Phân tích 8 câu cuối của Kiều ở lầu Ngưng Bích từ 22 bài văn mẫu hay nhất của các học sinh xuất sắc trên toàn quốc, giúp học sinh lớp 9 hiểu rõ hơn về trạng thái đau đớn, tuyệt vọng và lo lắng về tương lai rối ren của nàng Kiều.
Đặc biệt, tám câu thơ cuối của Kiều ở lầu Ngưng Bích đã thể hiện một cách đầy đủ tâm trạng biến động của nàng Kiều khi phải đối mặt với số phận đầy gai góc. Hãy cùng theo dõi bài viết dưới đây của Mytour để nâng cao kiến thức môn Văn 9.
Phân tích 8 câu cuối của Kiều ở lầu Ngưng Bích tốt nhất
- Bản đồ tư duy Phân tích tám câu thơ cuối của Kiều tại lầu Ngưng Bích
- Cấu trúc ý phân tích tám câu thơ cuối trong đoạn trích (2 mẫu)
- Phân tích tám câu thơ cuối của Kiều ở lầu Ngưng Bích một cách súc tích
- Phân tích 8 câu thơ cuối của Kiều ở lầu Ngưng Bích tốt nhất (20 mẫu)
- Đoạn văn phân tích tám câu cuối của Kiều ở lầu Ngưng Bích
Bản đồ tư duy Phân tích tám câu thơ cuối của Kiều ở lầu Ngưng Bích
Cấu trúc ý phân tích tám câu thơ cuối trong đoạn trích
Cấu trúc ý 1
1. Giới thiệu về Nguyễn Du và tác phẩm Kiều
- Giới thiệu về tác giả Nguyễn Du và câu chuyện trong truyện Kiều
- Phân tích ý nghĩa của 8 câu thơ cuối trong đoạn trích “Kiều ở lầu Ngưng Bích”
2. Phân tích chi tiết:
* Nội dung chi tiết:
- “Nhìn ra cửa biển chiều tà/ Thuyền với cánh buồm xa xôi”:
- Biển mênh mông và chiếc thuyền bé nhỏ được đặt đối diện nhau -> Thể hiện sự cô đơn, lẻ loi trong tâm trạng của Kiều.
- Thuyền bé lênh đênh, không định hướng -> Khao khát được trở về với quê hương.
- “Buồn nhìn dòng nước trôi mới/ Hoa nổi u ám, biết về đâu”:
- Dòng nước: Biểu tượng cho sự trôi chảy của cuộc sống.
- Hoa trôi: Biểu tượng cho số phận bấp bênh, luẩn quẩn của người con gái -> Sự nhận thức về vận mệnh của Kiều.
- Câu hỏi 'về đâu': Sự băn khoăn, nỗi lo lắng khi không biết cuộc sống sẽ đưa mình đi về đâu giữa những biến động không ngừng.
- “Buồn nhìn bãi cỏ xanh xao/ Chân mây mặt nước xanh xao”:
- Thiên nhiên mang gam màu nhạt nhòa, “xanh xao”.
- Không gian rộng lớn nhưng chứa đựng nỗi buồn rầu không dứt.
- “Cỏ”: Biểu tượng cho thân phận bé nhỏ, thấp hèn của Kiều -> Liên tưởng về một tương lai mờ mịt, u ám.
- “Buồn nhìn gió cuốn mặt duềnh/ Tiếng sóng vỗ ầm ầm xung quanh ghế ngồi”
- Dấu hiệu của những cơn bão dữ với sức mạnh tàn phá đang tiến tới.
- Sự nhạy cảm của Kiều đối với những sóng gió sắp đến trong cuộc sống của mình.
=> 8 câu thơ cuối trong đoạn trích đã thể hiện sự nhạy cảm của Kiều và dự báo cho một tương lai đầy sóng gió.
* Nghệ thuật sáng tạo:
- Mô tả cảnh ngụ tình
- Biểu hiện cảm xúc 'buồn trông'
- Sử dụng ngôn từ hình tượng: xa xa, man mác, rầu rầu, xanh xanh, ầm ầm
=> Đóng góp vào việc thể hiện tâm trạng buồn bã, lo lắng của Kiều.
3. Kết thúc:
- Đánh giá lại nội dung và nghệ thuật trong 8 câu thơ cuối của đoạn trích “Kiều ở lầu Ngưng Bích”
- Khẳng định tài năng của tác giả Nguyễn Du
Dàn ý số 2
I. Bắt đầu
- Giới thiệu về tác giả và đoạn trích “Kiều ở lầu Ngưng Bích”.
- Giới thiệu đoạn thơ cuối (8 câu cuối).
II. Phần chính
- Phân tích cặp lục bát 1: Đánh giá hình ảnh “cửa biển chiều tà”, “thuyền với cánh buồm xa xa” để thể hiện nỗi buồn của Kiều khi nhớ về cha mẹ - những người đã sinh ra mình, khiến nàng cảm thấy xót xa.
- Phân tích cặp lục bát 2: Đánh giá hình ảnh “dòng nước mới trôi”, “hoa nổi man mác” để thể hiện nỗi lo lắng của Kiều không biết cuộc đời sẽ dẫn nàng đi về đâu. Tâm trạng của Kiều trở về với hiện thực đời thường, với những đau thương thực tại.
- Phân tích cặp lục bát 3: Đánh giá hình ảnh “bãi cỏ rậm rạp”, “chân mây mặt đất” để thể hiện sự không rõ ràng của Kiều. Từ “rậm rạp” gợi lên cảm giác tàn tạ, màu xanh tàn tạ, héo hon.
- Cặp lục bát 4: Đánh giá hình ảnh “gió cuốn mặt duềnh”, “tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi” để thể hiện sự hoảng sợ, lo sợ của Kiều. Sự lênh đênh trên con đường cuộc sống với nhiều sóng gió trước mặt Kiều, cũng là những thử thách, gian khổ mà Kiều phải vượt qua.
=> Từ “buồn trông” được nhắc đi nhắc lại trong khổ thơ. Nó như là tâm trạng hiện tại của Kiều, chân lí rằng “người buồn cảnh có vui đâu bao giờ”.
* Tổng kết về nghệ thuật:
- Áp dụng cấu trúc với điệp ngữ “buồn trông”.
- Nghệ thuật miêu tả cảnh ngụ tình.
- Hình ảnh dần tăng tiến để thể hiện sự leo thang của cảm xúc.
III. Kết luận
- Phần đoạn trích “Kiều ở lầu Ngưng Bích” được mô tả như một bức tranh với gam màu xám lạnh, thể hiện tâm trạng sống động và u ám, đầy bi ai.
- Phân tích phương pháp nghệ thuật “tả cảnh ngụ tình” của Nguyễn Du. Cảnh vật và con người trong đoạn trích hòa quyện vào nhau một cách hoàn hảo.
Phân tích ngắn gọn tám câu thơ cuối của Kiều ở lầu Ngưng Bích
'Truyện Kiều' của Nguyễn Du được coi là 'tuyệt phẩm vĩ đại' của văn học Việt Nam. Tác phẩm đã thành công trong việc mang lại câu chuyện về cuộc đời rối ren của Vương Thúy Kiều - một người phụ nữ tài năng nhưng đầy bất hạnh. Qua đoạn trích 'Kiều ở lầu Ngưng Bích', chúng ta đã cảm nhận được toàn bộ sự biến động tâm trạng của Kiều khi bị cuốn vào vòng xoáy của số phận, đặc biệt là qua tám câu thơ cuối cùng.
Tóm tắt về hoàn cảnh, Kiều ban đầu là con gái lớn trong một gia đình danh giá tên Vương. Sau đó, do gia đình gặp phải biến cố, cô bị bán vào lầu xanh. Khi bị giam giữ tại lầu Ngưng Bích, cô chìm đắm trong ký ức về những kỷ niệm tự do, hạnh phúc bên gia đình và Kim Trọng. Sự hỗn loạn trong tâm trạng của cô được mô tả rất rõ qua bút pháp tài tình của Nguyễn Du.
Ban đầu, Kiều biểu hiện sự bối rối của mình trước vẻ rộng lớn, vô tận của thiên nhiên:
'Buồn nhìn cửa biển chiều tà
Thuyền nhỏ mảnh cánh buồm xa xa'
Chỉ một cụm từ 'cửa biển chiều tà' đã đủ để khơi gợi không chỉ không gian mà còn thời gian. Buổi chiều thường là thời điểm gia đình sum họp, ấm áp bên nhau. Nhưng Kiều chỉ một mình, lạc lõng giữa nơi xa lạ. Trước mặt nàng không có cha mẹ, anh chị em hay những người thân yêu. Chỉ thấy mênh mông biển cả trước mắt, rợn ngợp. Phía xa xa, chỉ thấy một chiếc thuyền nhỏ, tựa như hoàn cảnh hiện tại của nàng. Mong đợi và chờ đợi trở nên vô vọng, bị nuốt chửng bởi không gian bao la.
Trước cảnh vật bao la ấy, con người trở nên mơ hồ, không rõ ràng:
'Buồn nhìn dòng nước trôi mới sa
Hoa trôi man mác, biết đi về đâu?'
Lúc này, Kiều bắt đầu suy nghĩ về bản thân. Từ một cô gái con nhà giàu, đầy đủ cả về tình yêu lẫn gia đình. Nhưng giờ đây, nàng phải đối mặt với sự cô đơn tại lầu Ngưng Bích. Cánh hoa nhỏ là biểu tượng cho thân phận của nàng, bị cuốn trôi, đẩy dẫi bởi sóng gió cuộc đời. Kiều đặt ra câu hỏi 'biết đi về đâu?' để thể hiện sự mơ hồ, không rõ ràng khi suy nghĩ về tương lai.
Thiên nhiên lại một lần nữa được đề cập. Nhưng lần này, nó lại phủ màu tang thương:
'Buồn nhìn nội cỏ rậm rạp
Chân mây mặt đất xanh xanh'
Trong 'Cảnh ngày xuân', thiên nhiên hiện lên sôi động với 'Cỏ non xanh mướt đến chân trời/Cành lê trắng tinh khiết một vài bông hoa'. Nhưng ở đây, chúng ta lại gặp phải 'nội cỏ rậm rạp'. Sự rộng lớn và màu xanh của đất trời bị phủ bởi tâm trạng buồn bã, đau đớn của nhân vật. Điều này làm cho cảnh sắc thiên nhiên trở nên đơn điệu hơn, làm sâu thêm nỗi cô đơn trong lòng người.
Và đột ngột, cơn bão ập đến, mang theo cả những lo lắng, dự đoán không may của nhân vật về tương lai:
'Buồn nhìn gió cuốn mặt vụt đi
Ầm ầm tiếng sóng vỗ quanh đây'
Biển động sóng to. Tiếng sóng vang vọng như khiến con người hoảng sợ, bối rối. Điều này có thể là dấu hiệu cho những biến động mạnh mẽ mà Kiều sẽ phải đối mặt sau này. Tương lai của cô gái tài năng vẫn mơ hồ, không rõ ràng như vậy trước cuộc sống biến đổi không ngừng.
Chỉ với tám câu thơ súc tích, Nguyễn Du đã tài tình miêu tả tâm trạng phức tạp của Thúy Kiều khi bị giam cầm tại lầu Ngưng Bích. Điều ngữ 'buồn trông' lặp lại bốn lần, thẳng thắn thể hiện nỗi đau lòng, nỗi đau khổ của nhân vật. Bằng cách miêu tả cảnh vật một cách tinh tế, tác giả đã thành công trong việc tái hiện sự cô đơn, bất định mà Kiều phải đối diện. Các từ vựng lặp đi lặp lại kết hợp với nhiều hình ảnh ẩn chứa sức thu hút cũng đóng góp vào sự giàu có của những câu thơ.
Đoạn trích 'Kiều ở lầu Ngưng Bích' cụ thể và tác phẩm 'Truyện Kiều' tổng thể là minh chứng rõ ràng cho tài năng và cái nhìn sâu sắc của Đại thi hào Nguyễn Du. Thông qua đó, tác giả cũng thể hiện sự đồng cảm, lòng thương xót không biên giới dành cho tài năng và số phận của phụ nữ trong xã hội xưa.
Phân tích 8 câu thơ cuối tại lầu Ngưng Bích của Kiều
Phân tích 8 câu thơ cuối tại lầu Ngưng Bích của Kiều - Mẫu 1
Nguyễn Du đã từng viết:
Nhân gian hồn nước mặc khéo
Chữ tài, chữ mệnh tựa biết thương nhau
Sự thật đó đã phản ánh trong cuộc đời của Kiều, khi tài năng và số phận gắn liền, Kiều sở hữu vẻ đẹp và phẩm chất nhưng phải chịu đựng nhiều bi kịch, đau thương. Đau lòng nhất có lẽ là khi cô cô đơn ở lầu Ngưng Bích, bị giam giữ, suy tưởng về tương lai khó khăn của bản thân. Tám câu thơ cuối trong đoạn trích “Kiều ở lầu Ngưng Bích” là bằng chứng rõ ràng nhất cho điều này.
Tám câu thơ cuối này thể hiện sự tài năng phân tích, nghệ thuật tả cảnh ngụ tình tinh tế của Nguyễn Du. Ông biến phong cảnh không chỉ là phong cảnh mà còn là bức tranh tâm trạng. Nguyễn Du đã sử dụng khung cảnh thiên nhiên để miêu tả tâm trạng con người. Tám câu thơ đã đạt đến tiêu chuẩn của bút pháp tả cảnh ngụ tình. Bi kịch nội tâm của Kiều được Nguyễn Du diễn đạt qua hình ảnh thiên nhiên phong phú khi nàng ở lầu Ngưng Bích.
Đoạn thơ này được chia thành bốn cặp lục bát, mỗi cảnh mở đầu bằng điệp ngữ “buồn trông” với tâm trạng u uất, báo hiệu về những khó khăn, sóng gió phía trước. Đồng thời, mỗi cặp lục bát cũng tương ứng với một nét tâm trạng của Thúy Kiều. Bắt đầu là khung cảnh biển khơi mênh mông:
Buồn ngắm cửa bể chiều hôm
Thuyền nào xa xa cánh buồm thoáng qua
Nguyễn Du tinh tế sử dụng từ láy như thấp thoáng, xa xa và kết hợp với đại từ phiếm chỉ “nào” để thể hiện sự chờ đợi, trống trải vô vọng của Kiều. Không chỉ thế, Nguyễn Du còn khéo léo lựa chọn thời gian vào buổi chiều, gợi nhớ về hơi ấm của gia đình. Lúc đó, hình ảnh cánh buồm nhỏ bé trước cửa biển mênh mông làm tăng thêm cảm giác hoang vắng mênh mông. Đồng thời, cánh buồm cũng là biểu tượng cho thân phận bé nhỏ, lẻ loi của Kiều.
Thu hẹp không gian, để tìm sự đồng điệu, thì trước mắt Kiều lại xuất hiện cảnh tan tác, chia lìa:
Buồn trông ngọn nước mới sa
Hoa trôi man mác, không biết về đâu?
Kiều tự so sánh bản thân với những cánh hoa mỏng manh, yếu đuối, thân phận nổi trôi không biết đi về đâu. Kết hợp với câu hỏi tu từ “không biết về đâu?” càng làm nổi bật nửa thân phận bấp bênh, lưỡng lự của Kiều. Nàng lênh đênh giữa dòng đời, không biết bến đỗ nào là của mình.
Hình ảnh của cỏ đã nhiều lần xuất hiện trong thơ Nguyễn Du, là sắc xanh non mơn mởn trong ngày hội xuân, tràn đầy sức sống: “Cỏ non xanh dẫn tận chân trời”. Nhưng đến đây sắc xanh ấy đã không còn nữa, thay vào đó là màu sắc của sự tàn tạ, héo úa: “Buồn ngắm nội cỏ rầu rầu/ Chân mây mặt đất một màu xanh xanh”. Cỏ trong đôi mắt của Kiều thấm đẫm tâm trạng “rầu rầu” tàn lụi, héo úa. Tác giả miêu tả màu xanh của cỏ kéo dài đến chân trời, nhưng màu xanh ấy không rõ ràng mà nhòe mờ, pha trộn vào nhau, có phần đơn điệu. Có lẽ trong dòng nước mắt cô đơn và tủi nhục, cái nhìn của Kiều đã khiến những màu xanh kia trở nên u buồn, héo tàn hơn.
Một lần nữa Kiều lắng lòng để nghe những vang vọng của cuộc sống. Nhưng những gì nàng nghe được chỉ là chuỗi âm thanh đáng sợ
Buồn ngắm gió cuốn mặt duềnh
Ầm ầm tiếng sóng kêu quanh bờ ghế
Mặt biển đổ ập sóng gió đến vây lấy Kiều nhỏ bé. Đó cũng là dự cảm của nàng về số phận đầy bất hạnh, những giông tố đang đợi nàng phía trước. Kiều rơi vào trạng thái sợ hãi, lo lắng đến cùng.
Khung cảnh được nhìn qua mắt Kiều đầy màu sắc tâm trạng. Cảnh được Nguyễn Du miêu tả từ xa đến gần, màu sắc từ nhạt đến đậm, nỗi buồn diễn tả theo chiều tăng tiến từ man mác buồn, cô đơn đến lo lắng, sợ hãi. Lúc này, Kiều rơi vào trạng thái tuyệt vọng và yếu đuối nhất, cũng vì thế trước những lời ngọt ngào của Sở Khanh nàng dễ dàng bị mắc bẫy, để rồi nàng bị đẩy xuống bùn đắm của cuộc đời: “Thanh y hai lượt thanh lâu hai lần”.
Với ngòi bút tài tình, Nguyễn Du đã tạo ra những bài thơ xuất sắc nhất, mô tả tâm trạng cô đơn, đau đớn của Kiều. Đồng thời, ta cũng thấy tấm lòng nhân đạo, lòng thương sâu sắc mà Nguyễn Du dành cho người con gái bạc mệnh.
Phân tích 8 câu thơ cuối Kiều ở lầu Ngưng Bích - Mẫu 2
Không chỉ giỏi trong việc miêu tả nhân vật mà Nguyễn Du còn có khả năng tài tình miêu tả thiên nhiên, tâm trạng và tình cảm của con người. Mỗi bức tranh dưới bàn tay của Nguyễn Du luôn thể hiện được cả bên ngoài và bên trong, với hai chức năng chính: thể hiện ngoại cảnh và tâm trạng. Tám câu thơ cuối trong bài “Kiều ở lầu Ngưng Bích” đã là minh chứng rõ ràng cho điều này.
Sau khi bị lừa bán vào lầu xanh, Kiều sống trong đau đớn, ê chề. Với bản tính trọng nhân phẩm, Kiều đã tìm đến cái chết nhưng không thành công. Thúy Kiều bị Tú Bà giam giữ ở lầu Ngưng Bích, chờ đến ngày thực hiện âm mưu mới. Những ngày ở đó, nàng sống trong đau đớn, tủi hổ, cô đơn, tuyệt vọng đến cùng cực.
Trong nỗi cô đơn, ai cũng hướng về gia đình. Người con gái trong ca dao, dù có chồng, vẫn nhớ về quê hương trong những khoảnh khắc ngày tàn:
Chiều về đứng ở ngõ sau
Dù là Kiều, đã bán mình cứu gia đình, nhưng nỗi nhớ gia đình càng thêm đau lòng:
Buồn nhìn cửa bể chiều hôm
Không gian mênh mông của cửa bể kết hợp với hình ảnh thuyền thấp thoáng phía xa tạo nên không gian rợn ngợp, hoang vắng. Cánh buồm trở nên nhỏ bé trong không gian rộng lớn. Thân phận của nàng cũng lênh đênh, nhỏ nhoi giữa cuộc đời bất định. Thời gian buổi chiều gợi ra nỗi buồn man mác, trong hoàn cảnh của Kiều, nỗi buồn ấy gắn với khát khao được sum họp, đoàn tụ, trở về bên quê hương, gia đình.
Sau nỗi buồn tha hương, xa xứ, nàng nghĩ về thân phận mình và đau lòng hơn: “Buồn nhìn ngọn nước mới sa/ Hoa trôi man mác biết là về đâu?”. Hình ảnh “hoa trôi” là biểu trưng cho thân phận của Kiều. Ngọn nước mới sa kia có sức mạnh ghê gớm, là những giông bão, sóng gió trong cuộc đời đã vùi dập nàng. Cánh hoa trôi man mác cũng như thân phận mong manh của nàng. Cuộc đời nàng lênh đênh, không biết tương lai sẽ đi đâu về đâu. Câu hỏi “biết là về đâu” như một lời than, một lời ai oán cho số phận bất hạnh của nàng.
Trong tác phẩm của Nguyễn Du, sắc xanh đã lặp lại nhiều lần, mỗi lần mang một ý nghĩa khác nhau. Trái với 'Cảnh ngày xuân', màu xanh ở đây biểu hiện cho sự héo úa, tàn tạ: “Buồn nhìn nội cỏ héo úa/ Chân mây mặt đất một màu xanh xanh”. Màu xanh tối tăm, mờ mịt, không còn tươi sáng. Tất cả màu sắc đó kết hợp với nhau làm tâm trạng Kiều trở nên chán nản, u sầu hơn. Kiều nhìn ra xung quanh để tìm sự đồng cảm, nhưng chỉ thấy thêm nỗi buồn, sự ảo tưởng. Thực sự “người buồn không có chuyện vui”. Trong ánh mắt tuyệt vọng của nàng, mọi cảnh vật đều phản ánh nỗi buồn chán, khốn khổ và tuyệt vọng. Điều này đẩy Kiều sâu hơn vào cảnh tuyệt vọng, chán nản.
Hai câu thơ cuối cùng có thể coi là đỉnh cao của nghệ thuật tả cảnh ngụ tình, sự hoang mang, rợn ngợp của Kiều được tác giả tập trung thể hiện rõ nhất trong hai câu thơ này:
Buồn nhìn gió cuốn mặt duềnh
Cảnh cuối thiên nhiên hiện ra rất mạnh mẽ, không chỉ là ngoại cảnh mà còn là tâm cảnh, Kiều tưởng mình đang ngồi giữa biển khơi mênh mông, xung quanh là sóng biển gào thét muốn cuốn nàng đi. Từ “ầm ầm” diễn tả một khung cảnh khủng khiếp và tâm trạng buồn bã, hoảng sợ của Thúy Kiều. Nàng dự đoán giông bão của số phận, sẽ nổi lên và cuốn cuộc đời mình đi.
Đoạn thơ vận dụng tài nghệ thuật tả cảnh ngụ tình, mỗi cảnh là một tâm trạng, là một nỗi đau mà Kiều phải chịu đựng. Không chỉ thế, Nguyễn Du còn sắp xếp theo trình tự hợp lý: Từ xa đến gần, từ màu sắc nhạt nhòa đến sâu đậm, miêu tả nỗi buồn da diết của Kiều. Sử dụng hình ảnh ẩn dụ đặc sắc, từ ngữ giàu giá trị tạo ra hình ảnh và biểu cảm. Tất cả những yếu tố này góp phần tạo nên thành công cho đoạn trích.
Tám câu thơ cuối là một tác phẩm nghệ thuật tuyệt vời về việc miêu tả cảnh ngụ tình. Với những bức tranh tinh tế, Nguyễn Du đã diễn đạt được các tình trạng cảm xúc, nỗi cô đơn, lo lắng, nỗi sợ hãi về tương lai đầy biến động của Thúy Kiều. Không chỉ thế, qua những hình ảnh đó, Nguyễn Du cũng thể hiện sự đồng cảm sâu sắc với số phận của nàng cũng như của phụ nữ dưới thời phong kiến nói chung.
Phân tích 8 câu thơ cuối Kiều ở lầu Ngưng Bích - Mẫu 3
Nguyễn Du đã từng rút ra kết luận:
Một trăm năm trong cõi người ta
Chữ tài chữ mệnh khéo là kẻ ghen tỵ
Thực tế, điều đó đã phản ánh vào cuộc đời của Thúy Kiều, nơi tài năng và số mệnh đối đầu, nàng Kiều sở hữu vẻ đẹp ngoại hình và đức tính tốt nhưng lại phải trải qua nhiều nỗi đau, bất hạnh. Thất vọng nhất có thể là khi nàng đơn độc tại lầu Ngưng Bích, bị giam giữ, bị nhốt và phải suy nghĩ về tương lai đầy gian truân của bản thân. Tám câu thơ cuối cùng trong đoạn trích “Kiều ở lầu Ngưng Bích” là bằng chứng rõ ràng nhất cho điều đó.
Tám câu thơ cuối là minh chứng cho tài năng phân tích sắc sảo, nghệ thuật tả cảnh ngụ tình tinh tế của Nguyễn Du. Ông không chỉ sử dụng phong cảnh như là nền để diễn tả cảm xúc con người mà còn biến chúng thành một phần của tâm trạng. Tám câu thơ đã hoàn thiện một cách tinh xảo phong cách tả cảnh ngụ tình. Cảm xúc nội tâm bi thương của Thúy Kiều được tái hiện qua cảnh thiên nhiên phong phú khi cô ở lầu Ngưng Bích.
Đoạn thơ được chia thành bốn cặp lục bát, mỗi phần bắt đầu bằng từ khởi đầu “buồn trông”, toát lên một bầu không khí buồn bã, dự báo cho những khó khăn, thách thức phía trước. Đồng thời, mỗi cặp lục bát cũng phản ánh một tâm trạng khác nhau của Thúy Kiều. Phần mở đầu là cảnh biển mênh mông:
Chiều về ra đứng ngõ sau
Trông về quê mẹ ruột đau chín chiều
Nguyễn Du đã khéo léo sử dụng từ ngữ như thấp thoáng, xa xa và kết hợp với đại từ ám chỉ “ai” để thể hiện sự chờ đợi, trống trải trong tuyệt vọng của Thúy Kiều. Không chỉ thế, ông còn khéo léo lựa chọn thời gian để phản ánh tâm trạng, đó là buổi chiều, đem lại sự ấm áp, hình ảnh cánh buồm nhỏ nhắn trước cửa biển rộng lớn làm nổi bật nỗi cô đơn vô tận. Đồng thời, cánh buồm cũng là biểu tượng cho thân phận bé nhỏ, cô đơn của Kiều.
Thu hẹp không gian để tìm sự đồng điệu, nhưng trước mắt lại là hình ảnh tan tác, chia lìa:
Lặng lẽ nhìn ngọn nước trôi
Hoa rơi buồn bã rụng rời về đâu?
Nàng Kiều so sánh chính mình với những cánh hoa mong manh, yếu đuối, thân phận nổi trôi không biết đi về đâu. Với câu hỏi tu từ “biết là về đâu?” vạch ra nỗi bất định, mông lung, vô định của nàng giữa dòng đời.
Hình ảnh cỏ, đã lặp lại nhiều lần trong thơ Nguyễn Du, thường được biểu hiện như sắc xanh non mơn mởn trong những ngày xuân, tràn đầy sức sống: “Cỏ non xanh tận chân trời”. Nhưng ở đây, sắc xanh ấy đã biến mất, thay vào đó là màu của sự tàn tạ, héo úa: “Buồn trông nội cỏ rầu rầu/ Chân mây mặt đất một màu xanh xanh”. Cỏ, trong ánh mắt ẩm ướt của Kiều, biểu tượng cho sự héo úa, tàn lụi. Tác giả tả màu xanh của cỏ lan tỏa đến chân trời, nhưng màu xanh đó không còn sắc nét mà trở nên nhòe mờ, pha lẫn vào nhau, tạo ra cảm giác đơn điệu. Có lẽ, dưới dòng nước mắt cô đơn và tủi cực, cái nhìn của Kiều đã làm cho những màu xanh kia trở nên buồn tẻ, héo tàn hơn.
Một lần nữa, Kiều nhẹ nhàng lắng đọng lòng mình, để lắng nghe những vang vọng của cuộc sống. Nhưng những gì nàng nghe thấy chỉ là một chuỗi âm thanh đáng sợ.
Khóc lóc gió cuốn miên man
Ầm ầm sóng biển kêu vang ghế ngồi
Biển đổ ập sóng gió, vây quanh nàng Kiều như bóng tối. Đó cũng là dự cảm về số phận bất hạnh, những cơn bão đang chờ đợi nàng phía trước. Kiều sợ hãi, lo lắng đến cùng cực.
Khung cảnh qua mắt Kiều đầy màu sắc tâm trạng. Cảnh từ xa đến gần, màu sắc từ nhạt đến đậm, nỗi buồn từ man mác cho đến kinh sợ. Lúc này, Kiều yếu đuối nhất, dễ dàng bị mắc lừa bởi những lời ngọt ngào của Sở Khanh, rồi bị đẩy xuống bùn đất cuộc đời: “Thanh y hai lượt thanh lâu hai lần”.
Bằng ngòi bút tài hoa, Nguyễn Du đã truyền đạt những cảm xúc cô đơn, đau khổ tột cùng của nàng Kiều. Đồng thời, ông cũng thể hiện tấm lòng nhân đạo, lòng thương sâu sắc dành cho người con gái bị số mệnh bạc.
Phân tích 8 câu thơ cuối Kiều ở lầu Ngưng Bích - Mẫu 4
Nguyễn Du là nhà văn vĩ đại của dân tộc, là biểu tượng văn hóa toàn cầu. “Truyện Kiều” đã nâng cao tiếng Việt thành ngôn ngữ dân tộc. Truyện thể hiện tấm lòng nhân hậu, đa cảm của nhà thơ. Mông Liên Tưởng chủ nhân đã viết “Lời văn như có máu chảy ở đầu ngòi bút, nước mắt thấm ở trên tờ giấy, khiến người đọc cảm thấy xót xa, đau lòng”. Đặc biệt là tám câu thơ cuối “Kiều ở lầu Ngưng Bích”, ta cảm nhận được nét tinh tế, cái đẹp của bút pháp tài ba của Nguyễn Du, đặc biệt là bút pháp tả cảnh ngụ tình.
Tám câu thơ cuối có thể xem như mẫu mực của thơ tả cảnh ngụ tình trong văn chương cổ điển, nơi tình cảm được truyền đạt qua hình ảnh thiên nhiên. Nguyễn Du sử dụng bút pháp độc đáo để diễn tả cảm xúc cô đơn, tuyệt vọng của Kiều, khiến cảnh vật và tâm trạng hòa quyện vào nhau. Mỗi cảnh đều gợi lên một loại buồn khác nhau, tác động lẫn nhau khiến nỗi buồn ngày càng sâu sắc, mãnh liệt. Đúng như Nguyễn Du từng viết:
Mọi cảnh đều mang gánh sầu,
Người buồn chẳng lúc nào vui
Những dòng thơ sống động, dưới bàn tay tài ba của Nguyễn Du, tạo ra một bức tranh sinh động về cảnh vật và tâm trạng của Kiều. Cô đơn, trơ trọi giữa bản mênh mông, Kiều nhớ về quê hương trong lòng.
Buồn ngắm bể biển chiều tà,
Thuyền xa, buồm nhỏ mờ mịt
“Bể biển” là không gian vô cùng rộng lớn, đặt trong khoảnh khắc chiều tà, gợi nỗi buồn vắng vẻ. Câu thơ của Nguyễn Du khiến ta nghĩ về hình ảnh người con gái xa quê hương nhìn về quê vào mỗi chiều tà như ca dao:
Chiều về đứng trước ngõ sau
Nhìn về quê cha mẹ, lòng đau nhớ chín chiều.
Trong thơ, cảnh chiều hôm giữa bầu trời bao la ấy có một chiếc buồm lạc lõng, thất lạc, thỉnh thoảng lóe lên như cách Kiều cảm nhận sự lưu lạc xa xứ và nỗi đau thương về cha mẹ ở 'đất khách quê người'. Câu thơ tiếp tục âm thầm rêu rao niềm hy vọng, ước mơ và mong chờ, nhưng tại thời điểm hiện tại, ở biên giới chân trời, Kiều vẫn cô đơn đối diện với biển khơi cuộc sống, thân phận của Kiều sẽ lênh đênh, trôi nổi về đâu?
Tâm trạng sợ hãi, lo lắng của Kiều giữa biển cả bao la khiến người đọc cảm thấy đau xót, từ xa Kiều nhìn thấy những cánh hoa trôi nổi và nghĩ về số phận của mình:
Buồn nhìn dòng nước cuốn xa
Hoa trôi, không biết nơi đâu?
'Dòng nước cuốn xa' mang trong mình một sức mạnh tự nhiên có thể quét sạch, cuốn trôi, phá hủy những điều nhỏ bé. Bây giờ, không chỉ là không gian bao la rộng lớn mà nó còn đầy mạnh mẽ và hung dữ, hình ảnh của những bông hoa bị đưa đi, lạc mất trên sóng nước cũng chính là cuộc sống của Kiều trôi dạt giữa dòng đời, Kiều bất lực và đành phải chấp nhận số phận xô đẩy. Đau lòng khi Kiều bây giờ giống như một con chim lạc lối đang bay trong trận giông tố.
Đọc hai câu thơ kế tiếp, tâm trạng sợ hãi, lo lắng của Kiều đã leo thang thành tâm trạng tuyệt vọng, bế tắc khi Kiều nhìn thấy ngọn cỏ héo úa:
Buồn nhìn cỏ héo úa
Mặt đất che phủ màu xanh xám
Cảnh này không còn là “cỏ non xanh tận chân trời” của mùa xuân đầy sức sống nữa mà là “cỏ héo úa” già nua, tàn tạ, chết chóc khiến Thúy Kiều cảm thấy chán nản, tuyệt vọng hơn. Màu sắc “xanh xám” làm cho cảnh vật trở nên ảm đạm hơn, như màu cỏ trên mộ Đạm Tiên:
Bên đường nấm mốc sần sật
Cỏ héo úa, một nửa vàng một nửa xanh
Hai câu thơ cuối cùng có thể xem là bút pháp tả cảnh ngụ tình đạt đến đỉnh điểm. Sóng gió âm thanh dữ dội chỉ hiện diện đồng thời với sức mạnh mạnh mẽ tượng trưng cho sức ép phong kiến đang rình rập bủa vây cuộc đời Thúy Kiều:
Thảnh thơi gió cuốn mặt duềnh
Ầm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi
Chiều đã muộn, cảnh không còn rõ ràng nữa, âm thanh dồn dập hơn. Kiều quan sát “gió cuốn” từng đợt sóng dâng, nghe “sóng kêu” vang vọng bỗng cảm thấy kinh hãi, lo sợ đến nỗi hãi hùng, Kiều bơ vơ như rơi vào vực sâu một cách bất lực, và chính lúc này, Kiều trở nên tuyệt vọng yếu đuối nhất. Vì vậy nàng đã bị Sở Khanh lừa, để rồi dấn thân vào cuộc sống “thanh lâu hai lượt thanh y hai lần”.
Không chỉ thế, bốn câu lục bát được kết nối bằng điệp ngữ “buồn trông” gợi nỗi buồn sâu sắc, triền miên, tạo âm hưởng của một bản nhạc buồn với điệp khúc tâm trạng. “Buồn trông” ở đây là cảm giác buồn nhìn xa xăm mơ hồ sẽ thay đổi hiện thực nhưng càng nhìn càng thất vọng. Điệp ngữ “buồn trông” kết hợp với nhiều từ láy “thảnh thơi”, “xa xa”, “man mác”, “rầu rầu”, “xanh xanh”, “ầm ầm” ở cuối câu tạo ra nhịp điệu u ám và đã diễn đạt sâu sắc tâm trạng đau buồn, bi thương của Kiều. Đồng thời với hình ảnh ẩn dụ đặc sắc, cảnh được miêu tả từ xa đến gần, màu sắc từ nhạt đến đậm, âm thanh từ yên bình đến ồn ào và tâm trạng từ tuyệt vọng cô đơn đến lo sợ, hoang mang.
Tóm lại, “Kiều ở Lầu Ngưng Bích” không chỉ là bức tranh thiên nhiên mà còn là bức tranh tâm trạng. Đoạn trích thể hiện tài năng vĩ đại của Nguyễn Du trong việc tả cảnh ngụ tình, trong đó, tám câu thơ cuối đã gieo vào lòng người nỗi đau thương cùng Kiều và tình yêu thương, sự thấu hiểu với thân phận người phụ nữ của Nguyễn Du.
Phân tích 8 câu thơ cuối Kiều ở lầu Ngưng Bích - Mẫu 5
Nhà nghiên cứu Phạm Quỳnh đã từng khẳng định: “Truyện Kiều còn, tiếng ta còn, nước ta còn”, và nhà thơ Chế Lan Viên đã lắng sâu và tinh tế khi ca ngợi: “Nguyễn Du viết Kiều, đất nước hóa thành văn”. Suốt hàng thế kỷ, Truyện Kiều đã trở thành món ăn tinh thần không thể thiếu với mỗi người dân Việt Nam. Những trang thơ cuốn hút và diệu kỳ đó vẫn mãi vương vấn tâm hồn ta, mang lại cho chúng ta niềm cảm thương sâu sắc với “tấm gương oan khổ” Thúy Kiều, đồng thời mang đến cho chúng ta những trải nghiệm thẩm mỹ đặc biệt trước những lời thơ như hoa, như gấm:
Phiền não chiều tắm trong mắt buồn,
Thuyền ai mờ nhạt, buồm vờn xa xôi?
Phiền não bóng nước chưa trôi,
Hoa phai man mác, biết rời đi đâu?
Phiền não mặt đất xanh tươi,
Đám mây chảy bờ, chân trời xanh biếc.
Phiền não gió cuốn lòng buồn rối,
Âm thanh sóng vỗ trĩu quanh chiếc ghế.
Tám câu thơ trích từ đoạn “Kiều ở lầu Ngưng Bích”. Đây là những dòng thơ có sức lôi cuốn nhất của đoạn trích, thành công diễn tả “nỗi lòng uất ức” của Kiều trong những ngày đầu tiên của cuộc sống cạnh nhau.
Hai từ “phiền não” được tái hiện bốn lần trong đoạn trích, gói gọn tâm trạng của Kiều “trước lầu Ngưng Bích”, tạo ra nhịp điệu đều đặn, bi thương cho câu thơ. Ở “thế giới của mùa xuân”, Kiều chỉ có thể dựa vào thiên nhiên, và từ đó nàng nhận ra số phận của mình. Tâm trí của nàng đầu tiên hướng ra xa, vì đó là nhà của nàng, là nơi có những người thân yêu nhất:
Phiền não chiều tắm trong mắt buồn,
Thuyền ai mờ nhạt, buồm vờn xa xôi?
Không gian rộng lớn, hẻo lánh bên cửa biển như làm nổi bật thêm thân phận nhỏ bé, cô đơn của Kiều. Không gian đó cùng với 'chiều hôm' - thời điểm gợi nhớ, gợi buồn - thấm sâu hơn vào tâm hồn của người con gái đang xa quê nhà, đau lòng. Trái tim cô đơn, tâm hồn trống trải mong chờ một chút ấm áp, một chút sự sống:
Thuyền kia nhỏ bé, buồm xa vời vợi?
'Thuyền' là biểu tượng của sự sống con người. Nhưng đó chỉ là sự tồn tại mờ nhạt, như vừa có vừa không, được miêu tả qua hai từ 'nhỏ bé', 'vời vợi'. Sự hiện hữu mờ nhạt của cánh buồm không làm cho khung cảnh trở nên ấm áp, mà càng gợi ra cảm giác cô đơn, lạc lõng cho con người. Không thấy sự chia sẻ từ nơi xa xăm của biển cả, Kiều quay mắt về 'ngọn nước' gần gũi hơn:
Buồn trông ngọn nước mới sa
Hoa trôi man mác biết là về đâu?
Trong dòng nước, cánh hoa trôi như nhắc nhở về thân phận phù sa của người trong cảnh. Câu hỏi như đưa vào tâm hồn người đọc. Thân phận của cánh hoa có phải là những phiền não, xót xa về cuộc đời lênh đênh của Kiều không? Hai từ 'về đâu' cuối câu tạo ra cảm giác xa lạ, không định rõ, phù hợp với tâm trạng của Kiều. Muốn tìm sự an ủi từ thiên nhiên nhưng mà càng nhìn, tâm trạng lại càng trở nên rối bời. Dường như dòng nước gợi lên sự lạnh lẽo, không định, chảy trôi khiến Kiều quay trở lại bờ cỏ xanh, mặt đất:
Thương cảnh cỏ rầu rĩ
Nhưng cỏ cũng ẩn chứa nỗi đau thương của con người: 'rầu rĩ'. Đâu còn là 'cỏ non' màu xanh ngút ngàn trong những ngày thanh bình khi Kiều còn sống những khoảnh khắc êm đềm. Khung cảnh ở nơi xa lạ như hiểu được tâm trạng của Kiều, nên nhuốm màu của những suy tư, nỗi lo âu trong cuộc đời. Nỗi 'rầu rỉ' ấy lan tỏa khắp không gian:
Bề mặt đất mơ màng màu xanh xanh
Cái nhìn từ 'bề mặt đất' xa xôi đến 'bầu trời' gần gũi, tất cả đều là 'một màu xanh xanh'. Tuy nó không giống với sắc xanh tươi sáng của mùa xuân:
Cỏ non mênh mang bạt ngàn và cũng không giống như sắc xanh trong trẻo của áo Kim trong những ngày đầu gặp gỡ:
Tuyết trải sắc ngựa bên rì
Cỏ pha áo nhuộm non sương mù trời.
Màu xanh ở lầu Ngưng Bích như một tấm lụa buồn. Nỗi buồn của con người hòa quyện vào cảnh vật, đọng lại bao nỗi đau. Không gian trở nên âm u, lạnh lẽo. Sự yên bình bao trùm khắp nơi như làm nổi bật tiếng đau thầm của lòng người. Kiều khao khát một tiếng nói của sự sống con người nhưng nhận lại chỉ là âm thanh mạnh mẽ của tự nhiên:
Buồn trông gió cuốn mặt duềnh
Ầm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi.
Gió thổi, nước trôi... tất cả đều gợi lên sự chảy trôi, giống như số phận 'Bên trời góc bể bơ vơ' của Kiều. Âm thanh của tiếng sóng ầm ầm như tiếng than khóc của trái tim trong cảnh bi ai, tê tái. Tầm nhìn của Kiều từ xa đến gần, từ cao xuống thấp, hy vọng tìm kiếm một điểm tựa. Tiếng sóng 'ầm ầm' 'kêu quanh ghế ngồi' là đáp lại duy nhất cho nàng. Nó không làm cho không gian sống động hơn mà càng đẩy sâu thêm nỗi đau lòng và lo âu về tương lai của Kiều. Bi thương biết bao, đớn đau biết bao! Chỉ có thiên nhiên bên cạnh, chia sẻ 'tấm lòng'' cùng nàng. Đó là khoảnh khắc Kiều cảm thấy cô đơn nhất.
Thơ ca chỉ có giá trị khi nó chạm đến lòng người, khi đó là tiếng lòng chân thành, được tạo ra bởi nghệ thuật chân chính. Đoạn thơ này của Nguyễn Du đã thể hiện điều đó. Nó không chỉ miêu tả thành công nỗi lòng buồn bã, tâm trạng bi ai của Kiều mà còn cho chúng ta thấy nghệ thuật mô tả cảnh vật ngụ tình bậc thầy của đại thi hào dân tộc. Sức hút của những câu thơ này đã, đang và sẽ vang mãi trong lòng người đọc.
Phân tích 8 câu thơ cuối Kiều ở lầu Ngưng Bích - Mẫu 6
“Truyện Kiều” đã trở thành một phần không thể thiếu trong tinh thần dân tộc ta suốt hàng trăm năm. Tác phẩm này luôn được coi là một viên ngọc quý trong văn học dân tộc ở mọi khía cạnh. Để tạo nên một kiệt tác như thế, điều quan trọng nhất mà Nguyễn Du đã thể hiện là lòng nhân đạo và tài năng nghệ thuật xuất sắc. Trong số các phương diện nghệ thuật, khả năng miêu tả cảnh ngụ tình của Nguyễn Du được thể hiện rõ nhất trong đoạn trích “Kiều ở lầu Ngưng Bích”, đặc biệt là ở 8 câu thơ cuối mở ra bằng từ “buồn trông”.
Bị giam giữ trong lầu Ngưng Bích, Kiều cảm thấy cô đơn và khao khát được tự do. Trong nỗi đau đớn, nàng nhìn ra xa xăm biển cả vào chiều hôm và thấy thấp thoáng cánh buồm phía xa. Trong không khí u ám của hoàng hôn, con thuyền xa xăm đó gợi lên nỗi buồn và mơ mộng. Nhưng liệu con thuyền ấy có thật sự hay chỉ là ảo giác? Mọi thứ trở nên mơ hồ và xa xôi đến nỗi chỉ có cánh buồm là rõ ràng. Kiều mong chờ một con thuyền từ xa mang nàng về với gia đình, nhưng càng mong chờ, càng thất vọng. Nàng nhớ nhà, và từ đó, nàng buồn. Nhìn vào biển rộng, nàng cảm thấy cô đơn và trầm tư.
Trên dòng nước, có những cánh hoa mỏng manh trôi dạt, nhưng liệu chúng có phải là biểu tượng cho số phận của Kiều? Câu hỏi này gợi lên lo lắng về tương lai không chắc chắn. Tâm trạng của Kiều trở nên mơ hồ và lo lắng. Khung cảnh mênh mông trở nên vô định, với màu xanh nhạt nhòa không còn sức sống như trước. Từ cảm xúc buồn và lo lắng, Kiều bắt đầu cảm thấy sợ hãi trước sự dữ dội của biển cả.
Phân tích các câu thơ cuối trong lầu Ngưng Bích của Kiều
Dường như đây là dự đoán về một tương lai không mấy êm đềm sẽ đối diện với Kiều. Sự xôn xao của sóng to và gió lớn sẽ làm nàng chao đảo trong đau đớn và nỗi sợ hãi. Bốn cặp lục bát mở đầu bằng từ “buồn trông” tạo nên một điệp khúc với giai điệu leo thang. Từ xa đến gần, từ mơ hồ đến rõ ràng, từ buồn đến lo sợ, tất cả được Nguyễn Du diễn tả một cách sắc nét, lồng ghép vào những ngày lưu lạc của Kiều. Nàng càng buồn, nàng càng trông, và từ đó, nàng càng buồn hơn. Nguyễn Du đã hiểu được điều này và truyền đạt cảm xúc của mình thông qua ngòi bút tài tình.
Bốn cặp lục bát ngắn gọn mang trong đó tài năng và lòng nhân đạo của Nguyễn Du. Đọc những dòng thơ ấy, người đọc không thể không cảm thấy xót xa trước số phận của Kiều và trân trọng tài năng cùng tấm lòng của thi sĩ họ Nguyễn.
Phân tích 8 câu thơ cuối của Kiều ở lầu Ngưng Bích - Mẫu 7
“Kiều ở lầu Ngưng Bích” là một trong những phần cảm động nhất trong tác phẩm Truyện Kiều của thi hào Nguyễn Du. Sự bi kịch trong tâm hồn Kiều trong những ngày lưu lạc đầu tiên được miêu tả một cách tinh tế qua ngôn ngữ nghệ thuật của tác giả.
Đột nhiên quý cô Kiều như biểu tượng của dân tộc,
Bằng sự kiên trì vượt qua nhiều thử thách và gian khó.
Chàng Kim đã đến, lau đi những giọt nước mắt
Và hương thơm từ lò trầm ấy tỏa ra...
(Đọc Kiều, Chế Lan Viên)
Những dòng thơ của Chế Lan Viên đã đánh thức trong ta những kí ức đẹp về cuộc đời bi thương của Thúy Kiều, và ta bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đối với Nguyễn Du, nhà thơ vĩ đại của dân tộc.
Đoạn thơ tám câu đã chạm đến tận sâu trong tâm hồn ta: 'Chạnh thương cô Kiều như tâm hồn dân tộc - sắc tài sao mà lại nhiều vết thương'.
'Kiều ở lầu Ngưng Bích' là một phần đặc biệt xúc động trong Truyện Kiều, tác phẩm vĩ đại của thi hào Nguyễn Du. Cảm xúc bi kịch của Kiều trong cuộc sống lưu vong đã được diễn đạt một cách tinh tế qua ngôn từ nghệ thuật tạo ra những hình ảnh đẹp mắt. Những câu thơ u buồn đã gợi lại trong lòng người đọc những cảm xúc đau đớn về những trải nghiệm đầy gian khổ của người phụ nữ 'bất hạnh'.
Sau khi trải qua biết bao lừa dối và tổn thương từ Mã Giám Sinh và Tú Bà, Kiều đã từng nghĩ đến cái chết. Nhưng cuối cùng, nàng vẫn được sống. Tú Bà đã nảy ra một kế hoạch mới, đưa Kiều đến sống tại lầu Ngưng Bích. Tại nơi xa quê hương, nàng sống trong cảnh cô đơn và lo lắng. Những cơn bão tố của quá khứ vẫn còn đọng lại trong tâm trí. Tương lai trước mắt là một bí ẩn, đầy nguy hiểm. Kiều cảm thấy chua xót và đau đớn tột cùng. Làm sao để tìm được ai đó để chia sẻ? Cảm giác nhớ nhung tràn ngập trong lòng. Kiều nhớ cha mẹ già yếu, không ai đỡ đầu nương tựa 'những người đó giờ đã nằm trong bóng tối”. Nàng nhớ đến Kim, người đã bị bỏ rơi nơi biển rộng...
Sau những ngày dài khao khát, cảm giác cô đơn và nỗi lo sợ không nguôi. Nỗi đau như một lưỡi dao sắc bén, cắt đứt tâm hồn. Những câu thơ đầy cảm xúc là lời than trách. Tác giả đã chọn bức tranh của thiên nhiên để thể hiện sự đau khổ trong tâm hồn của nhân vật. Mọi thứ quen thuộc ở vườn Thúy đều trở nên xa lạ và hoang sơ: 'bờ biển buổi chiều', chiếc thuyền và 'cánh buồm nhỏ bé', 'dòng nước lặng lẽ', một cánh 'hoa bị cuốn đi', 'cỏ dại mọc um tùm', màu xanh của cỏ, đôi chân mây, tiếng sóng vỗ đều đều... Những hình ảnh đó, âm thanh đó đã giúp tác giả mô tả tâm trạng của Kiều; một câu chuyện bi thảm luôn làm đau lòng nàng suốt ngày đêm.
Mỗi hình ảnh, mỗi từ ngữ đều khiến người đọc nhớ về số phận đau đớn và cuộc sống bất hạnh của cô gái đầu lòng Vương Viên. Mỗi chi tiết ẩn dụ đều là biểu hiện của nỗi lo sợ và lo lắng của Kiều. ''Cánh buồm xa xa' nhỏ nhắn trên 'bờ biển buổi chiều' như một hành trình đầy khó khăn và không biết đâu là điểm dừng.
Thấy buồn khi nhìn ra bờ biển buổi chiều,
Thuyền ơi, cánh buồm nhỏ bé xa xa kia?
Cánh 'hoa bị cuốn đi' nổi lên rồi lại chìm trong 'dòng nước lặng lẽ' vô biên, cũng giống như tâm trạng lo sợ cho số phận nhỏ bé trôi dạt trên dòng đời không lường trước:
Thấy buồn khi nhìn thấy dòng nước lặng lẽ,
Hoa cuốn đi rồi biết đi đâu?
'Những cỏ dại mọc um tùm” vàng rực hiện lên giữa màu xanh 'đôi chân mây của đất trời' nơi xa xôi và u tối hay là cuộc sống tàn úa của nàng:
Thấy buồn khi nhìn nội cỏ dại mọc um tùm,
Đôi chân mây của đất trời một màu xanh mướt.
Và biển trời dữ dội 'ôm ấp tiếng sóng' đang vỗ, đang 'gào thét', đang vây quanh, như làm lời cho sự lo âu, sợ hãi, nỗi khiếp sợ trong lòng Kiều:
Thấy buồn khi gió cuốn mặt duềnh,
Ôm ấp tiếng sóng vỗ quanh chỗ ngồi
Mỗi câu thơ, mỗi hình ảnh, mỗi từ ngữ miêu tả thiên nhiên, miêu tả cảnh vật đều có ý nghĩa và giá trị như một ẩn dụ, một biểu hiện về tâm trạng đau khổ và số phận u ám của một cuộc đời trong cuộc sống đầy sóng gió.
Một chuỗi từ lặp đi lặp lại: “nhỏ bé, xa xăm, u tối, dầu dầu, xanh biếc, ầm ầm” tạo nên âm điệu u ám, buồn bã, rùng rợn, xuất hiện ở đầu bài thơ, nhắc lại từ “buồn trông” bốn lần như một lời than thở, tiếng kêu thương, diễn tả điều quan trọng nhất về tâm trạng của Thúy Kiều khiến người đọc cảm động:
Buồn trông ra cửa bể chiều hôm…
Buồn trông ra ngọn nước mới sa…
Buồn trông vào nội cỏ dầu dầu...
Buồn trông gió cuốn mặt duềnh...
Tóm lại, “Kiều ở lầu Ngưng Bích” là một đoạn thơ kỳ lạ về nỗi “đoạn trường”. Một bức tranh phong phú về cảnh vật và tâm trạng đã mô tả sâu sắc nỗi đau, nỗi sợ hãi mà Kiều đang phải chịu đựng, dự báo những thách thức khó khăn mà nàng sẽ phải đối mặt trong cuộc sống “thanh lâu hai lượt, thanh y hai lần”, với niềm vui và nỗi buồn xen lẫn, cười lúc đau khổ, khóc khi hạnh phúc...
Nghệ thuật mô tả cảnh đẹp của Nguyễn Du vô cùng tinh tế, sống động, đầy hấp dẫn. Cảnh vật và tâm trạng hài hòa, chân thực, tình cảm phong phú. Mô tả cảnh để diễn đạt tình cảm, trong cảnh vật đó chứa đựng nhiều cảm xúc, thể hiện nỗi đau, lo lắng, và sự buồn bã của người con gái lạc lõng.
Đoạn thơ này có giá trị văn học sâu sắc. Nó đánh thức trong lòng mỗi người chúng ta những cảm xúc về sự đau khổ của con người và số phận không công bằng. Tấm lòng nhân ái, lòng từ bi, sự đồng cảm, và sự chia sẻ của nhà thơ đối với nỗi đau của Thúy Kiều đã để lại dấu ấn sâu sắc trong tâm trí của độc giả qua hàng thế kỷ:
Lệ tuôn quanh cơ thể Thúy Kiều.
(Tố Hữu)
Phân tích 8 câu thơ cuối của Kiều ở lầu Ngưng Bích - Mẫu 8
Miêu tả thành công tâm trạng Thúy Kiều là sự chứng tỏ sâu sắc của Nguyễn Du về tâm tư, số phận của con người. Khi nghĩ đến Nguyễn Du, người ta nhớ đến một nghệ sĩ biết tạo hình nhân vật vĩ đại qua hình tượng Thúy Kiều nổi tiếng. Ông không chỉ là một nhà văn tài năng về miêu tả con người mà còn là một người viết biểu đạt tài hoa về thiên nhiên. Điều này được thể hiện rõ qua tâm trạng của Thúy Kiều khi cô ở lầu Ngưng Bích.
Sau khi bị lừa, Thúy Kiều trải qua những đau khổ từ sự mất mát đến sự xấu hổ. Cô quyết định tự vẫn nhưng được cứu sống. Tú Bà không chịu buông tha, lại bày mưu lừa dối để giữ Kiều ở lầu Ngưng Bích.
Trong xứ lạ, lòng nàng lo âu, cô đơn. Những ngày sóng gió, nỗi sợ hãi vừa qua. Phía trước, con đường mịt mờ, đầy rủi ro. Nàng chịu đựng đắng cay và đau đớn. Bây giờ, nàng sống một mình trong lầu Ngưng Bích, cảm thấy 'buồn rầu, chán chường'. Nàng không biết tìm ai để chia sẻ, nỗi nhớ thương như là đợt sóng dâng lên trong lòng. Kiều nhớ cha mẹ già yếu, không ai đỡ đầu bà, 'những ai đó giờ” đã mãi xa vời. Nàng nhớ Kim, 'bên trời góc bể cô đơn...”
Sau nỗi nhớ là nỗi đau buồn sâu sắc, nỗi hoang mang và lo sợ không nguôi. Nỗi đau buồn như xé nát tâm hồn, siết chặt lấy hồn nàng. Đoạn thơ tám câu đầy bi thương. Nhà thơ đã sử dụng cảnh thiên nhiên để nền tảng cho cảm xúc nội tâm của nhân vật lãng mạn. Những cảnh vật quen thuộc ở vườn Thúy giờ trở nên xa lạ và hoang sơ: 'cửa bể chiều hôm', con thuyền và 'thấp thoáng cánh buồm', 'ngọn nước mới sa', một cánh 'hoa trôi man mác', 'nội cỏ dầu dầu', màu xanh của đất, chân mây, gió cuốn và tiếng sóng vỗ... Những hình ảnh ấy, âm thanh ấy gợi lên tâm trạng của Kiều, một bi kịch đang làm tan nát trái tim nàng suốt ngày đêm.
Mỗi hình ảnh, mỗi từ ngữ đều đánh thức trong tâm trí của độc giả một luồng tưởng tượng đau đớn về số phận bi định của cô gái Vương Viên ngoại. Mỗi hình ảnh ẩn chứa ý nghĩa tượng trưng cho nỗi lo âu và sợ hãi của Kiều. ''Cánh buồm xa xa' nhỏ bé trên 'cửa bể chiều hôm' gợi lên một hành trình vô định, mơ hồ:
Chán ngắt nhìn ra cửa bể chiều hôm,
Con thuyền nào thấp thoáng cánh buồm xa xa?
Cánh 'hoa trôi man mác' giữa 'ngọn nước mới sa' bao la, cũng là tâm trạng lo âu của một số phận nhỏ bé trôi dạt trên dòng đời không biết đi về đâu:
Lo âu nhìn ngọn nước mới sa,
Hoa trôi man mác không biết đi đâu?
'Nội cỏ dầu dầu' vàng úa nổi lên giữa màu xanh của 'chân mây mặt đất' xa xôi, có phải là cuộc sống tàn úa của nàng:
Lo âu nhìn nội cỏ dầu dầu,
Chân mây mặt đất xanh xanh một màu.
Và biển trời dữ dội 'tiếng sóng ầm ầm' vẫn vỗ, vẫn 'kêu', vẫn vây quanh, như nói lên lo âu, sợ hãi, nỗi khiếp sợ của Kiều:
Lo âu nhìn gió cuốn mặt duềnh,
Âm thanh sóng vỗ ầm ầm quanh ghế ngồi
Mỗi dòng thơ, mỗi bức tranh, ngôn ngữ mô tả thiên nhiên, mô tả ngoại cảnh như một biểu tượng, một tượng trưng về tâm trạng đau khổ và số phận u ám của một cuộc đời trong dòng sông lịch sử.
Một chuỗi từ: thấp thoáng, xa xa, man mác, dầu dầu, xanh xanh, ầm ầm tạo nên giai điệu buồn bã, u sầu, rùng rợn, xuất hiện ở đầu mỗi câu thơ, cụm từ 'buồn trông' lặp đi lặp lại như một lời than thở, lòng thương xót, thể hiện sự chi phối của tâm trạng Thúy Kiều khiến người đọc đầy xúc động:
Lo âu nhìn ra cửa bể chiều hôm,
Lo âu nhìn ngọn nước mới sa,
Lo âu nhìn nội cỏ dầu dầu,
Lo âu nhìn gió cuốn mặt duềnh...
Nói chung, “Kiều ở lầu Ngưng Bích” là một phần thơ kỳ lạ về cuộc sống đầy đau khổ. Một bức tranh đa dạng, phong phú về môi trường và tâm lý đã vẽ lên nỗi đau buồn, sợ hãi mà Kiều phải đối mặt, dự báo những cơn sóng gió mạnh mẽ mà cô phải trải qua trong quãng đời dài 15 năm lưu lạc 'lâu hai lượt, y hai lần', có ngọt ngào, có chua cay, cười lên rồi lại khóc, khóc rồi lại cười...
Đoạn trích “Kiều ở lầu Ngưng Bích”(trích “Truyện Kiều”) thể hiện sự cô đơn, nỗi buồn và đặc biệt là những biến động mạnh mẽ trong tâm trạng của Thuý Kiều khi cô ở nơi “góc bể chân trời” cô đơn, buồn bã. Đoạn trích đã minh chứng cho tài nghệ của Nguyễn Du trong việc mô tả tâm trạng nhân vật bằng bút pháp “tả cảnh ngụ tình” đặc biệt.
Phân tích 8 câu thơ cuối Kiều ở lầu Ngưng Bích - Mẫu 9
Đoạn trích “Kiều ở lầu Ngưng Bích” đã thể hiện tâm trạng cô đơn, nhớ nhung và đặc biệt là những biến động mạnh mẽ trong tâm trạng Thuý Kiều khi ở nơi “góc bể chân trời” cô đơn, buồn rầu.
Tác phẩm vĩ đại “Truyện Kiều” của đại thi hào Nguyễn Du thành công ở những đoạn thơ tả cảnh tả cảm tinh tế nhất, đó là những đoạn thơ “tả cảnh ngụ tình”. Trong đoạn trích “Kiều ở lầu Ngưng Bích” (Truyện Kiều), Nguyễn Du đã sáng tạo tám câu thơ cuối độc đáo trong nghệ thuật tả cảnh ngụ tình. Mỗi khung cảnh như một câu chuyện về nỗi buồn khác nhau và nỗi buồn đó càng trở nên sâu sắc hơn, đáng sợ hơn:
Lo âu nhìn ra cửa bể chiều hôm
Thuyền nào thấp thoáng cánh buồm xa xa?
Lo âu nhìn ngọn nước mới sa
Hoa trôi man mác không biết đi về đâu?
Lo âu nhìn nội cỏ rầu rầu
Chân mây mặt đất một màu xanh xanh
Lo âu nhìn gió cuốn mặt duềnh
Âm thanh sóng vỗ ầm ầm quanh ghế ngồi
Nghệ thuật tả cảnh ngụ tình là mượn cảnh vật để diễn đạt (ngụ) tâm trạng. Cảnh vật không chỉ là bức tranh thiên nhiên mà còn là bức tranh của tâm trạng. Cảnh là công cụ diễn đạt, còn tình là mục tiêu của sự diễn đạt. Đoạn trích Kiều ở lầu Ngưng Bích là một ví dụ điển hình cho nghệ thuật này, đặc biệt là trong việc áp dụng thành công trong tám câu thơ cuối cùng. Trong sáu câu thơ đầu, khung cảnh thiên nhiên trước lầu Ngưng Bích với không gian, thời gian được nhìn nhận qua con mắt của nhân vật, tiết lộ tâm trạng cô đơn, đau buồn của Thuý Kiều:
Trước lầu Ngưng Bích khóa xuân
Vẻ non xa tấm trăng gần ở chung
Bốn bề bát ngát xa trông
Cát vàng cồn nọ bụi hồng dặm kia
Bẽ bàng mây sớm đèn khuya
Nửa tình nửa cảnh như chia tấm lòng…
Lầu Ngưng Bích nơi Kiều bị giam lỏng được gọi là nơi khóa xuân. Đó có nghĩa là nơi giữ chặt tuổi trẻ, ước mơ và hoài bão của đời thiếu nữ. Không gian ấy vô biên, bao la: non xa, trăng gần, bốn bề bát ngát xa trông, ... vẻ rộng lớn, vô tận của thiên nhiên làm sâu sắc thêm tình cảnh cô đơn, trơ trọi của Kiều. “Mây sớm đèn khuya” chỉ riêng nàng “bẽ bàng” vào ra từ sớm. Hình ảnh trăng, mây sớm đèn khuya thể hiện sự lưu trôi của thời gian. Cùng với những hình ảnh mô tả không gian, sự tuần hoàn đều đặn của thời gian càng nhấn mạnh thêm tình cảnh cô đơn, buồn bã của Kiều. Đúng là nửa tình nửa cảnh như chia tấm lòng.
Bơ vơ trước góc bể của chân trời ấy, tâm hồn Kiều hướng về quê hương và những người thân yêu nhất của mình:
Tưởng người dưới ánh trăng đồng
Tin sương đọng trên rải mai chờ
Góc bể chân trời bơ vơ
Tấm lòng dù rửa vẫn chưa phai
Xót người gần cửa mai sau
Quạt nồng ấm lạnh ai làm bờ vai
Sân Lai nắng mưa bao lần
Có khi gốc cây ôm người yêu…
Đầu tiên, nàng nhớ về Kim Trọng - tình yêu đầu tiên trong sáng, mãnh liệt của mình. Kiều ước tưởng ra cảnh Kim cũng nhớ về mình, mong ngóng nhưng vẫn buồn bã khi không nhận được tin tức:
Tưởng người dưới ánh trăng đồng
Tin sương đọng trên rải mai chờ…
Nghĩ đến đó, tâm trạng Kiều đau khổ, xót xa, thương tâm:
Bên trời góc bể bơ vơ
Tấm lòng dù rửa vẫn chưa phai…
Nàng nhớ đến cha mẹ, thương cha mẹ ngày ngày tựa cửa ngóng tin con “xót người gần cửa mai sau”, đắn đo vì tuổi cao trước gian khổ của thời gian “Sân Lai cách mấy nắng mưa - Có khi gốc cây ôm người thương”, day dứt vì không ở bên để đền đáp công ơn sinh thành “quạt nồng ấm lạnh ai đó giờ”.
Nguyễn Du viết Kiều nhớ về Kim Trọng trước là điều hết sức phù hợp với biến động tâm lí của nhân vật trong hoàn cảnh cụ thể, đảm bảo tính chân thực cho hình tượng. Trong tình cảnh bị Mã Giám Sinh nhạo báng, ép tiếp đón khách làng chơi nên trạng thái tinh thần của Kiều là nỗi đau đớn về “tấm lòng dù rửa vẫn chưa phai”, là nỗi buồn nhớ người yêu, nuối tiếc mối tình đầu đẹp đẽ. Kiều đã hy sinh bản thân vì lòng hiếu, khi gặp phải hoàn cảnh thương tâm, nàng lại dành hết tâm trí nhớ về Kim Trọng, nhớ thương cha mẹ, quên cả hoàn cảnh bản thân. Trong đoạn trích này, Kiều hiện lên với phẩm chất nhân văn cao cả.
Càng nhớ người yêu, càng nhớ cha mẹ, Kiều càng đau lòng cho số phận và hoàn cảnh đau khổ của mình. Tâm trạng ấy của nàng tập trung vào tám câu thơ cuối đoạn trích. Tại đó, Nguyễn Du đã cho thấy một phong cách tả cảnh ngụ tình đặc biệt. Cảnh vật được miêu tả qua tâm trạng, tâm trạng lấn át lên cảnh vật, cảnh vật thể hiện tâm trạng, sắc thái của bức tranh thiên nhiên thể hiện từng trạng thái tình cảm của Thuý Kiều:
Buồn nhìn cửa biển chiều tà,
Thuyền kia mờ mịt cánh buồm xa xa…
Buổi chiều tà thường gợi nỗi nhớ về quê hương xứ sở. Có câu ca dao nói:
Chiều chiều ra đứng ngõ sau
Ngó về quê mẹ lòng buồn sầu.
Dẫu có chiều tà với biển trời bao la phía trước. Khung cảnh u ám đó không gì có thể che giấu đi nỗi cô đơn. Kiều nhìn thấy những cánh buồm thấp thoáng, những cánh buồm ẩn, hiện không rõ ràng ở phía chân trời, chứng tỏ nàng đã chờ đợi đến bao lâu. Trong những cánh buồm hướng về nơi tổ ấm xa xôi kia, liệu có cánh buồm nào đưa Kiều trở về với quê mẹ của nàng không?
Lại gần đây, một lần nữa, khi thêm vào cảnh, cũng thêm vào đó nỗi buồn:
Đau lòng khi nhìn thấy ngọn nước vừa mới trôi,
Hoa trôi rồi biết đi về đâu
Nhìn những bông hoa rơi bị cuốn theo dòng nước, nàng nghĩ về số phận lênh đênh, không biết rằng mình sẽ đi đến đâu, về đâu. Tất cả các từ động, tính từ trong câu thơ đều gợi lên sự trôi dạt, không rõ ràng của tạo hoá: “trôi”, “man mác”. Điều đó khiến cho không chỉ bản thân những bông hoa mà trong sự 'trôi' của chúng cũng phản ánh nỗi buồn 'man mác' đầy đau lòng. Nó cũng giống như những ngày nhạt nhẽo vô vị mà Kiều phải chịu đựng trong lầu xanh đơn độc và nhục nhã này:
Thấy buồn khi nhìn vào cỏ trong rồi buồn thêm lần nữa
Chân mây mặt đất một màu xanh dần héo rồi phai
Từ 'rầu rĩ' làm cho hình ảnh trở nên ảm đạm, u ám. Nếu 'cỏ trong rầu rĩ' thì màu xanh dần của chân mây mặt đất kia không phải là màu xanh của tuổi trẻ, hy vọng và tình yêu. Nó là màu xanh của cỏ úa héo hắt, đầy buồn tủi. Nó giống như nỗi lòng đang tan ra vì nỗi buồn thấm đẫm của Thuý Kiều.
Lo sợ hơn nữa, ở lầu Ngưng Bích, nơi bơ vơ giữa bốn bể biển rộng lớn, Kiều cảm thấy một điềm báo đáng sợ về tương lai đầy sóng gió:
Đau lòng nhìn gió cuốn mặt đất duềnh,
Âm vang tiếng sóng vỗ quanh chiếc ghế ngồi
“Gió cuốn mặt đất duềnh” là dấu hiệu của một cơn bão biển sắp tới và cũng là dấu hiệu của những gian nan trong cuộc sống. Vậy là thảm kịch của cuộc đời Kiều chưa kết thúc. Đất Trời còn muốn gửi đến “những cơn thịnh nộ dữ dội đến mức dập tan nát vườn hoa tươi bên bờ” mới dừng. Trong tiếng “âm vang” của sóng biển có thể nghe thấy tiếng bước chân của những kẻ Khuyến Ưng tàn bạo và tàn nhẫn.
Mỗi chi tiết, hình ảnh của thiên nhiên đều phản ánh sâu sắc tâm trạng của Thuý Kiều. Mỗi cảnh là một câu chuyện tình yêu, nhưng tất cả đều đau đớn, đúng như câu: “Ai đâu buồn cảnh mà lại vui”. Đặc biệt, cụm từ buồn trông lặp lại bốn lần trong tám câu thơ như những đợt sóng triều, làm tăng thêm cảm giác buồn đau, sâu sắc, kết hợp với việc nhìn từ xa đến gần, dần dần thu hẹp vào cảm xúc của con người để cuối cùng, tâm trạng cô đơn, nhớ nhung, đau đớn bộc phát. Sóng biển như một dấu hiệu của những đau khổ sắp tới cho Kiều, là một dự cảm cho một phần đời “trải qua hai lần cô đơn, hai lần tủi nhục.”
Đoạn trích “Kiều ở lầu Ngưng Bích” (trích từ Truyện Kiều) đã thể hiện tâm trạng cô đơn, buồn nhớ và đặc biệt là những biến động dữ dội trong tâm trạng của Thuý Kiều khi ở nơi “góc bể chân trời” bơ vơ, buồn tủi. Đoạn trích đã phô bày sự tài năng của Nguyễn Du trong việc miêu tả tâm trạng nhân vật bằng bút pháp “tả cảnh ngụ tình” đặc biệt.
Phân tích 8 câu thơ cuối của Kiều ở lầu Ngưng Bích - Mẫu 10
Nguyễn Du - nhà văn đã đưa văn học chữ Nôm của dân tộc ta lên đỉnh cao từ thế kỉ XVIII với kiệt tác 'Truyện Kiều'. Mọi người đều hâm mộ Kiều không chỉ vì tài năng của Nguyễn Du mà có lẽ chủ yếu là ở lòng nhân ái ông dành cho người phụ nữ tài năng và bất hạnh. Đến với tám câu cuối của đoạn trích 'Kiều ở lầu Ngưng Bích' là nhìn thấy bức tranh tâm trạng đầy xúc động của Thúy Kiều qua cách nhìn của cảnh vật.
Trích đoạn 'Kiều ở Lầu Ngưng Bích' nằm trong phần hai 'Gia biến và lưu lạc'. Khi gia đình gặp khó khăn, Kiều đã quyết định bán mình để chuộc cha. Cuộc đời nàng chuyển hướng, và những nốt nhạc đầu tiên của 'số phận thiên bạc' đã vang lên. Kiều bị Mã Giám Sinh, Tú Bà lừa dối và đẩy vào lầu xanh. Đau đớn và tủi nhục, Kiều đã cố tự sát nhưng không thành. Sau đó, Tú Bà phải đưa Kiều ra sống ở lầu Ngưng Bích với lời hứa tìm chồng cho nàng ở nơi lịch sự. Trong giây phút bên ngoài dường như yên bình này thì chính trong lòng Kiều lại rối bời với hàng trăm vấn đề. Một nỗi buồn lắng đọng đang làm chao đảo tâm hồn Kiều: xa lìa người yêu, xa cách cha mẹ và mọi nơi nàng nhìn đều làm nàng buồn. Nguyễn Du đã chọn cách diễn đạt 'tình trong cảnh ấy, cảnh trong tình này' để thể hiện tâm trạng của Kiều. Mỗi cảnh vật là một bức tranh tâm trạng:
Buồn trông cửa bể chiều hôm nay
Thuyền nào thấp thoáng cánh buồm xa xa?
Câu thơ này mô tả cảnh biển mênh mông trong ánh chiều dần tắt. Buổi chiều thường làm chúng ta buồn và nhớ nhà, đặc biệt với những người xa xứ. Biển rộng lớn nhưng chỉ có một chiếc thuyền 'thấp thoáng' 'xa xa', lúc ẩn lúc hiện, như vô hình. Sự cô đơn, lẻ loi của chiếc thuyền có thể là biểu tượng cho thân phận cô đơn của Kiều nơi góc bể chân trời, một mình trong bóng tối.
Sau khung cảnh bao la của biển vô tận là đến cảnh hoa rơi trên sóng nước:
Buồn nhìn ngọn nước trôi đi
Hoa rơi man mác không biết về đâu?
Thuyền trôi vô định, hoa cũng trôi vô định không biết đi về đâu. Nhìn cánh hoa rơi trên sóng nước, Kiều lại nhớ đến số phận của mình. Cuộc đời nàng cũng giống như một đóa hoa, sinh ra sớm và chết tối. Hoa lìa cành héo, tàn úa dưới tác động của gió. Kiều rời xa cha mẹ, cuộc đời nàng cũng như một con chim lạc bầy trong cơn giông bão không biết tương lai sẽ ra sao. Kiều đang bước đi giữa cuộc đời đầy sóng gió.
Sóng nước mênh mông, trôi nổi, Kiều nhìn xuống mặt đất cũng chỉ thấy một màu vàng úa:
Buồn nhìn cỏ rồi rầu rỉ
Chân mây mặt đất một màu xanh úa
Không phải là 'cỏ non xanh tận chân trời' như ngày Tết Thanh minh mà là 'nội cỏ úa úa' màu vàng úa, héo hắt, tàn tạ, thê lương. Màu 'xanh xanh' nhàn nhạt tạo cho cỏ cây không còn nét tươi mà thêm vẻ 'rầu rầu' tạo thành một màu sắc buồn, tẻ ngắt. Tuổi thanh xuân tươi đẹp của Kiều, tài năng sắc sảo đủ mùi của nàng đã, đang và sẽ nhạt buồn vô vị như nội cỏ rầu rầu kia. Đời Kiều rồi cũng giống như đời Đạm Tiên tài sắc vẹn toàn để rồi 'Sống làm vợ khắp người ta / Hại thay thác xuống làm ma không chồng'.
Khép lại đoạn thơ là những âm thanh dữ dội:
Buồn nhìn gió cuốn mặt duềnh
Ầm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi
Biển khơi đang êm ả, phẳng lặng bỗng vang lên những âm thanh ghê gớm, khủng khiếp. Tiếng sóng ầm ầm khắp bốn phía như muốn cuốn hết đi thân phận nhỏ bé của Kiều, như sẵn sàng đẩy con người xuống vực thẳm. Sóng gió biển khơi hay sóng gió cuộc đời đang đón đợi nàng? Đó là những âm thanh định mệnh báo trước một tai ương đầy bất trắc. Để rồi sau đó Kiều mắc lừa Sở Khanh và rơi vào cảnh 'thanh lâu hai lượt, thanh y hai lần'.
Ngòi bút của Nguyễn Du hết sức tinh tế khi tả cảnh cũng như ngụ tình. Cảnh và tình uốn lượn song song, mỗi cảnh là một bức tranh tâm trạng. Cảnh được miêu tả từ xa đến gần, màu sắc từ nhạt đến đậm, âm thanh từ tĩnh đến động, nỗi buồn từ man mác đến âu lo, kinh sợ. Cảnh vật thay đổi, bốn bức tranh tạo thành một bộ tranh tứ bình về tâm trạng của Kiều. Cụm từ 'Buồn trông... ' mở đầu câu thơ lục tạo âm hưởng trầm buồn đã trở thành điệp khúc đoạn thơ và điệp khúc tâm trạng Thúy Kiều. Những câu hỏi tu từ cùng với một loạt các từ láy gợi hình gợi cảm đã góp phần làm xô dậy những cơn sóng lòng của Kiều. Đoạn trích 'Kiều ở lầu Ngưng Bích' cho ta thấy rõ những nét tâm trạng của Kiều, giúp ta có những dự cảm đau đớn về tương lai Kiều phía trước đồng thời làm sáng lên cái tài, cái tâm và cái tầm của một thiên tài Nguyễn Du.
Đoạn trích được nhiều người biết đến và trân trọng. Có lẽ vừa bởi cái tài lớn của Nguyễn Du trong việc miêu tả cảnh ngụ tình vừa bởi tấm lòng nhân đạo lớn của ông đã làm xúc động lòng người đọc, gợi lên nỗi thương cảm với số phận của những con người tài hoa nhưng bất hạnh.
Đoạn văn phân tích 8 câu cuối Kiều ở lầu Ngưng Bích
Trong 'Kiều ở lầu Ngưng Bích', Nguyễn Du đã thành công trong việc tái hiện tâm trạng của Thúy Kiều qua tám câu thơ cuối. Đầu tiên, nỗi đau xót được thể hiện mạnh mẽ qua từ ngữ 'Buồn trông' được lặp lại tới bốn lần. Kiều ngắm nhìn cảnh vật xung quanh và cảm thấy đau xót cho số phận lênh đênh, bạc bẽo của mình. Tất cả đã mô tả được sự mênh mông, rợn ngợp của thiên nhiên và sự vô định, mông lung của Kiều khi nghĩ về tương lai. Nàng coi mình như bông hoa 'trôi man mác', bị sóng gió cuốn trôi, vùi dập. Nàng cảm thấy xót xa cho số phận nhỏ bé của mình, không biết tương lai sẽ ra sao.
.....