở cuối khổ thơ đã tạo ra một kết cấu phù hợp cho cả bài thơ. Hình ảnh cây tre với những đức tính tốt đẹp mở đầu và cũng kết thúc bài thơ một cách tự nhiên. Cây tre mang đến vẻ đẹp của đất nước, con người Việt Nam muôn đời. Khổ thơ cuối kết thúc lắng đọng vô cùng cảm xúc của tác giả. Ước nguyện chân thành của Viễn Phương gợi nhớ lời thơ của Thanh Hải trong bài “Mùa xuân nho nhỏ”:
“Ta muốn làm con chim hót
Ta muốn trở thành một cành hoa
Ta muốn hòa mình vào hòa ca
Và trở thành một nốt trầm xao xuyến”.
Nếu Thanh Hải ước mơ trở thành một tiếng chim, một cành hoa để làm đẹp cho mùa xuân của đất nước, thì Viễn Phương lại mong muốn hóa thân vào cảnh vật để ở bên Bác suốt đời.
Với việc sử dụng phép tu từ điệp ngữ kết hợp với những hình ảnh thơ giàu cảm xúc, Viễn Phương đã gửi đến người đọc tình cảm chân thành, sâu sắc dành cho Bác. Những ước nguyện này không chỉ của tác giả mà còn của cả dân tộc Việt Nam dành cho vị cha già kính yêu muôn đời.
Phân tích khổ thơ cuối bài Viếng lăng Bác
Trong văn học Việt Nam, có nhiều tác phẩm viết về Bác Hồ, trong đó có những câu thơ của nhà thơ Bảo Định Giang về nhân cách và phẩm chất đạo đức của chủ tịch Hồ Chí Minh:
Tháp Mười là đẹp nhất bông sen
Việt Nam là đẹp nhất khi có tên Bác Hồ
Dân tộc Việt Nam luôn biết ơn, kính trọng và tự hào về vị cha già kính yêu đã dành cuộc đời cho non sông, đất nước, cho sự giải phóng dân tộc. Và để tri ân công lao của Người, có nhiều vần thơ đẹp. Một trong số đó là bài thơ Viếng lăng Bác của nhà thơ Viễn Phương - bài thơ ghi lại cảm xúc khi từ miền Nam ra Hà Nội thăm Bác Hồ. Đặc biệt, khổ thơ cuối của bài thơ là những cảm xúc mãnh liệt nhất, là nỗi niềm lưu luyến khi phải xa Bác để trở về miền Nam:
Mai về miền Nam, nước mắt trào dâng
Ước ao làm con chim hót quanh lăng Bác
Ước ao trở thành đoá hoa tỏa hương khắp nơi
Ước ao làm cây tre trung hiếu ở đây
Câu đầu tiên của khổ thơ thể hiện nỗi niềm xót thương, lưu luyến vô hạn khi sắp phải rời xa nơi đây:
Mai về miền Nam, nước mắt trào dâng
Câu thơ nhỏ như một lời chào với Bác Hồ của tác giả, một lời tạm biệt đơn giản nhưng sâu lắng, thiết tha. Từ 'trào' trong câu thơ đã khiến người đọc cảm nhận được những cảm xúc mãnh liệt, sự lưu luyến, bịn rịn không muốn rời xa Bác Hồ. Tâm trạng ấy không chỉ của riêng tác giả mà của mọi trái tim Việt Nam khi đến thăm lăng Bác.
Tiếp sau đó, nhà thơ đã thể hiện mong ước của mình được trở thành những sự vật ở bên lăng Bác.
Muốn làm con chim hót quanh lăng Bác
Muốn làm đoá hoa toả hương đâu đây
Muốn làm cây tre trung hiếu chốn này
Những mong ước của tác giả rất bình dị, ông chỉ mong muốn trở thành những chú chim nhỏ để hót vui quanh lăng, muốn trở thành một đoá hoa giữa vườn hoa muôn sắc để toả hương thơm ngát, muốn trở thành cây tre trung hiếu bên lăng để canh giữ giấc ngủ bình yên cho Người. Điệp ngữ 'muốn làm' cùng với những hình ảnh, sự vật thân thuộc mà nhà thơ muốn hóa thành đã thể hiện những ước muốn đầy mãnh liệt, thiết tha của tác giả. Những ước muốn ấy không chỉ của riêng nhà thơ mà còn là của tất cả nhân dân miền Nam, của cả dân tộc Việt Nam đối với Bác.
Đặc biệt, ước mong được trở thành cây tre bên cạnh lăng để canh giữ giấc ngủ của Bác là một ước nguyện thật đặc biệt. Cây tre trung hiếu ấy là một hình ảnh ẩn dụ cho lòng kính yêu, sự biết ơn vô hạn của toàn thể nhân dân Việt Nam với Bác. Ước mong ấy cũng như một lời khẳng định rằng nhà thơ cũng như toàn thể dân tộc Việt Nam sẽ mãi đi theo con đường cách mạng của Người để bảo vệ nền độc lập, tự do cho Tổ quốc. Hình ảnh cây tre xuất hiện ở câu thơ cuối cùng cũng tạo nên kết cấu đầu cuối tương ứng cho bài thơ khi mở đầu là 'hàng tre bát ngát' và kết thúc là 'cây tre trung hiếu'. Hình ảnh ấy đã tạo nên những ấn tượng sâu sắc cho người đọc cũng như làm cho dòng cảm xúc của tác giả trở nên trọn vẹn.
Khổ thơ cuối của bài thơ 'Viếng lăng Bác' đã diễn tả nỗi riêng của tác giả nhưng những nỗi niềm ấy lại mang tình cảm khái quát chung. Tác giả đã diễn tả khát vọng của bản thân cũng như khát vọng của những người dân Việt Nam khác luôn hướng về Người - về vị lãnh tụ vĩ đại của dân tộc ta.
Phân tích cảm xúc của nhà thơ qua khổ cuối Viếng lăng Bác
Trong bài thơ Viếng lăng Bác, nhà thơ Viễn Phương đã thể hiện cảm xúc lưu luyến, bịn rịn đối với Bác - vị chủ tịch vĩ đại của dân tộc Việt Nam. Thật vậy, nếu như những dòng thơ trên là nỗi đau buồn, thương nhớ của 1 người con miền Nam đối với Hồ Chủ tịch vĩ đại thì khổ thơ cuối đã thể hiện sự lưu luyến không muốn rời xa đối với Bác:
“Mai về miền Nam thương trào nước mắt
Muốn làm con chim hót quanh lăng Bác
Muốn làm đoá hoa toả hương đâu đây
Muốn làm cây tre trung hiếu chốn này”
Cụm từ 'thương trào nước mắt' thể hiện một nỗi buồn thương mãi mãi không nguôi trong lòng tác giả đối với sự ra đi của Bác và việc sắp phải xa Bác. Khi sắp phải trở về miền Nam, tâm trạng của nhà thơ như tâm trạng của 1 người con sắp phải xa cha, đau buồn vô cùng. Tiếp theo, tác giả dùng điệp ngữ 'muốn làm' để thể hiện khát vọng muốn được hóa thân vào những thứ bé nhỏ để được mãi ở bên Bác. Những hình ảnh bình dị như 'con chim hót, đóa hoa tỏa hương' thể hiện được sự khát khao cống hiến, muốn được dâng hiến cho Bác. Chao ôi, đây là một ước mơ vô cùng bình dị mà lớn lao của tác giả. Nhưng quan trọng hơn, tác giả muốn được làm 'cây tre trung hiếu'. Cây tre trung hiếu dường như là hình ảnh của người dân Việt Nam với những phẩm chất bình dị, kiên cường, trung hiếu.
Dường như, tác giả khao khát được hóa thân vào những thứ bình dị để được mãi mãi ở bên Bác, được Bác soi sáng cho con đường đi của dân tộc Việt Nam. Những cảm xúc của tác giả là những cảm xúc vô cùng chân thực, bình dị mà cao đẹp, đó là tâm trạng của 1 người con trước vị cha già kính yêu của dân tộc.
Phân tích cảm xúc của nhà thơ khi rời lăng Bác qua khổ thơ cuối
Mong mỏi bao nhiêu năm, nay mới có dịp ra thăm lăng Bác, nhà thơ chất chứa biết bao tâm sự và tình cảm mến yêu. Khoảnh khắc viếng thăm ngắn ngủi khiến nhà thơ vô cùng xúc động và luyến tiếc. Khổ thơ thứ tư diễn tả tâm trạng lưu luyến của nhà thơ muốn được ở mãi bên lăng Bác.
“Mai về miền Nam thương trào nước mắt
Muốn làm con chim hót quanh lăng Bác
Muốn làm đoá hoa toả hương đâu đây
Muốn làm cây tre trung hiếu chốn này…”
Câu thơ “Mai về miền Nam dâng trào nước mắt” như một lời giã biệt. Lời nói giản dị diễn tả tình cảm sâu lắng. Từ “trào” diễn tả cảm xúc thật mãnh liệt, luyến tiếc, bịn rịn không muốn xa nơi Bác nghỉ. Nhà thơ muốn được trong nhìn hình dung Bác, hồi tưởng lại biết bao kỉ niệm, tỏ bày biết bao tình yêu mến. Đó cũng là tâm trạng của muôn triệu con tim bé nhỏ cùng chung nỗi đau không khác gì tác giả. Được gần bác dù chỉ trong giây phút nhưng không bao giờ ta muốn xa Bác bởi người ấm áp quá, rộng lớn quá.
Ước nguyện thành kính của Viễn Phương cùng là mong ước chung của những người đã hoặc chưa một lần nào gặp Bác. Dẫu biết vậy nhưng nhà thơ phải rời xa lăng Bác để trở về miền Nam, tiếp tục nhiệm vụ cùng nhân dân xây dựng và bảo vệ tổ quốc. người lính năm xưa với tình cảm lớn lao đã ước nguyện được ở lại và gắn kết cuộc đời mình với cuộc đời lớn của dân tộc:
“Muốn trở thành tiếng hót của con chim
Muốn là đóa hoa tỏa hương nơi này
Muốn là cây tre trung hiếu chốn này…”
Tác giả muốn trở thành tiếng hót của con chim để ru giấc ngủ bác. Đó là âm thanh thiên nhiên tinh khôi, tạo nên bức tranh đẹp và thanh bình; muốn là đóa hoa tỏa hương thơm cao quý tại nơi Bác yên nghỉ, cùng góp phần tô điểm vẻ đẹp của vườn hoa quốc gia; muốn là cây tre trung hiếu đứng canh bác, trở thành người lính kiên trung vĩnh viễn bảo vệ giấc ngủ của Bác.
Từ “muốn làm” được lặp lại nhiều lần biểu thị sự khát khao, tình cảm lớn lao của nhà thơ đối với Bác Hồ kính yêu, vị cha già vĩ đại của dân tộc, thể hiện tâm trạng lưu luyến, ước muốn và sự tự nguyện chân thành của tác giả.
Hình ảnh của cây tre mở đầu và kết thúc bài thơ một cách khéo léo. Cây tre là biểu tượng của tinh thần chiến đấu mạnh mẽ, bất khuất, sức sống kiên cường và bền bỉ của dân tộc. “Muốn làm cây tre” là mong ước hóa thân thành một phần thiêng liêng của đất nước. Đồng thời, đó cũng là lời hứa, quyết tâm tiếp tục thực hiện di nguyện của Bác: xây dựng và bảo vệ đất nước trong thời đại mới.
Phân tích khổ cuối Viếng lăng Bác
Cảm xúc cuối cùng của nhà thơ khi rời lăng Bác
“Mai về miền Nam thương trào nước mắt
Muốn trở thành tiếng hót của con chim quanh lăng Bác
Muốn là đóa hoa toả hương nơi này
Muốn là cây tre trung hiếu ở đây…”
Nhà thơ mong muốn hóa thân thành con chim hót, đóa hoa toả hương, cây tre trung hiếu để dâng hiến những điều tốt đẹp nhất cho Bác và cho đất nước. Hình ảnh cây tre lặp lại tạo ấn tượng sâu sắc và thể hiện lòng kính yêu và trung thành vô hạn đối với Bác. Các điệp ngữ “muốn làm” cùng với hình ảnh thơ đằng sau tạo nên một bức tranh thơ đầy cảm xúc và khát vọng dâng trào.
Phân tích chi tiết khổ cuối bài thơ Viếng lăng Bác
Phân tích khổ cuối Viếng lăng Bác - Mẫu 1
Bác Hồ, người cha già kính yêu của dân tộc luôn là nguồn cảm hứng bất tận cho triệu triệu con người Việt Nam. Dù đã ra đi, nhưng tâm hồn Người vẫn sống mãi trong lòng nhân dân, trở thành nguồn động viên không ngừng cho văn hóa. Trong số các tác phẩm viết về Bác, bài thơ “Viếng lăng Bác” của Viễn Phương nổi bật với sự xúc động và lòng trung thành của nhà thơ đối với người cha già. Phân tích khổ cuối của bài thơ “Viếng lăng Bác”, chúng ta có thể nhận ra ước mong nhỏ bé của tác giả đối với Chủ tịch Hồ.
Nhà thơ Viễn Phương (1928 – 2005), tên thật Phan Thanh Viễn, sinh ra và lớn lên ở An Giang. Trong cuộc chiến chống Pháp và Mỹ, ông tham gia vào chiến trường miền Nam. Trong cuộc đấu tranh giành độc lập, ông không chỉ là một chiến binh mà còn là một nhà văn có ảnh hưởng nhất của văn hoá miền Nam. Năm 1952, khi miền Nam tổ chức giải thưởng văn học nghệ thuật, bài thơ “Chiến thắng Hòa Bình” của Viễn Phương đã nhận giải nhì. Sau đó, ông tham gia Hội Văn nghệ Miền Nam và được bầu vào Ban chấp hành. Các tác phẩm nổi bật của ông bao gồm “Như mây mùa xuân”, “Anh hùng mìn gạt”, “Lòng mẹ”,… Sinh ra và lớn lên ở miền Tây sông nước, thơ của Viễn Phương phản ánh rõ nét phong cách và tinh thần của địa phương này. Các tác phẩm của ông chứa đựng nhiều cảm xúc mạnh mẽ nhưng không quá lời lẽ. Thơ của ông đậm chất dân dã, tinh tế, như những lời thổn thức, tâm sự với độc giả. Do đó, mỗi tác phẩm của ông đều được độc giả yêu mến và trân trọng.
Bài thơ “Viếng Lăng Bác” được tác giả Viễn Phương sáng tác vào tháng 4 năm 1976, sau khi đất nước giành được chiến thắng lớn trước Mỹ. Sau khi lăng Bác được hoàn thành, ông được mời tham dự lễ viếng lăng cùng đoàn đại biểu miền Nam. Tác phẩm được in trong tập thơ “Như mây mùa xuân”, xuất bản năm 1978.
Bài thơ “Viếng lăng Bác” thể hiện sự xúc động sâu sắc, lòng kính trọng không ngừng của Viễn Phương đối với vị lãnh tụ dân tộc. Đó là những cảm xúc mạnh mẽ khi đứng trước cảnh lăng; khi tham gia lễ viếng Bác; khi nhìn thấy hình bóng của Bác. Cuối cùng, khúc thơ cuối cùng là những tâm trạng sâu lắng trước khi rời đi. Đây cũng là khúc thơ biểu lộ mong muốn nhỏ bé, muốn ở lại bên Bác, không muốn rời xa của nhà thơ:
“Mai trở về miền Nam, lòng đầy nước mắt
Muốn trở thành chim hót vang quanh lăng Bác
Muốn trở thành bông hoa toả hương khắp nơi
Muốn trở thành cây tre trung thành bên đây…”
Trước hết, khúc thơ biểu hiện sự thương cảm sâu sắc của tác giả khi phải rời xa Bác:
“Mai trở về miền Nam, lòng đầy nước mắt”
Ngôn ngữ Việt Nam vô cùng phong phú. Từ “thương” có lẽ là từ đặc biệt mà không một ngôn ngữ nào có thể diễn tả, lí giải được. Chỉ một tiếng “thương” thôi, tình cảm của nhân dân miền Nam dành cho Bác đã được thể hiện một cách hoàn hảo. Đó là tình yêu và sự kính trọng đối với Chủ tịch Hồ, một cuộc đời cao quý và vĩ đại. Người đã hi sinh tất cả cho dân, cho đất nước, cho sự nghiệp giải phóng dân tộc. Đó là sự hy sinh không tiếc nuối của người cha già lặng lẽ, đầy trăn trở:
“Bác gửi tình thương cho chúng con
Một đời thanh cao không vàng bạc”
Đó cũng là nỗi tiếc nuối, đau thương của tác giả và nhân dân Việt Nam. Giờ đây, chúng ta đã mãi mãi mất đi người cha già kính yêu. Nỗi đau ấy, sau những kìm nén trong suốt cuộc hành trình về với Bác, giờ đây khi phải chia xa đã “trào nước mắt”. Mọi xót thương dồn nén lại, tuôn trào. Và không chỉ con người mới cảm thấy đau lòng, dường như cả thiên nhiên đất trời cũng đồng lòng:
“Qua bao đêm dài đau đớn tiễn đưa
Đời tuôn lệ trời tuôn mưa”
(Tố Hữu)
Chỉ với một câu thơ 8 chữ, tâm trạng của nhà thơ Viễn Phương đã được diễn đạt rất chân thành. Đó là nỗi đau đớn vô tận sau khi được kìm nén đã trào ra thành dòng lệ trong khoảnh khắc chia tay.
Không chỉ biểu lộ cảm xúc một cách chân thành, tác giả Viễn Phương còn thể hiện mong muốn nhỏ bé được ở bên Bác:
“Muốn trở thành con chim hót quanh lăng Bác
Muốn trở thành đóa hoa tỏa hương khắp nơi
Muốn trở thành cây tre trung hiếu thảo ở đây…”
Trong khoảnh khắc chia xa đầy tiếc thương, cảm xúc nghẹn ngào của nhà thơ đã khiến tác giả mong muốn hóa thân để mãi ở bên Người. Ở đây, tác giả đã sử dụng liên tiếp ba lần điệp ngữ “muốn làm”. Cùng với đó, các hình ảnh con chim, đoá hoa, cây tre được kết hợp và sử dụng ý nghĩa đầy ý. Tất cả đã nói lên ước nguyện sâu sắc của nhà thơ. Ông muốn Bác được yên lòng nghỉ ngơi, còn mình thì muốn đền đáp công ơn trời biển của Người. Tác giả không mong ước gì quá to lớn mà chỉ mong được ở bên Bác mỗi ngày, trở thành con chim, cành tre lặng lẽ, âm thầm. Điều này đã cho thấy sự thấu hiểu của tác giả về Bác.
Tác giả muốn làm “con chim” để hót quanh lăng Bác. Tiếng chim ấy sẽ như lời yêu thương của nhân dân Việt Nam ở bên, bầu bạn với Người. Cánh chim ấy cũng là cánh chim của tự do, hoà bình, là minh chứng cho khát vọng độc lập thuở hàn vi Bác đã hằng mong mỏi. Không ước làm ánh mặt trời, là cái gì lớn lao mà chỉ là cánh chim không mỏi, nhỏ bé nhưng lại mạnh mẽ và kiên cường vô cùng.
Tác giả còn ước được làm “đóa hoa” luôn “tỏa hương đâu đây”. Sinh thời, Bác rất yêu hoa. Và dường như hiểu được tâm ý này, nhà thơ Viễn Phương đã ước được hóa thân thành sự vật quen thuộc và ý nghĩa ấy. Không làm cây hoa, cành hoa mà chỉ ước làm một “đóa hoa” giữa rừng hoa tươi đẹp. Đóa hoa ấy còn không hề có tên gọi, màu sắc, hương thơm cụ thể. Chỉ là một đóa hoa vô danh, thế nhưng luôn tỏa hương, làm đẹp cho đời. Tác giả như muốn nhấn mạnh rằng nhân dân Việt Nam, không phân biệt dân tộc giới tính, nghề nghiệp, đều tươi đẹp và xứng đáng trân trọng.
Ở đây, tác giả đã sử dụng kết cấu đầu cuối cho bài thơ. Mở đầu là “hàng tre bát ngát”, kết thúc cũng là “cây tre trung hiếu”. Cũng như cánh chim, đóa hoa, tác giả vẫn chỉ ước làm “cây tre trung hiếu chốn này” giữa hàng triệu cây tre khác. Nhân dân Việt Nam sẽ luôn đứng cùng với nhau, đoàn kết, kiên cường trước mọi biến chuyển. Đó cũng chính là mong mỏi của Bác lúc sinh thời. Những nguyện ước nhỏ bé ấy của tác giả Viễn Phương vừa chân thành lại vừa sâu sắc. Đó cũng chính là những cảm xúc và mong muốn của hàng triệu con người miền Nam, của toàn bộ nhân dân Việt Nam trước khi rời lăng Bác sau những lần đến thăm Người.
Với ngôn ngữ phong phú cùng những hình ảnh đặc trưng, khổ cuối bài thơ “Viếng lăng Bác” đã để lại trong lòng người đọc nhiều cảm xúc mạnh mẽ. Đó là niềm tiếc nuối, bâng khuâng cùng những mong mỏi đau đáu của tác giả – cũng chính là nguyện ước của triệu triệu người dân Việt Nam với Bác. Có hàng nghìn bài thơ viết về Bác, thế nhưng Viễn Phương với áng thơ dịu nhẹ của mình vẫn giữ vị trí không thể thay thế, làm đẹp hơn kho tàng văn chương về Bác.
Phân tích khổ cuối Viếng lăng Bác - Mẫu 2
Sau bao nhiêu cảm xúc của một người con lần đầu ra thăm người cha của mình thì giờ đây đã đến lúc phải rời xa. Cảm xúc ấy của nhà thơ Viễn Phương đã thể hiện qua khổ thơ cuối bài thơ “Viếng lăng Bác” với bao ước muốn thành kính.
Bài thơ được sáng tác năm 1976 sau khi cuộc kháng chiến chống Mỹ kết thúc, đất nước được thống nhất, lăng chủ tịch Hồ Chí Minh cũng vừa khánh thành. Tác giả ra thăm miền Bắc vào lăng viếng Bác Hồ. Bài thơ chính là niềm xúc động thiêng liêng thành kính, lòng biết ơn và tự hào pha lẫn nỗi xót đau của tác giả từ miền Nam ra viếng lăng Bác. Cuộc hành trình ấy đã đến lúc phải ra về với câu thơ đầy xúc động:
“Ngày trở về miền Nam, lòng đầy nước mắt”
Lời từ biệt của người con đối với cha, nỗi xót xa sâu lắng. Tình cảm chân thành của nhà thơ dành cho Bác và của mọi người khi phải rời xa lăng. Từ “trào” diễn đạt cảm xúc mãnh liệt, luyến tiếc, không muốn rời xa nơi Bác nghỉ. Đó là tâm trạng của hàng triệu con tim như tác giả. Dù chỉ gần Bác trong phút chốc nhưng không ai muốn rời xa Bác, bởi Người ấm áp, rộng lớn quá. Dòng người rời lăng viếng Bác đã đến lúc.
Trong cảm xúc nghẹn ngào đó là ước nguyện thành kính của Viễn Phương cũng là mong ước chung của những người đã hoặc chưa từng gặp Bác:
“Muốn trở thành con chim hót quanh lăng Bác
Muốn trở thành đóa hoa tỏa hương đâu đây
Muốn trở thành cây tre trung hiếu chốn này”
Những ước nguyện của nhà thơ thật đáng quý! Nhà thơ muốn trở thành con chim hót để mang âm thanh của thiên nhiên, đẹp đẽ, trong lành đến với nơi Bác nghỉ. Tác giả muốn trở thành một đóa hoa tỏa hương thơm thanh cao. Muốn trở thành một cây tre trung hiếu giữ mãi giấc ngủ bình yên cho Người. Hình ảnh cây tre là một biểu tượng đẹp được kết thúc khéo léo ở cuối bài thơ. Ước nguyện của tác giả được bộc lộ từ tận đáy lòng.
Khổ thơ cuối bài Viếng lăng Bác thể hiện tâm trạng lưu luyến của nhà thơ muốn ở lại gần Bác mãi không muốn rời xa nơi Bác nghỉ. Đồng thời là niềm ước nguyện của Viễn Phương muốn sống một cuộc đời đẹp để trở thành những bông hoa dâng lên Bác.
Phân tích khổ cuối Viếng lăng Bác - Mẫu 3
Bài thơ Viếng lăng Bác đã thể hiện sự xúc động và lòng biết ơn sâu sắc của Viễn Phương - một nhà thơ miền Nam lần đầu ra Hà Nội và tham gia vào lễ viếng lăng Bác. Cấu trúc của bài thơ như một hành trình miêu tả các khoảnh khắc khi tác giả đứng trước lăng, khi xếp hàng và khi đứng trước di hài của Bác. Khổ thơ cuối bài thơ là một điểm dừng kết thúc hành trình, thể hiện niềm lưu luyến của Viễn Phương khi chia tay Bác để trở về miền Nam:
Mai về miền Nam thương trào nước mắt
Muốn trở thành con chim hót quanh lăng Bác
Muốn trở thành đóa hoa tỏa hương đâu đây
Muốn trở thành cây tre trung hiếu chốn này.
Dòng thơ đầu tiên bùng phát cảm xúc mãnh liệt, như dòng nước mắt trào ra không ngừng, như muôn vàn lời thương yêu và niềm xót xa của người miền Nam: 'Mai về miền Nam thương trào nước mắt'. Một chữ 'thương' như gói gọn trong đó biết bao tình cảm của dân Nam, biểu lộ sự thương yêu, xót xa và tôn trọng. Câu thơ đầy xúc động, lưu lại trong lòng đọng mãi.
Tiếc nuối và nhớ thương hiện hữu, và do đó, nhân vật trữ tình biểu đạt sự bồi hồi và ước ao cá nhân:
Ước muốn hóa thân thành con chim hót quanh lăng Bác
Ước muốn trở thành đóa hoa tỏa hương nơi này
Ước muốn làm cây tre trung hiếu ở đây.
Châm ngôn 'muốn làm' được lặp lại ba lần, kèm theo nhịp thơ dồn dập, thể hiện sự khao khát chân thành và tha thiết của tác giả. Mong muốn trở thành con chim, đóa hoa tỏa hương, cây tre trung hiếu, tất cả đều là những hình tượng đời thường giản dị, gần gũi với thiên nhiên. Mong muốn trở thành con chim để mang tiếng hót vui vẻ đến với Bác, làm đóa hoa để lan tỏa hương thơm, làm cây tre gần gũi để tượng trưng cho vẻ đẹp thủy chung của người Việt. Hình ảnh cây tre ở đầu bài thơ được nhấn mạnh, với kết cấu đầu cuối tương ứng như một lời thề chắc chắn của nhà thơ và của nhân dân Việt Nam, cam kết theo đuổi lý tưởng của Bác. Dù về miền Nam, tấm lòng chân thành vẫn được gửi trọn vẹn tại lăng Bác. Ba dòng thơ ấy như là lời tỏ lòng tri ân, sự kính trọng của triệu triệu người dân Việt Nam tới lãnh tụ.
Toàn bộ bài thơ là tiếng lòng của một người con khi đến thăm lăng Bác, đặc biệt cảm xúc ấy được tập trung trong khổ thơ cuối cùng. Dù Bác đã ra đi, nhưng Bác sẽ mãi sống trong trái tim của Viễn Phương và của toàn bộ nhân dân Việt Nam. Ước nguyện cao cả được biểu đạt để được bên Bác, cũng là ước nguyện tuyệt vời nhất, thể hiện lòng trân trọng sâu sắc của nhân dân.
Phân tích khổ cuối Viếng lăng Bác - Mẫu 4
Tháp Mười xinh đẹp nhất bên bờ sen
Việt Nam trở nên tươi đẹp nhờ có vị Bác Hồ
Những câu thơ của nhà thơ Bảo Định Giang như những nét vẽ tài hoa về phẩm chất đạo đức của chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại. Dân tộc Việt Nam mãi mãi tự hào về vị cha già kính yêu, người đã dành cả cuộc đời để hiến dâng cho non sông quê hương. Tri ân người đã được thể hiện qua vần thơ của nhiều nhà văn, nghệ sĩ. Trong đó, bài thơ Viếng lăng Bác của Viễn Phương là biểu tượng cho sự kính trọng, lòng ngưỡng mộ sâu sắc dành cho Bác. Bài thơ kết thúc với những dòng cảm xúc:
“Mai trở về miền Nam nhớ đến nỗi nước mắt lưu luyến
Ước mình thành con chim hót vang quanh lăng Bác
Ước mình là đóa sen tỏa hương đây
Ước mình là cây tre trung hiếu ở đây”
Bài thơ Viếng lăng Bác của Viễn Phương được sáng tác trong chuyến viếng thăm nơi yên nghỉ cuối cùng của Bác Hồ. Nó thể hiện sự xúc động, lòng biết ơn sâu sắc và nỗi nhớ thương Bác Hồ của tác giả khi đến viếng lăng. Trong khổ cuối, Viễn Phương thể hiện sự lưu luyến, tiếc nuối khi phải tạm biệt Bác trở về miền Nam.
Thương tiếc làm xót xa trái tim vì mất mát người cha già kính yêu, nỗi đau ấy dâng trào thành dòng nước mắt, không chỉ riêng dân tộc Việt Nam mà còn cả tận trời đất. Sự thương tiếc của nhân dân Việt Nam đối với Bác chạm đến lòng trời đất khi:
Những đêm dài vẫn tiễn đưa đầy đau thương
Đời tuôn lệ, trời tuôn mưa dày
Trong khoảnh khắc thiêng liêng, đứng trước vĩ đại và lòng hi sinh tận tụy của Người, nhà thơ bày tỏ xúc động và sẵn lòng dâng hiến cuộc đời:
Ước mình thành con chim vang lên quanh lăng Bác
Ước mình là đóa hoa tỏa hương nơi đây
Ước mình là cây tre trung hiếu ở đây
Dù bước đi nhưng lòng vẫn còn quay lại, lưu luyến không muốn rời, sức mạnh và đạo đức của Hồ Chí Minh níu kéo lòng người. Điệp ngữ “muốn làm” lặp đi lặp lại diễn tả tâm trạng lưu luyến và ước nguyện. Nhà thơ ước mơ trở thành con chim hót để mang niềm vui đến cho Bác, làm đóa hoa tỏa hương sâu sắc tô điểm cuộc sống và trở thành “cây tre trung hiếu” đứng bên cạnh, canh từng giấc ngủ cho Người. Đây cũng là lời hứa sống xứng đáng với lời dạy của Người. Viễn Phương đã thể hiện mong ước của mình cũng như của mọi người Việt Nam muốn được gần gũi với Bác và trưởng thành hơn một chút:
Bên Người, Người tỏa sáng trong ta
Ta bỗng lớn lên với Người một chút
Phân tích khổ cuối Viếng lăng Bác - Mẫu 5
Bài thơ “Viếng lăng Bác” được sáng tác vào năm 1976, thời điểm đất nước hòa bình, hai miền thống nhất, nhà thơ có dịp viếng lăng Bác. Bài thơ thể hiện niềm kính trọng, tình yêu thương và tiếc nuối của tác giả cũng như đồng bào miền Nam khi viếng Bác. Bài thơ đã được nhiều nhạc sĩ phổ nhạc, trong đó thành công nhất là Hoàng Hiệp với cùng tên.
Khổ cuối của bài thơ thể hiện sự thương nhớ và tâm nguyện của nhà thơ sau khi viếng Bác và trở về miền Nam để tiếp tục xây dựng, bảo vệ đất nước, bảo vệ miền Nam kiên cường, máu lửa của tổ quốc.
“Mai về miền Nam thương trào nước mắt
Ước mình thành con chim hót quanh lăng Bác
Ước mình làm đóa hoa toả hương đâu đây
Ước mình là cây tre trung hiếu ở đây…”
Khi phải rời miền Bắc, rời lăng Bác, nhà thơ đã không thể kìm nén được lòng mình, nước mắt tuôn trào. Những khổ thơ trên đã diễn tả cảm xúc mãnh liệt, và đến khổ thơ cuối cùng, cảm xúc của nhà thơ đã không thể kìm nén được nữa, nước mắt tuôn trào. Từ ngữ biểu cảm đã bộc lộ được nỗi xúc động trào dâng lên đến đỉnh điểm.
Từ cái nỗi xúc động đó tác giả thể hiện ước nguyện của mình:
“Muốn làm con chim hót quanh lăng Bác
Ước mình làm đóa hoa toả hương đâu đây
Ước mình làm cây tre trung hiếu ở chốn này…”
Điệp ngữ “muốn làm” khiến cho nhịp thơ nhanh, dồn dập, giúp tác giả thể hiện được khát vọng mãnh liệt của mình. Khát vọng đó được bộc lộ qua những hình ảnh thơ vừa đẹp vừa gợi cảm “con chim hót”, “đóa hoa tỏa hương”, “cây tre trung hiếu” tất cả để làm đẹp cho nơi Bác nằm, cũng như tác giả muốn dâng lên Bác những gì tinh hoa nhất của mình để Bác bình yên, thanh thản trong giấc ngủ ngàn thu.
Các từ “đâu đây”, “trong lăng”, “chốn này” càng nhấn mạnh thêm cái ước mơ của tác giả được ở mãi bên Bác, lưu luyến không muốn rời. Sự khát khao này của nhà thơ cũng là khát khao chung của rất nhiều người, bởi vì:
“Ta bên người, người tỏa sáng bên ta,
Ta bỗng lớn ở bên người một chút”
Viễn Phương cũng cảm nhận được điều đó khi được ở bên Bác Hồ. Ấn tượng nhất trong khổ cuối là hình ảnh “cây tre trung hiếu”, cây tre này khiến cho chúng ta nhớ lại hình ảnh “hàng tre” ở đầu bài thơ. Hai hình ảnh “hàng tre” và “cây tre trung hiếu” đã làm nên kết cấu đầu cuối tương ứng rất chặt chẽ. Nếu như mỗi người là một cây tre trung hiếu thì cả dân tộc sẽ là hàng tre trung hiếu với Bác. Tác giả nhắc lại một lần nữa hình ảnh “cây tre” để nhấn mạnh tình cảm gắn bó, trung thành với Bác, nguyện suốt đời thực hiện lý tưởng của người và đây cũng chính là ước nguyện của cả dân tộc.
Theo bước chân của nhà thơ Viễn Phương từ khi đến lăng cho tới khi ra về chúng ta nhận ra được dòng cảm xúc của nhà thơ thể hiện một cách liền mạch và càng lúc càng phát triển. Nỗi đau cứ được dâng cao và đến khổ cuối thì dâng lên tới đỉnh điểm, nỗi đau ấy cũng chính là tiếng lòng của tất cả người dân Việt Nam.
Tác giả chưa bao giờ có ước muốn sẽ làm điều gì đó cao cả, kỳ vĩ mà chỉ là “con chim hót”, “đóa hoa tỏa hương” mà thôi, đó là những hình ảnh vô cùng nhỏ bé, bình dị nhưng đó là tất cả những gì tác giả muốn, miễn sao được ở bên Bác.
Với hình ảnh “cây tre” ở khổ 1 là hình ảnh bất khuất, kiên cường thì đến khổ thơ cuối này hình ảnh “cây tre trung hiếu chốn này” là hình ảnh nghệ thuật nhân hóa, đó là tấm lòng thành kính, trung thành của tác giả dâng lên Bác, hay nói rộng ra đó là tình cảm của toàn dân tộc kính dâng lên người.
Nếu như ở mấy khổ trên đại từ nhân xưng chủ thể nói tới là tác giả, là “con” thì ở khổ cuối chủ thể đó bị ẩn đi, không phải tác giả không nhắc tới nữa mà lúc này chủ thể là tất cả người con Việt Nam chứ không riêng gì tác giả nữa. Khổ cuối khép lại đó là cảm giác chia tay, xa cách về không gian địa lý, thời gian nhưng nó lại gần gũi trong ý chí và tình cảm, lòng trung hiếu.
Bài thơ “Viếng lăng Bác” thể hiện lòng thành kính và xúc động của nhà thơ khi được vào viếng lăng Bác. Bài thơ có giọng điệu trang trọng, nhiều hình ảnh ẩn dụ và gợi cảm, ngôn ngữ giản dị mà cô đúc. Bài thơ chính là tâm tình, là lời tri ân, sự biết ơn của con dân gửi tới vị cha già kính yêu của dân tộc, cả đời gắn bó, sát cánh, hy sinh cho sự nghiệp của cả dân tộc.
Cảm nhận khổ cuối Viếng lăng Bác
Cuộc gặp gỡ nào rồi cũng đến lúc phải chia tay. Lòng nhớ thương,đau xót kìm nén đến giờ vỡ oà thành nước mắt:
Mai về miền Nam thương trào nước mắt
Muốn làm con chim hót quanh lăng Bác
Muốn làm đoá hoa toả hương đâu đây
Muốn làm cây tre trung hiếu chốn này…
Ước nguyện được hoá thân thành con chim, đoá hoa, cây tre để canh giữ, điểm tô cho nơi vị lãnh tụ kính yêu yên nghỉ. Hình ảnh cây tre lặp lại cuối bài tạo ấn tượng đậm nét thể hiện lòng kính yêu và lòng biết ơn vô hạn đối với Bác. Điệp ngữ “muốn làm”, cấu trúc câu được lặp lại tạo thành nốt nhạc dồn dập, tha thiết diễn tả tình cảm, khát vọng trào dâng mãnh liệt. Bài thơ tưởng khép lại trong sự xa cách về không gian nhưng lại tạo được sự gần gũi trong tình cảm, ý chí. Như vậy bước chân ra đi nhưng tấm lòng của người con miền Nam thì ở lại. Tiếng lòng đó, ước nguyện đó không chỉ là của riêng tác giả mà đã trở thành tiếng lòng chung của nhiều người.
“Viếng lăng Bác” là một bài thơ sâu lắng, giàu ý nghĩa, và đậm đà tình cảm, sử dụng ngôn từ lãng mạn và âm nhạc phong phú, khiến cho người đọc dễ dàng tiếp thu. Bài thơ này đã được phổ nhạc sớm và trở thành một bài hát quen thuộc, gợi lại nhiều cảm xúc và kỷ niệm đối với mỗi người dân Việt Nam.
Cảm nhận ý nghĩa khổ 4 bài thơ Viếng lăng Bác
Nếu ở đầu bài thơ, nhà thơ tỏ ra lưu luyến khi rời xa lăng Bác, thì ở khổ 4, tình cảm ấy lại được thể hiện một cách rõ ràng và sâu sắc hơn. Nhà thơ ước ao được mãi ở bên Bác, thể hiện sự trung thành và lòng biết ơn sâu sắc của mình. Điều này cũng phản ánh ý chí và quyết tâm của những người dân muốn theo đuổi lý tưởng và con đường mà Bác đã dẫn dắt.
'Mai về miền Nam thương trào nước mắt
Muốn làm con chim hót quanh lăng Bác
Muốn làm đoá hoa toả hương đâu đây
Muốn làm cây tre trung hiếu chốn này… ”
Khổ cuối thể hiện sự tiếc nuối, mất mát của toàn dân sau khi Bác qua đời. Cảm xúc đau buồn trào ra thành nước mắt thật chân thành và mãnh liệt.
Câu thơ “Mai về miền Nam thương trào nước mắt” giống như một lời tạm biệt chân thành, diễn tả tình cảm sâu lắng và thiết tha. Từ “trào” biểu lộ cảm xúc mãnh liệt, luyến tiếc, không muốn rời xa nơi Bác nghỉ. Đây không chỉ là tâm trạng của tác giả mà còn là của nhiều trái tim khác. Bên cạnh đó, việc gần gũi với Bác khiến mọi người không muốn rời xa, vì Người quá ấm áp và rộng lớn.
Nhà thơ mong muốn trở thành chim, hoa, cây, nhưng tất cả đều mong ước được ở gần lăng Bác. Con chim hát, đóa hoa toả hương, cây tre canh gác giấc ngủ yên bình. Việc lặp lại điệp ngữ “muốn làm” cùng với hình ảnh đẹp của tự nhiên như “con chim”, “đóa hoa”, “cây tre” thể hiện lòng ước ao sâu sắc của tác giả. Điều này cũng thể hiện lòng thành kính, thiêng liêng của nhà thơ, là một người con Nam Bộ, nhưng cũng là tâm tình của người dân miền Nam, của dân tộc Việt Nam đối với Bác.
Đặc biệt là ước muốn “Muốn làm cây tre trung hiếu chốn này” để tham gia vào hàng tre canh gác giấc ngủ yên bình của Bác. Hình ảnh cây tre với tính trưng tượng nhấn mạnh ý nghĩa lần nữa, làm cho bài thơ có cấu trúc hoàn chỉnh và sâu sắc hơn. Hình ảnh hàng tre quanh lăng Bác được lặp lại ở câu thơ cuối cùng mang ý nghĩa mới, tạo ra ấn tượng sâu sắc, khiến cảm xúc trở nên toàn diện.
“Cây tre trung hiếu” là biểu tượng của lòng kính yêu và trung thành vô hạn với Bác, là ý nguyện mãi mãi đi theo con đường cách mạng mà Người đã dẫn dắt. Đây là lời hứa vững chắc của nhà thơ và cũng là mong ước của người dân miền Nam, của mỗi người chúng ta với Bác.
Khổ thơ cuối của 'Viếng lăng Bác' thể hiện nỗi lòng riêng biệt nhưng mang ý nghĩa chung. Tác giả viết một loạt câu thơ không có chủ ngữ, nhấn mạnh ba lần vào điệp ngữ muốn làm điều gì đó như một khao khát không nguôi. Đây là khao khát của những người đã được viếng lăng, của những người chưa từng đến nhưng tâm hồn luôn hướng về Bác.
Viết một đoạn văn phân tích về khổ cuối của bài thơ Viếng lăng Bác.
Khổ thơ cuối của bài thơ “Viếng lăng Bác” là nơi tác giả thể hiện cảm xúc sâu lắng khi phải chia xa Bác. Tình cảm của tác giả được diễn đạt rõ qua cụm từ “thương trào nước mắt”, là biểu hiện của tình yêu và tôn trọng dành cho người lãnh tụ đã dành cả cuộc đời cho dân tộc. Việc sử dụng điệp ngữ “muốn làm” ba lần nhấn mạnh những khát khao chân thành của tác giả: muốn làm con chim, cây tre, đóa hoa, tất cả đều xuất phát từ tình yêu tha thiết và chân thành dành cho Bác. Hình ảnh cây tre xuất hiện ở đầu và cuối bài thơ một cách tự nhiên, thể hiện ước nguyện của tác giả muốn mãi bên Bác, canh giữ giấc ngủ bình yên cho Người. Khổ thơ cuối tràn đầy cảm xúc không chỉ là tiếng lòng của tác giả mà còn là niềm tin và tình cảm chung của toàn dân Việt Nam đối với Bác.