TOP 11 bài Phê phán khổ 3, 4 Bài thơ về tiểu đội xe không kính hay nhất của các bạn học sinh giỏi trên toàn quốc, giúp học sinh lớp 9 cảm nhận được tinh thần lạc quan, yêu đời của lính lái xe Trường Sơn.
Khổ 3, 4 Bài thơ về tiểu đội xe không kính đã để lại ấn tượng sâu sắc, không thể phai mờ, giúp chúng ta hiểu được những khó khăn, gian nan mà người lính lái xe phải đối mặt. Bên cạnh đó, có thể tham khảo thêm bài phân tích hình tượng người chiến sĩ lái xe, cảm nhận 2 khổ thơ đầu..... để viết văn tốt hơn:
Dàn ý Phê phán khổ 3, 4 Bài thơ về tiểu đội xe không kính
1. Khởi đầu
- Giới thiệu về đề tài chiến tranh và vai trò của người lính trong thơ ca: Đề tài này đã trở nên quen thuộc và được khai thác trong thơ ca của nhiều tác giả nổi tiếng.
- Giới thiệu về tác giả Phạm Tiến Duật - một nhà thơ được biết đến với nhiều tác phẩm viết về chiến tranh.
- Bài thơ tập trung vào hình ảnh của chiếc xe không kính, làm nổi bật người lính lái xe Trường Sơn với những phẩm chất tốt đẹp.
2. Phần chính
Khổ thơ 3+4: Tinh thần dũng cảm vượt qua khó khăn và tinh thần lạc quan của người lính
- Hai câu đầu khổ thơ 3 và hai câu đầu khổ thơ 4:
- Người lính phải đương đầu với nhiều khó khăn, gian khổ của thời tiết ở Trường Sơn: “bụi bám tóc bạc”, “mưa lớn lớn”
- Tuy nhiên, điều đáng ngưỡng mộ ở họ vẫn là tinh thần dũng cảm đối mặt với những khó khăn “không có… gì đâu”: sẵn lòng chấp nhận mọi nguy hiểm và khó khăn, coi đó như một phần không thể thiếu trong cuộc sống quân sự
- Hai câu cuối khổ thơ 3 và hai câu cuối khổ thơ 4:
+ Người lính đối mặt với khó khăn bằng tiếng cười “hi ha”
⇒ Tinh thần lạc quan
+ Các từ ngữ như “hi ha”, “phì phèo” là biểu hiện rõ ràng của tinh thần lạc quan và yêu đời của các chiến sĩ
⇒ Điều này thể hiện vẻ đẹp tinh thần trong lòng các chiến sĩ, là sự kết hợp tuyệt vời giữa thực tế chiến đấu và nghệ thuật thơ ca
3. Tổng kết
- Khẳng định lại những đặc điểm nổi bật, xuất sắc về nghệ thuật của bài thơ: sử dụng ngôn ngữ phong phú, tự nhiên, mạnh mẽ, áp dụng nhiều kỹ thuật tu từ thông thường…
Dàn ý Sơ đồ tư duy khổ 3, 4 Bài thơ về tiểu đội xe không kính
Phê phán khổ 3, 4 Bài thơ về tiểu đội xe không kính một cách súc tích
Khổ ba và khổ bốn của Bài thơ tiểu đội xe không kính của Phạm Tiến Duật thể hiện tinh thần lạc quan, dũng cảm, và sự sôi động, không sợ khó khăn, nguy hiểm. Thiên nhiên cũng như cảnh vật khắc nghiệt với bụi, gió, và mưa, nhưng với thái độ bất khuất, vượt qua mọi gian khổ, nguy hiểm với tinh thần dũng cảm, người lính lái xe thảnh thơi buông lời 'Không có… ừ thì', biến mọi khó khăn thành điều thú vị, với suy nghĩ “Chưa cần…”.
Tinh thần bất khuất, không sợ khó khăn rõ ràng hiện diện trong cấu trúc lặp lại: “Không có kính ừ thì…chưa cần”, cũng như trong các chi tiết như “phì phèo châm điếu thuốc“, “cười ha ha” hay “lái trăm cây số nữa” trên đường Trường Sơn đầy bom đạn, đèo dốc, gió bụi, mưa. Mô tả về tình huống của các lính rất chân thực: “bụi phun”, “mưa tuôn, mưa xối như ngoài trời”, nhưng người lính đã trở nên bình thường đối với những điều không bình thường đó và vượt qua tất cả với sự cố gắng và kiên trì.
Họ chấp nhận khó khăn như một phần của cuộc sống, và khó khăn không ảnh hưởng đến tinh thần của họ. Phạm Tiến Duật tài năng ở đoạn thơ này là khi hai câu đầu mô tả hiện thực khó khăn mà họ phải đối mặt, nhưng hai câu sau nói về tinh thần vượt lên để chiến thắng hoàn cảnh của người lính lái xe trong chiến tranh ác liệt. Câu thơ: “phì phèo châm điếu thuốc” và “Nhìn nhau mặt lấm cười ha ha” tạo nên ý thơ rộn ràng, sôi động, và lạc quan; những dòng thơ ít chất thơ nhưng lại gợi cảm giác thích thú khi đọc, với giọng thơ có chút hài hước, dũng cảm. Câu thơ 7 ở cuối đoạn với 6 dấu chấm “Mưa ngừng gió lùa khô mau thôi” tạo ra cảm giác nhẹ nhàng, thoải mái, và chấp nhận khó khăn như một câu chuyện nhỏ của họ.
Với 8 câu thơ, nhà thơ đã làm cho chúng ta nhìn thấy khó khăn mà người lính phải đối mặt khi xe không có kính, với giọng thơ mạnh mẽ, tự nhiên, và sự bình thản đã làm nổi bật tinh thần lạc quan, hài hước, và trẻ trung của người lính!
Ý kiến về khổ 3, 4 Bài thơ về tiểu đội xe không kính hay
Phạm Tiến Duật là một trong những nhà thơ tiêu biểu của thời kỳ kháng chiến chống Mỹ. Trong số các tác phẩm nổi tiếng của ông, 'Bài thơ về tiểu đội xe không kính' đứng đầu. Với những dòng thơ độc đáo, tác giả đã thành công trong việc vẽ nên hình ảnh của những người lính lái xe trên con đường Trường Sơn. Ở khổ thơ thứ ba và thứ tư, nhà thơ đã tạo ra hình ảnh rõ nét về tinh thần lạc quan, yêu đời của những người lính.
Lái xe trên con đường Trường Sơn, người lính phải đối mặt với nhiều khó khăn:
'Không có kính, ừ thì có bụi
Bụi phun tóc trắng như người già'
Và:
'Không có kính, ừ thì áo ướt
Mưa tuôn, mưa xối như trời mở vòm'.
Các chiếc xe không có kính, đèn, hay mui xe phải đối diện với vô vàn khó khăn. Đầu tiên, người lính phải đối mặt với 'Bụi phun tóc trắng như người già'. Tác giả sử dụng từ 'phun' để mô tả cơn mưa bụi kinh hoàng trên con đường Trường Sơn. Bụi bay khiến cho mái tóc của người lính trở nên trắng xóa như của người già. Không chỉ có bụi, những trận mưa lớn trong rừng già thường xuyên ảnh hưởng trực tiếp đến hành trình lái xe. Phép liệt kê kết hợp với từ động mạnh như 'tuôn, xối, phun' nhấn mạnh những khó khăn, gian truân thường trực trên con đường Trường Sơn chỉ có hai mùa mưa, nắng. Điều này cũng được nhà thơ Tố Hữu thể hiện qua hai câu thơ 'Trường Sơn đông nắng, tây mưa/ Ai chưa đến đó như chưa hiểu mình'. Hay nhà thơ Nguyễn Đình Thi cũng đã từng viết 'Bụi Trường Sơn nhoà trong trời lửa'.
Dù gặp phải nhiều khó khăn chồng chất, người lính lái xe vẫn lạc quan, yêu đời tha thiết:
'Chưa cần giặt, phì phèo châm điếu thuốc
Nhìn nhau mặt lấm cười haha'
Và:
'Chưa cần đổi, lái trăm cây số nữa
Mưa dừng, gió lùa khô mau thôi'
Những dòng thơ trên giúp độc giả cảm nhận được sự kiên cường, bất khuất của những người lính. Trong khó khăn, họ vẫn thong thả 'phì phèo châm điếu thuốc', 'nhìn nhau mặt lấm cười haha'. Đó là niềm vui và tiếng cười của những người lính trẻ tinh nghịch, yêu đời ngay giữa gian khó ác liệt. Ngay cả khi nguy cơ và tử thần có thể xuất hiện bất cứ lúc nào, những người lính lái xe vẫn dũng cảm tiến về phía trước. Điều phép 'Chưa cần' được lặp lại ở đầu câu thơ cũng thể hiện sự bất khuất, kiêu hãnh, coi thường khó khăn của những người lính. Dù có gian truân hơn nữa, họ vẫn vững vàng bước tiếp, tiến về phía trước vì miền Nam ruột thịt.
Bằng cách sử dụng các biện pháp tu từ đặc sắc kết hợp với giọng thơ ngang tàn, hóm hỉnh, tác giả Phạm Tiến Duật đã làm nổi bật hình ảnh những người lính lái xe lạc quan, yêu đời. Dù đã trôi qua nhiều năm tháng kể từ cuộc kháng chiến kết thúc, hình ảnh những chiếc xe không kính và những người lính lái xe Trường Sơn vẫn còn sống mãi trong tâm hồn của người đọc ngày nay.
Cảm nhận khổ 3, 4 Bài thơ về tiểu đội xe không kính - Mẫu 1
Chiến tranh đã qua đi nhưng những tác phẩm của nó vẫn sống mãi trong thời gian. Một trong những tác phẩm đó là 'Bài thơ về tiểu đội xe không kính' của tác giả Phạm Tiến Duật - một nhà thơ tiêu biểu, trưởng thành trong cuộc kháng chiến chống Mỹ. Bài thơ đã thành công trong việc mô tả hình ảnh của người lái xe Trường Sơn trong thời kỳ kháng chiến. Điều này rõ ràng qua 2 khổ thơ sau:
Không có kính ừ thì bụi phun
Bụi phun tóc trắng như người già
Chưa cần rửa, phì phèo châm điếu thuốc
Nhìn nhau mặt lấm cười ha ha
Không có kính ừ thì ướt áo
Mưa tuôn mưa xối như ngoài trời
Chưa cần rửa, lái trăm cây số nữa
Mưa ngừng gió lùa khô mau thôi
Bài thơ được sáng tác trong thời kỳ kháng chiến chống Mỹ đã thành công trong việc mô tả hình ảnh của người lính lái xe. Và vì tác giả là người hiểu biết về cuộc sống trong chiến tranh và có phong cách viết sáng tạo, đã tạo ra ấn tượng sâu sắc đối với người đọc. Trong bài thơ, tác giả đã tạo ra một hình ảnh đặc biệt của những chiếc xe không kính, hình ảnh độc đáo này đã để lại ấn tượng sâu sắc trong lòng người đọc.
Nếu hai khổ đầu của bài thơ khiến chúng ta cảm nhận được những thách thức mơ hồ mà người lính phải đối mặt, thì ở đây, những thách thức, khó khăn xuất hiện cụ thể, trực tiếp. Đó là “bụi phun tóc trắng” và “mưa tuôn mưa xối” (bụi, gió, mưa tượng trưng cho gian khổ cuộc sống). Trên con đường Trường Sơn, những người lính đã trải qua đủ mọi khó khăn. Những tiếng “ừ thì” vang lên như một thách thức, một chấp nhận chủ động của khó khăn, một thái độ kiên định. Tình cảnh của họ được miêu tả rất chân thực, nhưng họ đã vượt lên trên mọi khó khăn với tinh thần trách nhiệm cao. Họ chấp nhận gian khổ như một phần của cuộc sống, và tinh thần của họ không bị ảnh hưởng. Hình ảnh của họ toát lên vẻ đẹp kiên cường.
Trước thách thức, người chiến sĩ không nao núng. Họ ngày càng bình tĩnh và dũng cảm hơn. “Mưa tuôn mưa xối xả”, thời tiết khắc nghiệt, nhưng với họ, tất cả chỉ là “chuyện nhỏ”, không đáng quan tâm, chúng chỉ mang lại niềm vui. Những câu thơ vẫn toả ra niềm lạc quan sôi nổi: “không có kính ừ thì bụi phun, ừ thì ướt áo”. Những tiếng “ừ thì” đó thể hiện sự chấp nhận chủ động của khó khăn. Dường như gian khổ của chiến tranh chưa làm mờ nhạt tinh thần của họ, ngược lại, họ xem đó như là một cơ hội để thử sức. Tình cảnh của họ được miêu tả rất chân thực, nhưng họ đã vượt lên trên mọi khó khăn với tinh thần trách nhiệm cao. Họ chấp nhận gian khổ như một phần của cuộc sống, và tinh thần của họ không bị ảnh hưởng. Hình ảnh của họ toát lên vẻ đẹp kiên cường.
Có lẽ với những năm tháng sống trên tuyến đường Trường Sơn, là một người lính thực thụ đã giúp Phạm Tiến Duật đưa hiện thực đời sống vào thơ ca - một hiện thực bộn bề, một hiện thực thô tháp, trần trụi, không hề trau chuốt, gọt rũa. Đấy phải chăng chính là nét độc đáo trong thơ Phạm Tiến Duật. Và những câu thơ gần gũi với lời nói hằng ngày ấy càng làm nổi bật lên tính cách ngang tàng của những anh lính trẻ hồn nhiên, yêu đời, trẻ trung. Đó cũng là một nét rất ấn tượng của người lính lái xe Trường Sơn. Cái cười sảng khoái vô tư, khác với cái cười buốt giá trong bài thơ “Đồng chí”, nụ cười hồn nhiên ấy rất hiếm khi gặp trong thơ ca chống Pháp, nụ cười ngạo nghễ của những con người luôn luôn chiến thắng và tràn đầy niềm tin.điều đó đã ngân lên câu hát nâng bước chân người lính đi tiếp những chặng đường mới: “lại đi, lại đi trời xanh thêm”. Không dễ gì có được một thái độ dũng cảm đến ngang tàng và lạc quan đến như thế nếu không mang trong mình một trái tim yêu nước can trường!
Người lái xe trong bài thơ là những người chiến sĩ trẻ trung. Các anh rất trẻ trung, hồn nhiên, tâm hồn gần gũi với thiên nhiên. Trong tâm hồn họ chứa đựng hy vọng. Không dễ gì có được thái độ lạc quan đến như thế nếu không mang trong mình một trái tim yêu nước của tuổi trẻ Việt Nam thời chống Mĩ. Phải nói rằng hình ảnh người chiến sĩ lái xe trong thơ Phạm Tiến Duật thật tươi tắn và yêu đời. Chúng ta mãi mãi yêu quý và tự hào về họ.
Cảm nhận khổ 3, 4 Bài thơ về tiểu đội xe không kính - Mẫu 2
Hình ảnh của quân lính trong cuộc kháng chiến luôn là đề tài của nhiều nhà văn, nhà thơ, với các hình ảnh đa dạng. Trong tác phẩm “Bài thơ về Tiểu đội xe không kính” ta thấy rõ về hình ảnh của những người lính lái xe ở Trường Sơn, với tư thế kiêng chế, tinh thần dũng cảm, không ngại gian khổ nguy hiểm và quyết tâm chiến đấu, qua hình ảnh của những chiếc xe không kính.
Bài thơ được sáng tác trong giai đoạn kháng chiến chống Mỹ đã thành công rất lớn trong việc miêu tả hình ảnh của lính lái xe. Và bởi vì tác giả hiểu biết sâu rộng về cuộc sống chiến trường và có phong cách viết thực tế, điều này đã gây ấn tượng sâu sắc cho người đọc. Trong bài thơ, tác giả đã tạo ra hình ảnh đặc biệt của những chiếc xe không kính, hình ảnh này đã in sâu vào tâm trí của độc giả.
Trong bài thơ, tác giả đã tạo ra một hình ảnh rất gần gũi và thân thuộc với quân lính, đó là hình ảnh của những chiếc xe không kính.
Ở đây, tác giả đã mô tả rất chân thực về những điều thiếu sót của chiếc xe, tạo nên một hình ảnh rất đặc biệt về chiếc xe không kính trần trụi, bị biến dạng, và điều này tạo ra ấn tượng sâu sắc với người đọc. Thông qua những điều thiếu sót đó, tác giả cũng muốn truyền đạt về sự khốc liệt của cuộc chiến tranh.
Đối với quân lính lái chiếc xe “không kính”, việc lái xe trên đường luôn mang đến những trải nghiệm bất ngờ. Nhưng cũng chính điều đó gây ra những hậu quả:
Thiếu kính, bụi phủ mặt
Bụi bay tóc trắng như người già
Khổ thơ bắt đầu bằng cấu trúc lặp lại “thiếu kính” như muốn nhấn mạnh vẻ độc đáo, lạ lùng của chiếc xe và lý do khiến xe “phủ bụi”.
Mất mát bộ phận che chắn, người lái và chiếc xe như đang di chuyển giữa những đám bụi. Từ “bụi” và động từ “phủ” thể hiện sự nghiêm trọng, nhấn mạnh mức độ khủng khiếp của cơn bụi: bụi mịt mù bay lên, bụi phủ kín không gian, mỗi khi xe chạy và kéo dài suốt chặng đường dài. Trong bài thơ Lá đỏ, nhà thơ Nguyễn Đình Thi cũng đã cảm nhận về cơn bụi ở đây:
Đoàn quân vẫn bước vội vàng
Bụi Trường Sơn nhòa trong ngọn lửa trời.
Những cơn bụi từ khung kính vỡ ùa vào buồng lái, phủ đầy tóc, đầy mặt, biến người lính thành hình ảnh đáng yêu như nhà thơ so sánh “tóc trắng như người già”. Anh chiến sĩ, trẻ trung, sôi nổi, giờ đây đã trở thành một hình ảnh khác, già đi gấp bội vì lớp bụi dày bám trên tóc. Sự gian khổ của họ được diễn đạt một cách nhẹ nhàng đến bất ngờ. Họ không than phiền, không đổ lỗi, mà thậm chí dùng chính gian khổ của mình để làm hài hước nữa.
Ngược lại với thực tế của gian khổ, là thái độ của người chiến sĩ lái xe:
Không cần rửa, phì phèo châm điếu thuốc
Mặt lấm bụi cười ha ha
Nếu “ừ thì” thể hiện sự chấp nhận, sự đối diện với bụi bẩn, thì thái độ “không cần rửa” lại là sự thách thức, bất chấp, coi thường mọi gian khổ. Sự gian khổ này dường như không ảnh hưởng, không làm suy yếu ý chí, quyết tâm của họ. Người chiến sĩ xem đó như là một cơ hội để rèn luyện ý chí, sức mạnh của mình.
Nguồn gốc của sức mạnh, nghị lực trong người chiến sĩ đến từ mục tiêu, lý tưởng cao cả là “vì Miền Nam thân yêu”. Giọng điệu của bài thơ vừa mạnh mẽ vừa lạc quan, phản ánh thái độ quyết tâm đối diện với thách thức, gian khổ. Lời thơ có những nét nhẹ nhàng, cân đối như chiếc xe vẫn tiến về phía trước, đồng thời cũng có những phần gợi cảm, sáng sủa như âm thanh của tiếng cười, tiếng hát vang lên. Tất cả đã mô tả hình ảnh người chiến sĩ giải phóng quân thời kỳ chống Mỹ, mạnh mẽ, kiên cường, không khuất phục nhưng cũng đầy lãng mạn, trẻ trung, bình dị.
Không kính, thì áo ướt đẫm
..............
Mưa tạnh, gió lùa khô mau thôi.
Cấu trúc không có kính … ừ thì chưa cần, thể hiện tính cách mạnh mẽ, bất khuất đối diện với mọi khó khăn.
Không có kính che mưa, vậy nên áo ướt sũng, nhưng họ vẫn bất chấp, tiếp tục lái xe vì mưa đã ngừng, gió lùa khô mau thôi. Họ vẫn giữ vững tư thế đó, kiêu hãnh và yêu cuộc sống thế này!
Với cách diễn đạt hiện thực độc đáo, chỉ qua hai khổ thơ ba và bốn, bài thơ vẽ nên hình ảnh hùng vĩ của chiếc xe không kính, từ đó tôn vinh hình ảnh cao quý của người lính lái xe ở Trường Sơn trong thời kỳ kháng chiến chống Mỹ giải phóng dân tộc.
Cảm nhận khổ 3, 4 Bài thơ về tiểu đội xe không kính - Mẫu 3
Người lính trong thơ Phạm Tiến Duật tham gia vào cuộc chiến với sự tự tin, quyết tâm của những người có lý tưởng cao đẹp, sức mạnh và tiềm năng, cho thấy họ là những người dũng cảm và tràn đầy niềm vui. Lái xe trên con đường Trường Sơn, mặc dù gặp phải bom đạn, mưa tuôn, nhưng họ vẫn dũng cảm vượt qua mọi khó khăn để hoàn thành nhiệm vụ. Xe “không kính, không mui, không đèn” nhưng tinh thần vẫn thanh thản, đối diện với khó khăn một cách kiên định, hiên ngang. Những câu thơ dí dỏm, tinh nghịch, ngang tàng của những chàng trai thể hiện tinh thần thách thức với mọi khó khăn:
Không có kính, ừ thì bụi phủ
...........
Mưa tạnh, gió lùa khô mau thôi
Nếu hai khổ đầu bài thơ đã thể hiện những khó khăn thách thức mơ hồ, thì ở đây, thử thách và khó khăn đang đặt trước mắt một cách cụ thể, trực tiếp. Đó là “bụi phủ tóc trắng” và “mưa tuôn xối xả” (gió, bụi, mưa là biểu tượng cho những gian khổ thử thách trong cuộc sống). Trên con đường hỗ trợ miền Nam, những người lính đã chịu đựng đủ loại gian khổ. Nhưng sau những điều đó, họ vẫn giữ vững lòng mạnh mẽ và vui vẻ, bởi chỉ có lòng mạnh mẽ mới có thể vượt qua mọi thử thách giữa đường Trường Sơn này.
Đối mặt với thử thách mới, người lính vẫn không chùn bước. Họ càng bình tĩnh, dũng cảm hơn. “mưa tuôn, mưa xối xả”, thời tiết khắc nghiệt, dữ dội nhưng với họ, tất cả chỉ là “chuyện nhỏ”, không đáng bận tâm, lại mang lại niềm vui cho người lính. Chấp nhận thực tế, câu thơ vẫn toát lên sự lạc quan sôi nổi: “không có kính ừ thì có bụi, ừ thì ướt áo”. Tiếng “ừ thì” vang lên như một thách thức, một chấp nhận khó khăn đầy chủ động, một thái độ mạnh mẽ. Gian khổ hiểm nguy của chiến tranh chưa làm mờ đi tinh thần của họ, thậm chí, họ xem đó là cơ hội để thử sức, như người xưa thường thử tài giữa những khó khăn. Tình cảnh của họ được miêu tả rất chân thực nhưng họ đã biến cái không bình thường đó thành bình thường và vượt qua mọi khó khăn với tinh thần trách nhiệm cao. Họ chấp nhận gian khổ như một phần không thể thiếu, và khó khăn không làm suy yếu tinh thần của họ. Hình ảnh của họ thể hiện sự kiên cường.
Sau thái độ đó là những tiếng cười, những lời hứa hẹn, quyết tâm vượt qua gian khó hiểm nguy:”Chưa cần rửa.... khô mau thôi”. Cấu trúc câu thơ vẫn cân đối, nhịp nhàng theo nhịp rung của bánh xe. Câu thơ cuối 7 tiếng có 6 thanh “mưa ngừng gió lùa khô mau thôi” tạo cảm giác nhẹ nhõm, ung dung, rất lạc quan. Đó là khúc nhạc vui vẻ của tuổi trẻ hòa trong những hình ảnh vui tươi: “phì phèo châm điếu thuốc - nhìn nhau mặt lấm cười ha ha” ... ý thơ rất sống động, sôi nổi như sự hối hả của đoàn xe trên đường. Những vần thơ ít chất thơ nhưng càng đọc thì lại càng thấy thích thú, giọng thơ có chút nghịch ngợm, trẻ trung. Ta nghe như họ đang tươi tắn, tinh nghịch với nhau.
Sống trên con đường Trường Sơn suốt những năm tháng, là một người lính thực thụ đã giúp Phạm Tiến Duật đưa hiện thực vào thơ ca - một hiện thực bộn bề, thô sơ, trần trụi, không hề trau chuốt, gọt giũa. Đấy có lẽ chính là điểm độc đáo của thơ Phạm Tiến Duật. Và những câu thơ gần gũi với lời nói hàng ngày càng làm nổi bật tính cách mạnh mẽ của những anh lính trẻ, hồn nhiên, yêu đời, trẻ trung. Đó cũng là điểm đặc biệt của người lái xe Trường Sơn. Cái cười tươi sảng khoái, khác biệt với cái cười lạnh lùng trong bài thơ “Đồng chí”, nụ cười trong trẻo đó rất hiếm khi thấy trong thơ ca chống Pháp, là biểu tượng của sức mạnh và niềm tin. điều đó đã thúc đẩy họ tiến bước tiếp trên những con đường mới: “lại đi, lại đi trời xanh thêm”. Không dễ dàng có được một thái độ dũng cảm và lạc quan như thế nếu không có trái tim yêu nước!
Người lái xe trong bài thơ là những người lính trẻ tuổi. Họ rất trẻ trung, hồn nhiên, gần gũi với thiên nhiên. Trong tâm hồn họ đầy hy vọng. Không dễ dàng có được thái độ lạc quan như thế nếu không có trái tim yêu nước của tuổi trẻ Việt Nam thời chiến tranh. Hình ảnh người lái xe trong thơ Phạm Tiến Duật thật tươi tắn và yêu đời. Chúng ta mãi mãi yêu quý và tự hào về họ.
Cảm nhận về khổ thơ 3 và 4 của bài thơ về tiểu đội xe không kính - Mẫu 4
Nếu không có kính thì sẽ có bụi
Bụi phủ đầy mái tóc, giống như tóc của người già
Không cần phải rửa sạch, chỉ cần thưởng thức điếu thuốc
Mắt nhìn nhau qua lớp bụi, cười ha ha
Thiếu kính là bị ướt áo
Mưa tuôn rơi như trút nước ngoài trời
Chẳng cần phải rửa sạch, lái xe hàng trăm dặm nữa
Mưa dừng, gió ngừng, làn da sẽ khô nhanh chóng
Gió bụi thực tế, cũng như những khó khăn, thử thách mà các chiến sĩ lái xe phải đối mặt trên con đường ra mặt trận. Qua hành trình đầy gió bụi, mái tóc xanh của họ đã biến thành màu trắng: “Bụi phủ đầy tóc, giống như tóc của người già”. Nhưng họ vẫn rất lạc quan, yêu đời và vui vẻ: “Mắt nhìn nhau qua lớp bụi, cười ha ha”.
Dù nắng hoặc mưa, không có kính sẽ làm ướt sũng “như ngoài trời”. “Mưa tuôn rơi như trút nước” trực tiếp lên người vì không có kính che chắn gì. Vì thế, trên hành trình dài, người lính đã trải qua đủ mùi gian khổ: gió bụi, mưa rào. Mặc dù vượt qua mọi khó khăn, nhưng họ vẫn cứ ngạo nghễ, vui vẻ: “Không cần phải rửa sạch, lái xe hàng trăm dặm nữa/Mưa dừng, gió ngừng, làn da sẽ khô nhanh chóng”. Từ “không cần” đã thể hiện tính “ngông”, bất cần đời của người lính bộ đội cụ Hồ. Những khó khăn chỉ là những vấn đề nhỏ, vì vậy các anh không quan tâm. Dù thiên nhiên khắc nghiệt, chiến tranh tàn khốc, ý chí của người lính cách mạng không hề rung chuyển.
Và trong cuộc chiến tranh gian khổ ấy, tình đồng chí, đồng đội lại càng trở nên gắn bó và gần gũi hơn:
Chiếc xe từng chịu bom rơi
Nay tụ họp thành đội tinh nhuệ
Gặp đồng đội dọc đường về
Bắt tay nhau qua cửa kính vỡ vụn
Dù qua bao bom đạn, từ khắp nơi, những chiếc xe đã hội tụ tại một điểm, để chia sẻ những trải nghiệm trên con đường. Hình ảnh “bắt tay nhau qua cửa kính vỡ vụn” thể hiện tinh thần đoàn kết, gắn bó của các chiến sĩ lái xe. Đó cũng là tinh thần toàn dân, cùng nhau vượt qua khó khăn để tiến bước đến thành công.
Những tình cảm đó là nguồn động viên, giúp người lính trở nên mạnh mẽ và lạc quan hơn. Nhờ đó, chiến tranh trở nên nhẹ nhàng hơn, ít đau đớn hơn.
Không có kính, xe thiếu đèn
Thùng xe bị trầy không có mui
Chiếc xe vẫn chạy vì miền Nam phía trước
Chỉ cần trong xe chứa đựng một trái tim.
Một lần nữa, Phạm Tiến Duật tái hiện sự tàn khốc của chiến tranh thông qua hình ảnh xe “không kính, không đèn, không mui, thùng xe bị trầy”. Tuy nhiên, ý chí và nỗ lực vì miền Nam vẫn mãi không ngừng. Hình ảnh “trái tim” biểu tượng cho lý tưởng chiến thắng, thống nhất đất nước. Những chiếc xe không ngừng lăn bánh qua mọi nẻo đường, tất cả đều dành cho sự thịnh vượng của miền Nam.
Với hình ảnh của những người chiến sĩ vận tải kiên cường, dũng mãnh và tràn đầy lạc quan, hóm hỉnh, “Bài thơ về tiểu đội xe không kính” đã để lại ấn tượng sâu đậm trong lòng người đọc. Và điều tuyệt vời nhất trong bài thơ đó chính là tình đoàn kết và tình yêu quê hương thiêng liêng.
Cảm nhận về khổ thơ 3, 4 trong Bài thơ về tiểu đội xe không kính - Mẫu 5
Trong cuộc chiến chống Mỹ giải phóng đất nước, người chiến sĩ giải phóng quân đã trở thành tâm điểm, tụ hội những phẩm chất cao quý nhất. Họ được lòng nhân dân và thế giới kính trọng, ngưỡng mộ. Hình ảnh của những người lính hào hùng, sôi nổi, trẻ trung đã trở thành nguồn cảm hứng không ngừng cho các nhà văn, nhà thơ. Phạm Tiến Duật, một nhà thơ quân đội, phục vụ trong đơn vị vận tải trên con đường lịch sử Trường Sơn, đã sáng tác một bài thơ tuyệt vời, độc đáo về tiểu đội xe không kính. Trong đó, ba khổ thơ cuối cùng rất ấn tượng:
Không có kính không phải do xe không có kính
Bom giật, bom rung, kính vỡ tan...
Bình tĩnh ngồi buồng lái ta đang,
Nhìn đất, nhìn trời, nhìn thẳng.
Thấy gió thổi vào, mắt đắng đầy
Nhìn con đường chạy thẳng vào tim.
Thấy sao trời và đột ngột cánh chim
Như sa, như ùa vào buồng lái.
Không có kính, ừ thì có bụi
Bụi phun tóc trắng như người già
Chưa cần rửa, chỉ cười ha ha...
Trên con đường Trường Sơn huyết mạch và nổi tiếng với cái tên “đường mòn Hồ Chí Minh”, những chiếc xe thuộc đơn vị vận tải vẫn vội vã chạy ra chiến trường để cứu chữa. Những chiếc xe và những người lái xe trở nên quen thuộc, đáng yêu. Nhà thơ đã viết về họ một cách độc đáo.
Nguồn cảm hứng cho bài thơ xuất phát từ hiện thực của 'chiếc xe không có kính', làm cho mọi người bất ngờ và ghi lại ấn tượng sâu sắc vì không chỉ một chiếc xe mà là cả một 'tiểu đội xe không kính'. Hình ảnh những chiếc xe đó được nhấn mạnh ngay từ câu thơ đầu tiên.
'Không có kính không phải vì xe không có kính'
Câu thơ ban đầu có vẻ như một câu chuyện, một diễn đạt. Sử dụng ngôn ngữ giản dị, mộc mạc, như là lời kể của một người lính kể về chiếc xe mà họ đang sử dụng. Xe thông thường thường có kính và việc có kính trên xe là điều bình thường, không đáng để nói đến, không đáng để quan tâm.
Chi tiết 'không có kính' là điều làm cho câu thơ trở nên chú ý, gây ấn tượng mạnh mẽ và là một sự thật có sức kích thích cảm xúc thơ. Nếu phần đầu của câu thơ là phủ định, thì phần sau là sự khẳng định, nhấn mạnh 'không phải vì xe không có kính'. À, thì ra trước đó chiếc xe vẫn nguyên vẹn, không có gì xảy ra với các bộ phận đó.
Vậy tại sao lại có sự không bình thường đó, tại sao lại có cả một 'tiểu đội xe không kính'? Nhà thơ lựa chọn góc độ, tư duy của người lính lái xe để trả lời:
Bom giật, bom rung, kính vỡ tan vỡ
Thì ra tất cả, nguyên nhân là vì chiến tranh. Điều ngữ 'bom' kết hợp với các động từ 'giật, rung' tái hiện sự gay go, khốc liệt của cuộc chiến giữa chúng ta và địch, phản ánh và lên án bản chất tàn bạo, ngạo mạn của quân giặc. 'Mưa bom, bão đạn' của chúng đổ xuống con đường Trường Sơn thật dữ dội, hung ác. Họ dùng sức mạnh của vũ khí hiện đại để cản trở sự tiếp tế, tiến công của chúng ta, làm lung lay ý chí, tinh thần chiến đấu của những người chiến sĩ. Áp lực từ bom đạn khi nổ, những mảnh bom, đạn đánh trúng làm 'kính vỡ tan vỡ'. Dù thực tế khắc nghiệt, khó khăn về điều kiện với những chiếc xe hư hại, thái độ của người chiến sĩ lái xe vẫn thể hiện sự bình thản.
Trong buồng lái, chúng ta ngồi tự tin
Từ 'Tự tin' được sử dụng để miêu tả thái độ bình tĩnh, tự tin, không sợ hãi của người chiến sĩ. Bất chấp mọi khó khăn, trở ngại, với lòng dũng cảm và gan dạ anh hùng, họ ngồi vững chắc trong buồng lái để thực hiện nhiệm vụ. Từ chiếc xe không kính, họ quan sát mọi cảnh vật bên ngoài.
Nhìn xuống đất, nhìn lên trời, nhìn thẳng vào trước mắt
Câu thơ viết theo nhịp 2-2-2 vô cùng cân đối. Nó phản ánh sự nhịp nhàng, ổn định của chiếc xe lăn bánh và đặc biệt là thái độ tự tin, bình tĩnh của người cầm lái. Điệp ngữ 'nhìn' đã đặt nặng nhấn vào vẻ đẹp từ cách quan sát của người chiến sĩ. Một vẻ đẹp chảy ra từ tâm hồn, trái tim của họ. Sự quan sát chăm chú đó thể hiện tình yêu thương của họ đối với thiên nhiên, cuộc sống và sự quyết tâm, kiên định trong nhiệm vụ. Họ 'nhìn đất' để tăng thêm sự gắn bó với con đường Trường Sơn hùng vĩ, thân thuộc, để đưa chiếc xe đi an toàn, nhanh chóng đến đích. Họ 'nhìn trời' để tâm hồn thêm lạc quan, bay bổng, tin tưởng vào tương lai. Họ 'nhìn thẳng' về phía trước, nhìn vào con đường phía trước cần vượt qua, nhìn vào nhiệm vụ đầy gian khổ, thử thách để tăng thêm quyết tâm, sự tích cực và sẵn sàng đối phó với mọi hiểm nguy, gian khổ. Vì vậy, dù bom đạn gào thét, họ vẫn tiếp tục tiến lên. Họ là những chiến sĩ lái xe dũng cảm, hào hùng biết bao!
Ở khổ thứ 2, chiếc xe không còn bất kỳ bộ phận nào che chắn nên bây giờ người chiến sĩ đã tiếp xúc trực tiếp với bên ngoài khi chiếc xe lao đi.
Thấy gió thổi vào làm mắt đắng rát
Thấy con đường chạy thẳng vào tâm hồn
Cảm nhận của người chiến sĩ về cơn gió là cảm nhận trực tiếp. Anh không chỉ cảm nhận cơn gió thổi vào làm mắt đắng rát mà còn thấy cơn gió vô hình. Cơn gió dường như không vô tình, nó thổi vào làm mắt đắng rát để làm giảm bớt cảm giác đắng, sự khó chịu ở mắt do những ngày đêm thức trắng lái xe. Cảm giác đó càng trở nên mạnh mẽ hơn khi anh 'thấy con đường chạy thẳng vào tâm hồn'. Sự kết nối thật đẹp và độc đáo khi chiếc xe lao tới, con đường đã chạy ngược lại phía người lái. Sự tin tưởng phù hợp với trái tim của người lái xe, đó là trái tim nhiệt thành, hăng say trong nhiệm vụ. Trái tim của người chiến sĩ luôn đong đầy tình yêu Tổ quốc quê hương, đặc biệt là con đường thân thuộc gần gũi, con đường chịu đựng bao đạn bom, máu lửa. Chiếc xe vẫn tiếp tục lao nhanh, tiến lên vì người lính hiểu rõ mục đích, lí tưởng cao cả của mình là cống hiến, hoạt động vĩ đại!
Thấy sao trời và bất ngờ cánh chim
Ùa vào buồng lái giống như cứu rỗi
Cuộc chiến đấu có nhiều hiểm nguy, thử thách nhưng tâm hồn của người chiến sĩ vẫn luôn lãng mạn, bay bổng khi anh quan sát từ chiếc xe không kính để thấy “sao trời, cánh chim”.... Có lẽ, tâm hồn anh phải hân hoan, phơi phới yêu đời nên mới có được cảm nhận ”... như sa, như ùa vào buồng lái”. Nếu điệp ngữ “nhìn thấy” diễn tả thái độ quan sát chủ động của người chiến sĩ đối với cảnh vật thì động từ “thấy” lại nhấn mạnh đến sự xuất hiện bất ngờ, mau lẹ “đột ngột” của cánh chim đêm. Cách nhìn ấy thật tinh tế và lạc quan. Một ánh sao, một cánh chim lạc đàn cũng làm anh chú ý, xao xuyến. Nhịp thơ trở nên nhanh gấp, sôi nổi thể hiện tâm hồn yêu đời, yêu thiên nhiên, sự lạc quan của người chiến sĩ. Đó cũng chính là thái độ chung của người chiến sĩ Giải phóng quân thời chống Mĩ. Như một nhà thơ đã từng viết:
Cuộc sống vẫn đẹp sao
Tình yêu vẫn đẹp sao
Dù đạn bom man rợ thét gào
Dù thân thể thiên nhiên mang đầy thương tích.
Còn ở khổ 3, người chiến sĩ lái xe chiếc xe “không kính” đem lại những cảm giác bất ngờ khi lao đi trên đường. Nhưng đó cũng chính là nguyên nhân gây ra hậu quả:
Không có kính, thì bụi cũng phát ra
Bụi bay tóc trắng như người già
Khổ thơ bắt đầu bằng cấu trúc lặp lại “không có kính” như muốn nhấn mạnh phác họa rõ nét vẻ lạ lùng, độc đáo của chiếc xe và là lí do khiến xe “có bụi”.
Mất đi bộ phận che chắn, người lái và chiếc xe giống như đang đi giữa đám bụi đất. Điệp ngữ “bụi” và động từ “phun” diễn tả, nhấn mạnh mức độ khủng khiếp của bụi: bụi bay, bụi cuốn mù mịt cả không gian, đất trời mỗi lần xe chạy và kéo dài suốt cả chặng đường dài. Trong bài thơ Lá đỏ, nhà thơ Nguyễn Đình Thi cũng đã cảm nhận về cơn bụi ở đây:
Đoàn quân vẫn tiếp tục hành quân vội vàng
Bụi Trường Sơn lẫn vào ngọn lửa trời.
Những cơn bụi đó đã ùa vào buồng lái qua khung kính vỡ, phủ đầy tóc, đầy mặt người lính, biến anh thành hình tượng hài hước khi so sánh như “tóc trắng như người già”. Anh chiến sĩ đôi mươi, trẻ trung, sôi nổi giờ đây đã trở thành một hình ảnh khác, già đi gấp bội bởi lớp bụi dày bám trên tóc. Cái gian khổ của họ được diễn tả sao mà nhẹ nhàng đến thế. Họ không than thở, phàn nàn mà lại lấy chính gian khổ của mình để làm hài hước. Đối lập với thực tế gian khổ vẫn là thái độ của người chiến sĩ lái xe:
Chưa cần rửa mặt phì phèo, thư giãn với điếu thuốc
Nhìn nhau mặt lấm bụi cười ha ha
Nếu từ ngữ “ừ thì” thể hiện sự chấp nhận, chịu đựng những cơn bụi thì thái độ “chưa cần rửa” lại là sự thách thức, bất chấp, xem thường mọi gian khổ. Gian khổ này dường như không tác động, làm lay chuyển ý chí, quyết tâm của anh. Người chiến sĩ xem đó là cơ hội để rèn luyện ý chí, sức mạnh của mình.
Cội nguồn sức mạnh, nghị lực của người chiến sĩ bắt nguồn từ mục tiêu cao cả “vì Miền Nam thân yêu”. Giọng điệu của bài thơ vừa kiên định lại vừa phản ánh sự vui tươi, sôi nổi, thể hiện sự quyết tâm đối với nhiệm vụ, sự đương đầu với khó khăn. Lời thơ mang đôi khi nhẹ nhàng, cân đối như chiếc xe vẫn tiếp tục tiến tới, đôi khi gợi cảm, rạng rỡ như âm thanh vang vọng của tiếng cười, tiếng hát. Tất cả đã vẽ nên hình ảnh của người chiến sĩ giải phóng quân thời chiến tranh chống Mĩ dũng cảm, kiên cường, không khuất phục mà còn đầy lãng mạn, trẻ trung, giản dị.
Bài thơ về tiểu đội xe không kính thực sự là một tác phẩm xuất sắc của Phạm Tiến Duật. Không phải ngẫu nhiên mà nhà thơ đã chọn cho tác phẩm này cái tên “Bài thơ về...”. Chất thơ toát ra từ thực tế cuộc chiến đấu, từ niềm vui của người chiến sĩ trong thời kỳ kháng chiến chống Mỹ. Chất thơ phản ánh từ sự giản dị, đơn giản của ngôn từ, sự sáng tạo đột phá của các chi tiết, hình ảnh và sự mềm mại, uyển chuyển của lối văn... đã phác họa rõ nét hình ảnh của anh lính Cụ Hồ.
Dù đã ra đời gần ba mươi năm trước, bài thơ vẫn mang lại cảm xúc mạnh mẽ cho mỗi người chúng ta ngày nay. Chúng ta cảm ơn nhà thơ đã giúp chúng ta cảm nhận sâu sắc về những người chiến sĩ trong một thời khắc khó khăn nhưng hào hứng, những người đã hy sinh bản thân để bảo vệ dân tộc, quê hương. Chúng ta cần phải sống sao cho xứng đáng, không làm cha ông thất vọng, không phụ lòng của thế hệ cha ông, đó là tinh thần mà chúng ta cảm nhận khi thưởng thức bài thơ đặc biệt này.
Cảm nhận về khổ thơ 3, 4 của bài thơ về tiểu đội xe không kính - Mẫu 6
Phạm Tiến Duật là một trong những nhà thơ trẻ tiêu biểu trong thời kỳ kháng chiến chống Mỹ cứu nước. Các tác phẩm của ông thường mô tả về những người lính, những thanh niên xung phong trên con đường Trường Sơn lịch sử. Một trong những tác phẩm nổi tiếng nhất của ông là “Bài thơ về tiểu đội xe không kính”. Bài thơ này đã thành công trong việc mô tả hình ảnh của những người lính lái xe Trường Sơn trong thời kỳ kháng chiến với một phong cách trẻ trung, sôi nổi, tinh nghịch, đặc biệt là trong hai khổ thứ ba và thứ tư.
Phạm Tiến Duật, một người lính trên con đường Trường Sơn, hiểu biết về cuộc sống của những người lái xe trong chiến tranh. Những câu thơ chân thực của ông đã gợi lên trong người đọc những ấn tượng sâu sắc về những người lính lái xe và những chiếc xe 'không kính' của họ.
Trên hai khổ thứ ba và thứ tư, chúng ta thấy những khó khăn mà người lái xe phải đối mặt khi không có kính bảo vệ. Đó là 'bụi' đất mù mịt trên đường đi và những cơn mưa rào bất chợt. Nếu như ở hai khổ trước đó, những khó khăn chỉ được diễn tả mơ hồ, không rõ ràng, thì ở đây, mọi thách thức, khó khăn trở nên cụ thể hơn:
'Không có kính, vậy nên có bụi
Bụi phủ đầy tóc trắng như của người già'
Và:
'Không có kính, nên áo ướt sũng
Mưa rào tuôn như trời không kề bên'
Để hoàn thành nhiệm vụ hỗ trợ miền Nam, các lính phải trải qua mọi khó khăn, gian khổ. Trên đường đi, họ phải đối mặt với bụi trắng phủ đầy, biến mái tóc xanh thành 'trắng như của người già', và cả những cơn mưa rào đột ngột. Nhà thơ bắt đầu hai khổ thơ bằng việc nhấn mạnh sự thiếu thốn của các chiếc xe không kính đi qua Trường Sơn. Từ đó, ta có thể thấy được những khó khăn mà các lính gặp phải khi tiến về miền Nam. Các xe chở đạn dược và vũ khí không có bộ phận che chắn, khiến cho người và xe phải đi trong bụi, trong gió, trong mưa. Việc sử dụng từ 'bụi' và 'mưa' lặp lại hai lần trong hai câu thơ liên tiếp cùng các động từ mạnh như 'phun', 'tuôn', 'xối' cho thấy sự khắc nghiệt, dữ dội của thiên nhiên trên đường hành quân mà các lính lái xe phải đối mặt trên chặng đường tiến về miền Nam.
Vượt lên trên tất cả những gian lao ấy, các lính lái xe Trường Sơn vẫn giữ vững tinh thần lạc quan, bất chấp khó khăn. Điều 'ừ thì' thể hiện tinh thần bất khuất, sẵn sàng đối mặt với mọi thách thức của họ. Đối với họ, những khó khăn ấy chẳng là gì cả, tất cả chỉ là những 'chuyện nhỏ'. Hoàn cảnh của các lính được mô tả rất chân thực, sống động, họ đã biến những điều 'bất thường' thành những điều bình thường đơn giản. Họ vượt qua mọi khó khăn với tinh thần lạc quan, hiên ngang, ý chí trách nhiệm vững vàng. Các lính đối mặt với khó khăn bằng tiếng cười sảng khoái:
'Chưa cần rửa phì phèo châm điếu thuốc
Nhìn nhau mặt lấm cười ha ha'
Nhịp thơ 3/2/3, 4/3 tràn đầy niềm vui của các chàng thanh niên trẻ lên đường cứu quốc. Đọc những câu thơ này, ta cảm nhận được tiếng cười sảng khoái, hết mình của các lính lái xe Trường Sơn. Ở câu thơ cuối cùng của khổ thơ thứ 4, ta thấy một câu thơ 7 tiếng mà có tới 6 tiếng thanh bằng 'mưa ngừng, gió lùa mau khô thôi' gợi lên cảm giác nhẹ nhàng, thoải mái, rất ung dung, lạc quan. Những câu thơ của Phạm Tiến Duật chứa đựng sự sôi nổi, tinh nghịch của các chiến sĩ, ta như thấy họ đang đùa giỡn, vui vẻ cùng nhau trên đoạn đường lái xe gian khổ ấy. Tất cả những gian khổ, khó khăn đều được gạt bỏ bằng nụ cười sảng khoái, trẻ trung, ngang tàng trên môi các chiến sĩ.
Hai khổ thơ 3 và 4 trong tác phẩm 'Bài thơ về Tiểu đội xe không kính' đã cho chúng ta thấy được những gian khổ, thiếu thốn mà các lính lái xe đã phải đối mặt trong chặng đường tiến về miền Nam. Bằng giọng thơ trẻ trung, sôi nổi, có chút ngang tàng, Phạm Tiến Duật đã làm nổi bật lên tinh thần lạc quan của các lính trẻ. Các biện pháp như điệp từ và so sánh liên tưởng độc đáo, ngôn ngữ thơ bình dị đã xây dựng nên hình tượng các chiến sĩ Trường Sơn rất thành công.
'Bài thơ về tiểu đội xe không kính', đặc biệt là khổ 3 và 4, đã cho chúng ta thấy một hình ảnh rất độc đáo - những chiếc xe không kính. Tác giả đã nổi bật hình ảnh những người lính lái xe trẻ tuổi với tư thế hiên ngang, dũng cảm, lạc quan, không ngần ngại mọi khó khăn, và luôn hướng về phía miền Nam. Họ là tấm gương mẫu mực cho thế hệ trẻ trong cuộc chiến chống Mỹ cứu nước.
Đoạn văn cảm nhận về khổ 3 và 4 của bài thơ 'Bài thơ về tiểu đội xe không kính'.
Mẫu 1
Hình ảnh người lính trong chiến tranh đã được nhiều tác giả khai thác. Trong số đó, nhà thơ Phạm Tiến Duật đã viết về 'Bài thơ về tiểu đội xe không kính'. Đặc biệt, khổ thơ thứ ba và thứ tư đã nêu bật tinh thần ung dung, lạc quan của người lính lái xe trên tuyến đường Trường Sơn. Tác giả sử dụng từ 'bụi' kết hợp với động từ 'phun' để nhấn mạnh sự khắc nghiệt của bụi trên con đường Trường Sơn. Khói bụi biến những người lính trẻ thành những người già với mái tóc bạc trắng 'Bụi phun tóc trắng như người già'. Không chỉ vậy, xe không có kính che chắn còn gặp phải 'Mưa tuôn, mưa xối như ngoài trời'. Thế nhưng, hai tiếng 'ừ thì' vang lên như một sự chấp nhận, sẵn sàng chịu đựng mọi khó khăn. Người lính 'Chưa cần rửa lái trăm cây số nữa/Nhìn nhau mặt lấm cười ha ha'. Mặc kệ diện mạo trông có khác thường, những người lính lái xe vẫn băng băng tiến về phía trước với niềm tin vào một tương lai tươi sáng. Cùng với tinh thần lạc quan đó, Tố Hữu đã viết 'Xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước/Mà lòng phơi phới dậy tương lai'. Chính sự yêu đời và quyết tâm chiến đấu của những người chiến sĩ đã mang lại hòa bình cho đất nước. Bằng cách sử dụng phép so sánh và hình ảnh thơ chân thực, tác giả đã giúp chúng ta hiểu được vẻ đẹp của những người lính lái xe trên tuyến đường Trường Sơn.
Mẫu 2
Qua 'Bài thơ về tiểu đội xe không kính', nhà thơ Phạm Tiến Duật đã vẽ nên một bức tranh sống động về những người lính lái xe, những người 'Xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước/ Mà lòng phơi phới dậy tương lai'. Trong khổ thơ 3, 4, tác giả tái hiện những khó khăn, gian khổ của cuộc kháng chiến, từ đó làm nổi bật vẻ đẹp của những người lính lái xe. Bom đạn của kẻ thù phá hủy làm cho những chiếc xe trở nên méo mó, biến dạng. Xe không kính gây ra nhiều vấn đề cho những người lính, không có kính khiến 'bụi phun', 'mưa tuôn, mưa xối' khiến cho những người lính 'tóc trắng như người già', làm cho những bộ quân phục trở nên ướt sũng. Dù gian khổ, khắc nghiệt, những người lính lái xe vẫn đối mặt với tinh thần lạc quan, bình thản. Cấu trúc 'Không có...ừ thì' thể hiện thái độ cương quyết, coi thường hiểm nguy, gian khó. Với những người lính lái xe, những khó khăn ấy không là gì cả, họ coi đó là một phần không thể thiếu trong cuộc chiến. Từ tượng thanh 'ha ha', động từ 'phì phèo' thể hiện sự coi thường gian khổ, ngay cả trong hiện thực khốc liệt nhất, những người lính vẫn lạc quan, yêu đời. Thông qua việc sử dụng ngôn ngữ tự nhiên, giọng điệu vui tươi, hóm hỉnh, tác giả đã thể hiện được tính lính, tính trẻ trong những người chiến sĩ lái xe. Đó là những con người không sợ khó khăn, sẵn lòng đối mặt với hiểm nguy, hy sinh để thực hiện ước mơ cứu nước cao cả.
Mẫu 3
Trong các tác phẩm viết về những người lính lái xe Trường Sơn, không thể không nhắc đến 'Bài thơ về tiểu đội xe không kính' của Phạm Tiến Duật. Đặc biệt, trong khổ thơ thứ ba và thứ tư, tác giả đã làm cho chúng ta cảm nhận được những khó khăn trên chiến trường và tinh thần chiến đấu kiên cường của những người lính. Lái những chiếc xe không có kính, người lính gặp rất nhiều khó khăn. Con đường Trường Sơn gập ghềnh, đầy khói bụi làm cho người lính lái xe trông như 'Bụi phun tóc trắng như người già'. Thời tiết trong rừng cực kỳ khắc nghiệt, mưa nắng thất thường nên đôi khi họ phải chịu đựng những cơn mưa xối thẳng vào người qua khung cửa không kính. Mặc cho khó khăn, gian khổ, họ vẫn vững chắc tay lái tiến về phía trước với niềm tin bất diệt. Đối với những người lính lái xe, vất vả, thách thức không là gì cả, chỉ cần đất nước được độc lập thì họ sẽ làm mọi thứ. Từ tượng thanh 'ha ha' cho ta thấy tinh thần lạc quan, yêu đời của họ. Tiếng cười của họ như làm tan đi tiếng mưa bom bão đạn trên chiến trường ác liệt. Rõ ràng, những thách thức của thời đại không thể ngăn cản được tinh thần chiến đấu dũng cảm của những người chiến sĩ cách mạng. Bằng việc sử dụng ngôn ngữ thơ tự nhiên, giọng điệu hóm hỉnh, Phạm Tiến Duật đã mang đến cho độc giả một cái nhìn rất riêng về hình ảnh người chiến sĩ Trường Sơn. Họ là những người trong hoàn cảnh khó khăn nhưng luôn cố gắng, lạc quan, tin vào tương lai tươi sáng.