So sánh hình tượng của người lính trong bài thơ Đồng chí và Bài thơ về tiểu đội xe không kính chọn lựa 12 mẫu hay nhất, giúp các bạn hiểu rõ hơn những phẩm chất đáng quý của những người lính xưa.
Hình tượng của người lính trong cả hai bài thơ Đồng chí và Bài thơ về tiểu đội xe không kính đều thể hiện sự kiên cường, bất khuất, không sợ nguy hiểm, gian khó để bảo vệ đất nước yêu thương của chúng ta. Mời các bạn đọc cùng Mytour để nâng cao hiểu biết về môn Văn lớp 9.
Hình tượng của người lính trong Đồng chí và Bài thơ về tiểu đội xe không kính
- Sơ đồ tư duy về hình tượng của người lính trong Đồng chí và Bài thơ về tiểu đội xe không kính
- Dàn ý so sánh hình tượng của người lính trong 2 bài thơ (3 mẫu)
- So sánh hình tượng của người lính trong Đồng chí và Bài thơ về tiểu đội xe không kính (8 mẫu)
- Phân tích vẻ đẹp của người lính qua hai bài thơ Đồng chí và Bài thơ về tiểu đội xe không kính
- Vẻ đẹp của hình tượng người lính qua bài thơ Đồng chí và Bài thơ về tiểu đội xe không kính
- So sánh hình ảnh của người lính cách mạng trong bài thơ Đồng chí và Bài thơ về tiểu đội xe không kính
- So sánh hình ảnh của người lính trong Đồng chí và Bài thơ về tiểu đội xe không kính
Dàn ý So sánh hình tượng của người lính trong 2 bài thơ
Phân chia dàn ý so sánh hình tượng người lính trong 2 bài thơ
1. Bắt đầu
- Tổng quan về đề tài về những người lính cách mạng
- Tổng quan về bài thơ “Đồng chí” (Chính Hữu) và bài thơ “Bài thơ về Tiểu đội xe không kính” (Phạm Tiến Duật)
- Chỉ ra vấn đề cần phân tích: So sánh hình tượng người lính cách mạng qua hai bài thơ “Đồng chí” và “Bài thơ về Tiểu đội xe không kính”.
2. Phần chính
a. Tương đồng
* Hình tượng của người lính trong cả hai bài thơ đều toát lên vẻ đẹp đáng quý, đáng trân trọng: Là những cá nhân giàu nghị lực, ý chí, luôn sẵn lòng vượt qua mọi gian khổ, thử thách bằng niềm tin và tinh thần lạc quan
- Đồng chí:
- Chính Hữu dường như đã biểu hiện hết mọi khó khăn, gian khổ, thiếu thốn mà những người lính đã phải chịu đựng
- Những người lính ấy đã vượt qua tất cả bằng một nụ cười, hình ảnh “miệng cười buốt giá”
- Bài thơ về tiểu đội xe không kính:
- Hình ảnh của “bụi”, “mưa” không chỉ là sự tường thuật hiện thực mà còn là biểu tượng cho những khó khăn
- Nhưng những người lính đã vượt qua tất cả bằng ý chí, nghị lực và niềm tin: thông điệp “không có... mà có…”, cấu trúc “chưa cần…” và các hình ảnh “phì phèo châm điếu thuốc”, “nhìn nhau mặt lấm cười ha ha”,...
* Cả hai đều thể hiện tình đồng chí, đồng đội gắn bó, vững vàng.
- Đồng chí:
- Những người lính hiểu biết và chia sẻ mọi nỗi lòng, đồng hành bên nhau, chia sẻ mọi điều.
- Hình ảnh “Thương nhau tay nắm chặt bàn tay”
- Bài thơ về tiểu đội xe không kính:
- Trên hành trình gian nan, vất vả ra chiến trường, những người lính tạm gặp nhau, trao nhau những cái bắt tay ấm áp, đậm chất tình anh em.
- Với họ, những người cùng chia sẻ bát đũa chính là anh em, là gia đình.
* Cả hai đều thể hiện tư thế quả cảm, ung dung, sẵn sàng đối đầu với kẻ thù xâm lược
- Đồng chí: Hình ảnh không đợi “kẻ thù tới” như đã mô tả trước mắt chúng ta hình ảnh người lính vững vàng đứng chờ đợi, không sợ hãi.
- Bài thơ về tiểu đội xe không kính: Tư thế vững vàng của họ càng được nhấn mạnh qua việc sử dụng cụm từ “nhìn xuống đất”, “nhìn ngắm trời”, “đối diện mạnh mẽ”,...
b. Tính khác biệt
- Nền tảng sinh ra:
- Đồng chí: Sinh ra từ gia đình nông dân, từ những vùng quê khác nhau
- Bài thơ về tiểu đội xe không kính: Sinh ra từ dòng dõi tri thức trẻ tuổi.
- Hình ảnh người lính trong bài thơ “Đồng chí” được thể hiện với vẻ mộc mạc, chân chất bởi họ đến từ gia đình nông dân, trong khi những người lính trong “Bài thơ về tiểu đội xe không kính” lại xuất hiện với hình ảnh trẻ trung, hồn nhiên, tinh nghịch, tinh thần hài hước.
c. Lý giải nguyên do
- Tương đồng: Cả hai tác phẩm đều viết về người lính với những vẻ đẹp tự nhiên của họ
- Sự khác biệt:
+ Đặc điểm của văn học - văn học là lĩnh vực của sự mới mẻ, sáng tạo, không chấp nhận sự sao chép hoặc lặp lại.
+ Bối cảnh ra đời của hai tác phẩm.
- Bài thơ “Đồng chí” xuất hiện vào năm 1948, thời điểm bắt đầu của cuộc kháng chiến chống Pháp
- Bài thơ “Bài thơ về tiểu đội xe không kính” xuất hiện vào năm 1969, trong giai đoạn đỉnh điểm của cuộc chiến chống Mỹ cứu nước đầy cam go và khốc liệt.
3. Kết luận
- Tổng quan về hình ảnh của người lính trong hai bài thơ và phát biểu suy nghĩ cá nhân.
......
So sánh hình ảnh của người lính trong Đồng chí và Bài thơ về tiểu đội xe không kính
So sánh hình ảnh của người lính trong 2 bài thơ - Mẫu 1
Thế hệ trẻ thời chiến tranh chống Mỹ là một thế hệ sống đẹp đẽ, anh hùng. Họ nhận thức sâu sắc về nhiệm vụ lịch sử của mình, trong khó khăn và hy sinh vẫn luôn lạc quan. Theo lời của nhà thơ Tố Hữu, họ là thế hệ “Xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước. Mà lòng phơi phới dậy tương lai”. Do đó, các thế hệ trẻ Việt Nam luôn tự hào, kính trọng và biết ơn họ mãi mãi.
Hình ảnh những chiến sĩ trong bài thơ “Đồng chí” và “Bài thơ về tiểu đội xe không kính” thể hiện sự đoàn kết và tinh thần yêu nước, dũng cảm, sẵn sàng hy sinh cho sự tự do của Tổ quốc. Họ sống lạc quan, đồng lòng đoàn kết, vượt qua mọi gian khó để hoàn thành nhiệm vụ, sẵn lòng hy sinh tất cả vì Tổ quốc yêu dấu.
Tuy nhiên, mỗi bài thơ lại tạo ra hình ảnh khác nhau về người lính. Trong “Đồng chí”, họ là những người nông dân, sống trong cảnh nghèo khổ và thiếu thốn, nhưng với niềm tin vào cách mạng và hy vọng thoát ra khỏi cuộc sống nô lệ.
Trong “Bài thơ về tiểu đội xe không kính”, những chiến sĩ mang theo ý thức lý tưởng cách mạng, chiến đấu cho độc lập, tự do của đất nước. Họ là những chàng trai trẻ từ Hà Nội, quyết tâm chống Mỹ cứu nước, sống trẻ trung, lạc quan, tin tưởng vào tương lai tươi sáng.
Họ nhận thức rõ trách nhiệm của mình và hiện diện mạnh mẽ trong một thời điểm quan trọng. Họ là những anh hùng, mạnh mẽ, hiên ngang.
Dù ở hai thời kỳ khác nhau, những chiến sĩ trong hai bài thơ đều là biểu tượng của sự chiến đấu, hy sinh cho độc lập, tự do của Tổ quốc. Họ là những anh hùng mang trong mình hi vọng và niềm tin của dân tộc.
So sánh hình tượng người lính trong 2 bài thơ - Mẫu 2
Người lính là một trong những hình tượng trung tâm của văn học cách mạng Việt Nam. Trong văn chương và thơ ca, họ được miêu tả như những anh hùng Cụ Hồ, mang trong mình những phẩm chất cao quý. Hai tác phẩm 'Đồng chí' (1948) của Chính Hữu và 'Bài thơ về tiểu đội xe không kính' (1969) của Phạm Tiến Duật cũng thể hiện điều này.
Mỗi bài thơ mang một vẻ đặc trưng. Trong 'Đồng chí' của Chính Hữu, ta bắt gặp hình ảnh người lính nông dân mộc mạc, chân thành, phản ánh cuộc sống bình dị từng dòng thơ:
Quê hương ta đất mặn nước chua
Làng tôi nghèo đất nát đá bùn
Họ đều là những người nông dân, từng bước đi từ những nơi quê mùa đầy cám dỗ. Với cùng một lý tưởng và nhiệm vụ, họ trở thành đồng chí, đoàn kết bên nhau. Trong khi đó, những chiến sĩ trong 'Bài thơ về tiểu đội xe không kính' là những thanh niên học sinh, tươi trẻ, hóm hỉnh, ngang tàng. Họ chân thành, hóm hỉnh ngay từ câu thơ đầu tiên: 'Không có kính không phải vì xe không có kính' - một câu thơ trẻ trung, đầy tranh luận, sôi nổi, phản ánh tinh thần tuổi trẻ. Dòng thơ dài mười câu phân tích nguyên nhân khiến xe không có kính. Và chiến sĩ trẻ lái xe đã biến điều không bình thường thành điều bình thường, thậm chí còn thấy thú vị trước điều không bình thường đó.
Mặc dù có một số điểm khác biệt về độ tuổi và hoàn cảnh xuất thân, nhưng hình tượng người lính trong hai bài thơ đều thể hiện những phẩm chất cao quý của anh bộ đội Cụ Hồ như sự sẵn sàng vượt qua mọi khó khăn, tình đồng đội thân thiết, ý chí chiến đấu kiên cường và tinh thần lạc quan, yêu đời.
Trong cuộc kháng chiến của dân tộc, dù là lúc nào, người lính cũng đối mặt với hàng loạt khó khăn, thử thách. Ở những ngày đầu tiên của cuộc kháng chiến chống Pháp, những người lính trong bài thơ Đồng chí của Chính Hữu phải trải qua những ngày tháng đầy gian khó, vất vả, thiếu thốn. Ai từng trải qua cuộc sống lính trong những năm đó mới hiểu được những khó khăn mà họ phải vượt qua. Một trong những khó khăn đó là căn bệnh sốt rét rừng:
Chúng tôi cảm nhận từng cơn rét buốt
Sốt rét làm đớn lòng người, trán ướt mồ hôi
Những người bị bệnh cảm nhận từng cơn rét buốt, sau đó run rẩy, cố gắng lấy ấm từ bất cứ điều gì, mồ hôi dày dịch. Sau cơn sốt rét là da vàng, da xanh, viêm gan… Tố Hữu đã viết về các chiến sĩ quân vệ: “Giọt mồ hôi chảy ròng ròng - Trên khuôn mặt vàng rực nghệ”. Thơ Lê Thái sơn cũng nói về căn bệnh này: “Da đã chuyển màu vì bệnh - Không còn tươi sáng như hồi trước”. Không chỉ gây ra tình trạng da xanh, căn bệnh này còn lấy đi sinh mạng của biết bao chiến sĩ. Có người không đối phó được với bệnh và qua đời ở rừng: “Người anh bên cạnh không còn bước nữa - Gục lên vũ khí bỏ quên đời” (Dũng – Bắc giang).
Ngoài việc phải đối mặt với bệnh tật, những ngày đầu tiên của cuộc kháng chiến, cuộc sống của người lính rất khó khăn và thiếu thốn:
Áo của anh rách vá
Quần của tôi cũng có vài mảnh vá
Cười mặc cảnh lạnh giá
Chân không đôi giày
Những khó khăn thiếu thốn của các anh bộ đội được thể hiện trong thơ của Chính Hữu bằng cách miêu tả thực tế, một sự thật trần trụi đến đau lòng. Nhà thơ Hồng Nguyên trong bài thơ Nhớ cũng đề cập đến những anh lính thiếu trang phục quân trang quân dụng, phải chiến đấu với kẻ thù bằng vũ khí tự tạo:
Tháo sắt trên đường tàu
Làm sắc thêm dao kiếm
Vải ảo chân không giày
Xuống rừng truy tìm giặc
Khi mô tả về người lính trong Bài thơ về tiểu đội xe không kính, Phạm Tiến Duật không đề cập đến việc thiếu trang phục quân trang mà tập trung vào sự khắc nghiệt của chiến trường. Bom đạn
chiến tranh đã khiến cho những chiếc xe của đoàn xe ra trận trở thành những chiếc xe không còn có kính. Xe không kính vì: “Bom nổ kính tan vỡ đi”. Không có kính nên “Bụi bặm rơi trắng như tóc già”, “Mưa tuôn gió thổi như trời”. Và tác giả đã lạc quan vui vẻ gọi tiểu đội của mình là “tiểu đội xe không kính”. Trên con đường Trường Sơn – nơi mà “một mét vuông có ba quả bom lớn” nhiều chiến sĩ đã phải nằm xuống vì điều này, có nhà thơ đã viết những câu thơ đau lòng.
Nếu tất cả quay trở lại đông đủ
Sư đoàn của tôi sẽ thành bao nhiêu sư đoàn?
Dù ở bất kỳ thời điểm nào, chiến tranh luôn là sự mất mát, là nỗi đau. Tuy nhiên, những chiến sĩ lái xe vẫn vượt qua mọi gian khó, nguy hiểm để hoàn thành nhiệm vụ của mình một cách lạc quan, trẻ trung. Họ tỏ ra kiêu hãnh, dũng cảm, không sợ khó khăn, nguy hiểm: “Yên ổn trong buồng lái ta ngồi – Nhìn xuống đất, nhìn lên trời, nhìn thẳng”. Tư thế này là tư thế đi vào lịch sử, tư thế kiêu hãnh của những anh hùng Trường Sơn.
Dù gặp phải nhiều khó khăn, vất vả nhưng những chiến sĩ luôn mang trong mình tinh thần lạc quan, yêu đời. Dù đứng giữa rừng rét buốt, trên môi họ vẫn hiện lên nụ cười: “Cười giữa cảnh lạnh giá' (Đồng chí). Họ coi thường thách thức, khó khăn. Câu thơ này thể hiện sự lạc quan, bình thản của những con người giản dị, hồn nhiên. Những người lính ấy lạc quan, mỉm cười trước khó khăn, chấp nhận mọi thử thách: “Không có kính, ừ thì có bụi – Bụi phun tóc trắng như người già – Chưa cần rửa, vẫn hút điếu thuốc – Nhìn nhau mặt bùn cười ha ha”, và “Không có kính, ừ thì ướt áo – Mưa to, mưa xối như ngoài trời – Chưa cần thay đồ, lái trăm cây số nữa – Mưa ngừng, gió tạnh, khô nhanh thôi”. Ai đã từng bước chân trên đường Trường Sơn vào thời kỳ chống Mỹ mới hiểu rõ gian khổ của những người lính lái xe. Đường Trường Sơn đầy chông gai. Mưa trên rừng Trường Sơn như trút nước. Mùa khô, bụi mù mịt. Trong ngày trời nắng, bom Mỹ không ngừng rơi xuống trên những đoàn xe liên tiếp ra trận. Xe có kính, những chiến sĩ lái xe đã gặp nhiều gian khó, xe không kính lại càng gian khổ hơn.
Sống giữa ngọn lửa của chiến tranh, những người lính càng thêm yêu thương và chia sẻ lẫn nhau. Sống trong những ngày tháng khó khăn, họ sẵn sàng chia sẻ mọi thứ: “Buổi tối lạnh lẽo chung một chăn”, “Nắm lấy bàn tay yêu thương” (Chính Hữu – Đồng chí). Đó là sự đoàn kết để vượt qua mọi khó khăn, gian khổ. Dù bom đạn của Mỹ có gay go đến đâu, những cái bắt tay thân thiết của những chiến sĩ lái xe Trường Sơn vẫn tiếp tục: “Gặp đồng đội suốt con đường đi – Ôm tay qua cửa kính đã vỡ”. Hành động này thể hiện sự bất lực của kẻ thù, cũng như niềm vui chiến thắng. Dù trời mưa bom đạn, đế quốc Mỹ không thể ngăn cản: “Bếp Hoàng Cầm ta dựng giữa trời – Cùng bàn ăn nghĩa là gia đình đấy – Võng treo xe chạy trên đường – Tiếp tục, tiếp tục hành trình xuyên qua bầu trời”. Dừng chân giữa rừng Trường Sơn, những người chiến sĩ động viên, khích lệ nhau, cùng hướng về một ngày mai tươi sáng. “Chỉ cần trong xe có một trái tim”, dù không có kính, không có đèn, không có mui xe, thùng xe có xước thì những chiếc xe vẫn hướng về phía Nam yêu thương.
Những ngày tháng hi sinh gian khổ này và tình đồng đội sẽ là những kỷ niệm không bao giờ quên đối với mỗi người chiến sĩ đã cùng nhau trải qua. Hai bài thơ khác nhau về phong cách, hoàn cảnh sáng tác, và hoàn cảnh của những người lính, nhưng đều mô tả rất chân thực và thành công về hình ảnh anh bộ đội Cụ Hồ – những “Thạch Sanh của thế kỷ XX” (Tố Hữu).
So sánh phản chiếu về người lính trong 2 bài thơ - Mẫu 3
Đề tài về người lính luôn là một chủ đề mà nhiều nhà văn, nhà thơ khám phá, tìm hiểu qua nhiều tác phẩm độc đáo, hấp dẫn. Hình ảnh người lính dưới bút của mỗi tác giả luôn có những đặc điểm riêng, và Chính Hữu, Phạm Tiến Duật cũng làm phong phú chủ đề này qua hai tác phẩm tiêu biểu - bài thơ “Đồng chí” và “Bài thơ về tiểu đội xe không kính”. Hình ảnh người lính trong hai bài thơ này có những điểm tương đồng nhưng cũng có những khác biệt.
Đầu tiên, có thể thấy rằng, hình ảnh người lính trong hai bài thơ này có nhiều điểm chung trong phẩm chất, vẻ đẹp đáng quý. Người lính trong cả hai bài thơ đều là những người có ý chí mạnh mẽ, không sợ khó khăn, gian khổ và sẵn lòng vượt qua mọi thử thách bằng lòng kiên nhẫn, niềm tin và tinh thần lạc quan. Đọc bài thơ “Đồng chí” của Chính Hữu, chúng ta không thể quên những dòng thơ:
Anh với tôi biết từng cơn ớn lạnh
Sốt run người vầng trán ướt mồ hôi
Áo anh rách vai
Quần tôi có vài mảnh vá
Miệng cười buốt giá
Chân không giày.
Bằng những hình ảnh chân thực, rõ nét, Chính Hữu đã tạo ra một bức tranh toàn diện về những khó khăn, gian khổ, thiếu thốn mà người lính phải đối mặt trong cuộc chiến tranh. Những cơn sốt rét làm rung người, cảm giác thiếu thốn về vật chất - “áo rách vai”, “quần vài mảnh vá”, “chân không giày”. Tuy nhiên, những khó khăn, thiếu thốn đó không làm cho các người lính nao núng, họ vẫn vượt qua mọi thách thức với một nụ cười, hình ảnh “miệng cười buốt giá” đã cho thấy tinh thần lạc quan, ý chí, và sức mạnh trong họ. Không chỉ trong bài thơ “Đồng chí”, mà cả trong “Bài thơ về tiểu đội xe không kính” cũng đã phản ánh điều này:
Vắng kính vẫn phủ bụi đường
Bụi bay trắng tóc như mùa xuân già
Không cần rửa, thuốc bỏn châm thôi
Nhìn nhau mặt lấm cười tươi cười
Không có kính ướt đẫm áo
Mưa đổ, mưa bay như đêm dài
Chưa cần thay, lái xe hàng dặm nữa
Mưa ngừng, gió lùa mau khô thoái.
Trên con đường chiến trường, trên tuyến đường Trường Sơn với bao mưa bom, bão đạn và nguy hiểm, những người lính lái xe đã dũng cảm vượt qua mọi khó khăn. Những hình ảnh “bụi”, “mưa” không chỉ là tả thực mà còn là biểu tượng cho những khó khăn, vất vả mà họ phải đương đầu. Tuy nhiên, họ đã vượt qua mọi thử thách, thể hiện ý chí và niềm tin qua cách diễn đạt “không có...ướt áo” và các hình ảnh thực tế khác như “phì phèo châm thuốc”, “nhìn nhau mặt lấm cười”, “chưa cần thay lái hàng dặm nữa”,...
Ngoài ra, trong cả hai bài thơ, những người lính đều thể hiện tình đồng chí, đồng đội chặt chẽ, thân thiết. Trong “Đồng chí”, tình đồng đội được mô tả rất đẹp, thể hiện rõ trong toàn bộ bài thơ. Họ chia sẻ mọi nỗi niềm, đồng lòng đồng ý và cùng nhau vượt qua mọi khó khăn:
Quê hương anh vùng biển đầy chua
Làng tôi nghèo, đất mọc sỏi lên đá
Anh với tôi, hai kẻ xa lạ
Từ hai phương trời không hẹn gặp nhau.
Súng cạnh súng, đầu gối sát gối
Đêm lạnh chung chăn thành đôi bạn tri kỷ
Đồng chí!
Ruộng nương anh gửi bạn đồng cày
Nhà ở quên mặc gió đêm đày
Giếng nước gốc đa nhớ người ra lính.
Những người lính này, từ các vùng quê khác nhau, đáp ứng lời kêu gọi của Tổ quốc, cùng chung ý nghĩa, mục tiêu và trở thành đồng chí, đồng đội, sát cánh. Họ hiểu hết nhau, hiểu tình cảm, hiểu lí tưởng và tình yêu với quê hương, đất nước. Đồng thời, họ đã vượt qua mọi khó khăn, thiếu thốn và cả những bệnh tật trên chiến trường khắc nghiệt với thiên nhiên hoang dã, dữ dội và qua câu thơ “Thương nhau tay nắm lấy bàn tay” làm tỏa sáng tình đồng đội của họ.
Hình ảnh “tay nắm lấy bàn tay” là biểu tượng của tình đồng chí, đồng đội, là sự đoàn kết và sẵn sàng chiến đấu. Trong bài thơ “Bài thơ về tiểu đội xe không kính” của Phạm Tiến Duật, tình đồng chí, đồng đội được thể hiện rõ:
Xe vượt qua bom đạn rơi
Bên đường gặp bạn từng giây đi
Bắt tay qua kính vỡ, niềm vui trao ngay
Trên con đường gian nan ra trận, những người lính gặp nhau và trao đi cái bắt tay ý nghĩa qua những cửa kính vỡ vì bom đạn. Họ truyền nhau niềm tin và động lực để cùng nhau chiến đấu. Với họ, tình đồng đội là gia đình, là sự gắn bó, san sẻ mọi khó khăn.
Bếp trại giữa trời cao
Chung đũa nghĩa là gia đình thân thương.
Cả hai bài thơ đều tôn vinh tư thế sẵn sàng chiến đấu của người lính. Trong “Đồng chí” của Chính Hữu, tư thế này được thể hiện qua những dòng thơ:
Đứng kề bên nhau chờ kẻ thù tới
Trăng treo trên đầu súng
Dưới bóng đêm của núi rừng hoang sơ, khi sương muối bao phủ mọi thứ, những người lính vẫn ung dung, hiên ngang đứng “chờ kẻ thù tới”. Hình ảnh này thể hiện sự sẵn lòng và sự bất khuất của họ trước mọi khó khăn.
Tương tự, tư thế kiên cường của những người lính lái xe trong “Bài thơ về tiểu đội xe không kính” cũng được làm nổi bật:
Không có kính không chỉ vì xe không có kính
Bom giật bom rung kính vỡ tan
Ung dung buồng lái, ta nhìn thẳng
Nhìn đất, nhìn trời, mắt mở to
Thấy gió thổi mạnh vào xoa mắt cay
Thấy con đường trải thẳng ra trước
Thấy sao trời và cánh chim bao la
Như rằng, như ùa vào buồng lái
Trên con đường ra trận, giữa những cơn mưa bom, bão đạn, những chiếc xe vẫn tiếp tục tiến lên, không ngừng bước chân. Những người lái xe vẫn giữ vững tay lái, hiên ngang đối diện với mọi thử thách, sẵn lòng nỗ lực vượt qua.
Dường như, ta có thể thấy hình ảnh của người lính trong cả hai bài thơ đều có những đặc điểm chung, sự tương đồng đó chính là nét đẹp của phẩm chất và tâm hồn đáng trân trọng. Tuy nhiên, họ cũng có những điểm khác biệt. Sự khác biệt đó chủ yếu phản ánh ở hoàn cảnh xuất thân. Những người lính trong bài thơ “Đồng chí” là những người nông dân, đến từ các vùng quê khác nhau của đất nước, trong khi những người lính lái xe trong “Bài thơ về tiểu đội xe không kính” lại là những chàng trai thành thị, những thanh niên tri thức trẻ tuổi. Hơn nữa, hình ảnh của người lính trong bài thơ “Đồng chí” mang đậm nét mộc mạc, chân chất, bởi vì họ xuất thân từ giai cấp nông dân, trong khi những người lính trong “Bài thơ về tiểu đội xe không kính” lại hiện lên với sự trẻ trung, hồn nhiên, tinh nghịch, và táo bạo.
Có thể thấy, hình ảnh của người lính trong cả hai bài thơ đều có những điểm tương đồng nhưng cũng có những điểm khác biệt. Sự tương đồng chủ yếu là do cả hai nhà thơ đều mô tả hình ảnh của người lính với vẻ đẹp tự nhiên của họ trong hai cuộc chiến tranh của dân tộc. Tuy nhiên, sự khác biệt xuất phát chủ yếu từ đặc điểm của văn học - văn học là lĩnh vực của sự mới mẻ, sáng tạo, do đó không chấp nhận việc sao chép hoặc lặp lại. Đồng thời, sự khác biệt cũng phản ánh từ hoàn cảnh ra đời của hai tác phẩm. Bài thơ “Đồng chí” ra đời vào năm 1948, là giai đoạn đầu của cuộc chiến chống Pháp, trong khi “Bài thơ về tiểu đội xe không kính” được sáng tác vào năm 1969, thời điểm mà cuộc chiến chống Mỹ đang diễn ra một cách khốc liệt và tàn khốc nhất.
Tóm lại, hình tượng của người lính trong cả hai bài thơ có những điểm chung và khác biệt, nhưng cả hai bài thơ đều đóng góp vào việc làm phong phú và đặc biệt hơn cho chủ đề về người lính.
So sánh hình tượng của người lính trong 2 bài thơ - Mẫu 4
Thơ ca chính là phản ánh của cuộc sống. Và có lẽ vì vậy mà mỗi bài thơ đều kết nối cảm xúc của người đọc, người nghe với tâm hồn của thi sĩ. Đặc biệt, những bài thơ về người lính trong hai thời kỳ kháng chiến và chiến tranh chống Mỹ làm cho chúng ta yêu quý cuộc sống chiến đấu của dân tộc hơn. Tuy nhiên, hình ảnh của người lính trong mỗi thời kỳ lại có những điểm tương đồng và khác biệt, và vì vậy, mỗi bài thơ cũng vẽ nên hai hình ảnh người lính khác nhau, như trong bài thơ 'Đồng chí' của Chính Hữu và 'Bài thơ về tiểu đội xe không kính' của Phạm Tiến Duật.
Điều đầu tiên phân biệt họ là tình hình chiến đấu và nguồn gốc. Những bài thơ của 'Đồng chí' được Chính Hữu viết vào tháng 5 năm 1948. Đó là thời kỳ đầu tiên sau cuộc cách mạng tháng 8, khi quân Pháp trở lại xâm lược nước ta, khiến cuộc sống ở chiến khu vô cùng gian khổ. Đồng cảm với nỗi đau của dân tộc, những người nông dân nghèo khắp nơi trên đất nước bỏ lại ruộng đồng, 'bến nước gốc đa' để đáp ứng tiếng gọi cao cả của Tổ quốc.
'Quê hương là nơi biển mặn ruộng lúa còn gặp nhiều đất đá.'
Khác với Chính Hữu, Phạm Tiến Duật - một nhà thơ trẻ trong thời kỳ kháng chiến chống Mỹ vào tháng 5 năm 1969 - đã tạo ra 'Bài thơ về tiểu đội xe không kính'. Thời điểm này đánh dấu giai đoạn khốc liệt nhất của cuộc kháng chiến. Họ tham gia vào cuộc chiến khi còn trẻ trung. Những anh hùng 'vượt Trường Sơn để bảo vệ quê hương' không màng đến tương lai, bởi họ bị cuốn vào mặt trận vì ý thức 'yêu nước'.
Và do khác biệt về hoàn cảnh và nguồn gốc, các ý tưởng và ý thức chiến đấu cũng không giống nhau. Trong 'Đồng chí', nhận thức về cuộc chiến chỉ đơn giản, chưa sâu sắc. Họ chiến đấu để thoát khỏi ách thống trị tàn bạo của Pháp, để giành lại tự do và nhân quyền. Tình đồng chí đồng đội là điều quý giá nhất mà họ có được trong những ngày cầm súng.
'Súng kề súng, đầu chống đầu,
Đêm lạnh chung giường thành đôi tri kỉ.
Đồng chí!'
Trong thời kỳ chống Mỹ, ý thức về tình yêu nước, sự thống nhất dân tộc đã châm rồng sâu vào lòng mỗi người dân trong chiến khu. Họ nhận ra điều đó vì lúc này, miền Bắc đã bước vào cuộc xây dựng chế độ XHCN trong khi miền Nam vẫn phải đối mặt với sự xâm lược của Mỹ. 'Thống nhất' trở thành ưu tiên hàng đầu của dân tộc. Trong tim của người Việt Nam, những người lính Trường Sơn mang theo tinh thần lạc quan, quyết tâm giải phóng miền Nam cùng tình đồng chí đã hình thành từ thời kháng chiến.
'Xe chạy vì miền Nam trước mắt:
Chỉ cần trong lòng có một trái tim.'
Không đủ nếu so sánh hai bài thơ mà không nói về vẻ đẹp của chúng. 'Đồng chí' là biểu tượng của vẻ đẹp giản dị, mộc mạc nhưng sâu sắc. Tình đồng chí tự nhiên hiện hữu trong tinh thần yêu nước mạnh mẽ và sự chia sẻ giữa những người bạn. Còn 'bài thơ về tiểu đội xe không kính' là biểu tượng của sự trẻ trung, lạc quan, dũng cảm với tinh thần yêu nước rực rỡ trong lòng. Khát vọng và niềm tin được gửi trọn vào những chiếc xe không kính, là phương tiện dẫn dắt họ vượt qua dãy Trường Sơn vì miền Nam yêu dấu.
Tuy nhiên, dù ở bất kỳ thời kỳ nào, những người lính cũng mang theo nỗi nhớ về quê hương. Sống giữa chiến trường với tình đồng chí thiêng liêng, trái tim những người nông dân đau đớn mỗi khi nhớ về hình ảnh mẹ già, vợ con thơ. Họ cảm thấy cô đơn khi nghĩ về ruộng đồng bỏ hoang, gian nhà trống vắng.
'Ruộng cày anh để bạn bè đất nương,
Gian nhà trống vắng, gió thổi qua cành cây,
Giếng nước gốc đa, nhớ quê xa người lính.'
Người lính chống Mỹ khác biệt, nỗi nhớ của họ vẫn chiếm trọn trong suy tư về mái trường, làm mê muội những trang sách còn sáng ngời. Họ buồn vì phải gác lại những giấc mơ tươi đẹp trên con đường vun vén tương lai. Nhưng họ nhận ra trách nhiệm với quê hương vẫn hiện hữu, nên họ quyết tâm chiến đấu hết mình. Họ biến con đường ra chiến trận thành mái ấm chung, liên kết những trái tim vì tinh thần chống thù ngoại xâm làm một.
'Bếp hoàng giữa trời ta vẫn xây,
Chung đũa nghĩa là gia đình ơi!'
Bàn về nghệ thuật của hai bài thơ, ta không thể bỏ qua sự khác biệt rõ ràng. Chính Hữu viết với phong cách lãng mạn, tạo ra trong thơ mình biểu tượng của tình đồng chí: 'đầu súng trăng treo'. Cảm xúc trào dâng rồi lại dịu dàng trong lòng, biến thành hình ảnh của chiến đấu và hòa bình, tạo ra một bài thơ trữ tình và hấp dẫn. Ngược lại, Phạm Tiến Duật xây dựng hình ảnh người lính từ những gì thực tế nhất trong cuộc sống chiến đấu: 'xe không kính'. Hình ảnh này thực sự độc đáo, gợi cho người đọc nhiều cảm xúc vì tính sáng tạo và sự đơn giản nhưng vẫn đậm đà của 'bài thơ về tiểu đội xe không kính'.
Tuy khác biệt từ hoàn cảnh, xuất thân đến lý tưởng chiến đấu, họ vẫn có một mục tiêu chung duy nhất: chiến đấu vì hòa bình, độc lập, tự do của tổ quốc. Họ dựa vào quyết tâm, tinh thần để đi đến tương lai được xây dựng bởi tình đồng chí. Dù biết rằng trong cuộc chiến một sống một chết, đã có nhiều người hy sinh, nhưng đó lại là động lực lớn hơn cho ước mơ của những chiến binh bay xa, bay cao. Hình tượng người lính ở hai thời kỳ đều ghi chứa những phẩm chất cao đẹp của anh bộ đội cụ Hồ mà chúng ta cần phải trân trọng và yêu quý.
Nói tóm lại, người lính vẫn là biểu tượng sáng sủa và sống động nhất của chiến tranh, bất kể là thời phong kiến hay chống Mỹ. Họ hiện ra gần gũi và thân thương, với tình đồng đội ấm áp đã, đang và sẽ mãi mãi sống trong lòng. Họ như những cây xương rồng vững chãi, vươn lên giữa sa mạc bao la. Họ là ngọn đèn soi đường cho quê hương, đưa đất nước vươn xa về hòa bình và phát triển như ngày hôm nay.
So sánh tượng nhân vật lính trong 2 bài thơ - Mẫu 5
Cha trước con sau
Đã cùng nhau thành đồng chí, cùng chia sẻ quân hành
(Tác giả: Tố Hữu)
Trải qua ba mươi năm chiến tranh bảo vệ tổ quốc vĩ đại, dân tộc ta đã tạo nên những chiến công vĩ đại: đánh bại thực dân Pháp và đế quốc Mỹ. Có thể nói, nhân vật trung tâm của thời đại đã viết lên huyền thoại, đó là anh bộ đội Cụ Hồ. Hình ảnh anh bộ đội Cụ Hồ đã trở thành nguồn cảm hứng tươi đẹp trong thơ ca hiện đại. Trong số những bài thơ viết về đề tài này, Đồng chí của Chính Hữu và Bài thơ về tiểu đội xe không kính của Phạm Tiến Duật là hai tác phẩm đáng chú ý. Hai bài thơ này gắn liền với hai giai đoạn kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ, giúp chúng ta hiểu sâu hơn về hình ảnh người lính.
Chính Hữu sinh năm 1926. Năm 1946, ông nhập ngũ và gia nhập lính trung đoàn Thủ đô. Đầu năm 1948, bài thơ Đồng chí ra đời khi ông đang là chính trị viên đại đội. Phạm Tiến Duật sinh năm 1941, năm 1964 gia nhập quân đội, hoạt động trên tuyến đường Trường Sơn. Bài thơ về tiểu đội xe không kính sáng tác năm 1969. Hai nhà thơ thuộc hai thế hệ thi nhân nối tiếp nhau trong cuộc trường chinh của dân tộc. Hai tác phẩm mà chúng ta đề cập là hai trong những tác phẩm tiêu biểu của mỗi thời kỳ văn học. Hay sự thể hiện hình tượng anh bộ đội Cụ Hồ. Người lính trong hai bài thơ này là những hình ảnh đặc trưng của thơ Việt Nam từ năm 1945 đến 1975 sẽ luôn sống trong lòng người đọc.
Đọc Đồng chí, chúng ta đồng cảm rằng, người lính cách mạng trong cuộc kháng chiến chống Pháp thường xuất thân từ gia đình nông dân. Hình ảnh họ được Chính Hữu mô tả thực tế, đơn giản nhưng cao đẹp. Khác với xu hướng lãng mạn anh hùng của thơ ca đầu thời chiến tranh chống Pháp, cảm hứng trong Đồng chí của Chính Hữu hướng về sự thực tế của cuộc sống, khai thác vẻ đẹp và tính thơ trong cuộc chiến và cuộc sống của những người chiến sĩ. Vẻ đẹp trong khó khăn, thiếu thốn và đặc biệt là vẻ đẹp trong tình đồng chí, đồng đội, thân thiết, sâu sắc:
Quê hương anh nước mặn, tôi trang trải trên đất cày nổi sỏi
Thân tôi và anh, hai kẻ xa lạ
Gặp nhau tự nhiên như trời sinh, không hẹn mà gặp
Súng bên súng, đầu sát bên đầu
Giữ ấm nhau trong đêm rét, trở thành đôi tri kỉ
Đồng chí!
Bảy dòng đầu tiên của bài thơ đề cập đến tình đồng chí của người lính. Đó là do họ có cùng điều kiện sống khó khăn, xuất thân từ gia đình nông dân, cùng chung mục đích, lí tưởng và nhiệm vụ, chia sẻ những khó khăn (Súng bên súng, đầu sát bên đầu/ Giữ ấm cho nhau trong đêm rét, trở thành đôi tri kỉ...) Một từ “Đồng chí” khiến những người vốn xa lạ trở thành đôi tri kỉ và quan trọng hơn là trở thành đồng chí. Người xưa đánh giá tình bạn cao nhất là bằng tri kỉ. Chính Hữu nhận thấy ở anh bộ đội Cụ Hồ một tình cảm sâu sắc hơn, một tình đồng chí mạnh mẽ. Tình cảm này không chỉ đến từ sự cảm thông sâu sắc về tâm trạng, nỗi lòng của nhau mà còn là do sự chung chung lớn lao. Là những gian khổ, thiếu thốn của cuộc sống chiến đấu.
Tất cả không thể diễn đạt bằng lời, bao nhiêu lời thân thiết, trìu mến nhất cũng trở thành vô nghĩa, không thể chứa đựng được sức nặng cảm xúc giữa những người lính, những đồng đội. Vì thế, mặc dù có mười dòng trong đoạn thơ thứ hai, nhưng vẫn theo từng cặp để cuối cùng tổng hợp thành một hành động thay cho hàng vạn lời nói: “Nắm tay nhau với tình đồng chí”. Tình đồng chí giữa những người lính vệ quốc, theo Chính Hữu nói:
Anh và tôi, biết cảm nhận từng cơn lạnh buốt
Sự run rẩy, mồ hôi ướt nhẹ trên trán
Áo anh rách tả tơi
Quần tôi đâu đâu vắt vá
Cười lạnh giữa trời giá rét
Chân không giày...
Là tình cảm thừa hưởng từ thời cha ông thời chiến tranh chống Pháp ở giữa thế kỷ XIX, được kế thừa. Tình cảm của những người dân làng quê, những người dân mải mê làm việc cày cấy, làm ruộng, những việc mà họ đã quen thuộc - 'Tập khiên, tập súng, tập mác, tập cờ, chưa từng nhìn qua' (Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc - Nguyễn Đình Chiểu). Những người này không hề mang theo sự lãng mạn vào cuộc chiến, với tinh thần thiếu thốn. Nhưng cuộc chiến trên chiến hào bảo vệ Tổ quốc đã biến họ thành những anh hùng, trở nên lãng mạn. Bức tượng cuối cùng trong bài thơ là kết quả không thể tránh khỏi từ tình đồng chí:
Đêm nay rừng sương phủ muối
Đứng bên nhau chờ giặc đến
Đầu súng trời trăng chiếu
Đó là cuộc sống thực của những người lính nông dân nghèo khổ: nước mặn, đất cày lên sỏi đá, áo rách vai, quần rách vá, chân không giày... được tình yêu cách mạng cao đẹp tạo hình mới. Nếu Đồng chí là hình ảnh của anh lính nông dân không biết chữ thời kỳ đầu chiến tranh chống Pháp thì người lính trong Bài thơ về tiểu đội xe không kính lại là một biểu tượng khác. Họ là những thanh niên học sinh đã trải qua 20 năm học tập ở miền Bắc rồi đi chiến đấu, giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước.
Người chiến sĩ trong Bài thơ về tiểu đội xe không kính không giống như đã nói ở trên, mặc dù vẫn có đến từ mọi nơi, với sự trong trắng, hồn nhiên, vô tư. Họ, những chiến sĩ lái xe, những chiếc xe chứa trong đó nhiều quả bom: họ đã tập hợp lại thành tiểu đội: Không có kính, không có đèn, không có nắp, vì: 'Bom nổ, kính vỡ đi'. Vì vậy họ phải đối mặt với nhiều khó khăn: gió, bụi, mưa nhưng:
Xe vẫn chạy vì Miền Nam phía trước
Chỉ cần có một trái tim trong xe
Tình đồng chí, đồng đội trong bài thơ của Phạm Tiến Duật được gọi chung là chúng ta, ta. Tất cả đều là đồng chí: trẻ, khỏe mạnh, dũng cảm đối mặt với nguy hiểm.
Không có kính không phải vì xe không có kính
Bom nổ kính vỡ đi rồi.
Nhưng:
Ung dung buồng lái ta ngồi
Nhìn xuống đất, ngước lên trời... thẳng thắn
Bụi rơi rụng tóc trắng... cười vui vẻ
Mưa tuôn... trôi mau
Gặp bạn bè... kính vỡ rồi
Họ không cần phải biết nhiều, không cần phải chia sẻ cùng nhau mọi trải nghiệm, từ trong những quả bom rơi xuống... họ tụ hợp thành tiểu đội. Nếu hình ảnh của người lính trong bài Đồng chí là một bức tượng đài: Đứng cạnh bên nhau chờ đợi kẻ thù... Đầu súng dựng lên dưới ánh trăng thì người lính trong thơ Phạm Tiến Duật lại là sự kết hợp của những gương mặt trai trẻ, trong trẻo.
Cả hai tác phẩm Đồng chí của Chính Hữu và Bài thơ về tiểu đội xe không kính của Phạm Tiến Duật là những điểm nhấn quan trọng trong việc so sánh hình tượng người lính - anh bộ đội Cụ Hồ mà thơ ca đã vẽ nên trong suốt 30 năm chiến đấu gian khổ cho đến khi chiến thắng hoàn toàn vào năm 1975.
So sánh hình tượng người lính trong 2 bài thơ - Mẫu 6
Trong cuộc chiến chống lại kẻ thù ngoại xâm để bảo vệ chủ quyền, độc lập cho dân tộc, hình ảnh của những người chiến sĩ - người lính luôn là một biểu tượng cao quý, thiêng liêng và đẹp đẽ trong lòng mọi người. Vì vậy, đề tài về người lính đã được thể hiện qua các tác phẩm văn học dưới sự truyền cảm hứng của sự ngưỡng mộ. Điều này được thể hiện rõ trong hai tác phẩm “Đồng chí” của Chính Hữu và “Bài thơ về tiểu đội xe không kính” của Phạm Tiến Duật.
“Đồng chí” của Chính Hữu là một trong những tác phẩm xuất sắc và ra đời sớm nhất trong giai đoạn kháng chiến chống Pháp. Viết năm 1948, sau khi tác giả Chính Hữu tham gia chiến dịch thu đông 1947 ở Việt Bắc, tác phẩm này đã mô tả một cách sinh động, chân thực tình đồng chí sâu sắc của các chiến sĩ. Thông qua lời thơ gần gũi, tác giả đã giải thích cơ sở hình thành tình đồng chí thông qua hoàn cảnh và lí tưởng chiến đấu:
“Quê hương anh nước mặn, đồng chua
Làng tôi nghèo đất cày lên sỏi đá
Anh với tôi đôi người xa lạ
Tự phương trời chẳng hẹn quen nhau.
Súng bên súng, đầu sát bên đầu
Đêm rét chung chăn thành đôi tri kỷ
Đồng chí!”
Trong cuộc kháng chiến toàn dân, toàn diện, người nông dân sẵn lòng từ bỏ mọi thứ quen thuộc để theo đuổi lời kêu gọi cao cả của Tổ quốc, tự nguyện mặc áo lính, đứng về hàng ngũ và trở thành những người lính cùng đồng đội. Tác giả đã thành công trong việc sử dụng các thành ngữ dân gian để miêu tả, nhấn mạnh sự tương đồng về cảnh ngộ và hoàn cảnh xuất thân của họ. Điều này là cơ sở để tạo ra sự đồng cảm đối với tầng lớp và xây dựng nền tảng vững chắc cho tình đồng chí, tình đoàn kết. Nếu trước đây, họ là những người xa lạ “Tự phương trời chẳng hẹn quen nhau”, thì bây giờ, họ gặp nhau bởi sự đồng lòng về lý tưởng bảo vệ dân tộc. Qua những khó khăn, gian khổ của cuộc chiến, những người nông dân ban đầu xa lạ bỗng trở thành “tri kỉ” - những người bạn thân thiết qua sự thấu hiểu, đồng cảm và chia sẻ. Chính những yếu tố đó đã tạo ra tinh thần vượt qua mọi khó khăn bằng tinh thần đồng lòng chung sức chung khổ:
“Súng bên súng đầu sát bên đầu
Đêm rét chung chăn thành đôi tri kỉ”
Dù đến từ những nơi xa lạ, họ gặp nhau ở điểm chung về trái tim yêu nước và lý tưởng chiến đấu, bảo vệ dân tộc. Nếu hình ảnh “Súng bên súng” thể hiện sự tương đồng về lý tưởng, nhiệm vụ chiến đấu, thì cụm từ “đầu sát bên đầu” mang ý nghĩa tượng trưng sâu sắc mô tả quyết tâm đánh đuổi thực dân Pháp của những người nông dân mặc áo lính. Đó là những điểm tựa tinh thần hỗ trợ tinh thần đồng đội, củng cố tình cảm “tri kỉ” của người lính trong những năm tháng chiến tranh. Bức chân dung của người lính được vẽ ra thông qua sự kết hợp giữa hiện thực và lãng mạn thông qua hình ảnh “Đầu súng trăng treo” độc đáo.
Trong những đêm hành quân giữa không gian “rừng hoang sương muối”, những người lính nắm chặt súng với tư thế quyết đoán, kiêng chịu, vầng trăng như ánh sáng thấp lấp lánh trên đỉnh súng. Nếu “súng” biểu hiện cho sự tàn bạo của chiến tranh, thì “trăng” là biểu tượng của hòa bình và tình yêu lãng mạn. Vì thế, “đầu súng trăng treo” đã tạo ra những cảm nhận độc đáo về chiến tranh và hòa bình, kết hợp hiện thực với lãng mạn, làm nổi bật vẻ đẹp của những tâm hồn lính lẻn trong ngõ hẹp. Như vậy, qua bài thơ “Đồng chí”, tác giả Chính Hữu đã tôn vinh tình đồng chí, đồng đội chặt chẽ giữa những người lính cách mạng, vẽ nên một bức chân dung giản dị, chân thực về anh bộ đội Cụ Hồ.
Nếu “Đồng chí” ra đời trong giai đoạn kháng chiến chống Pháp, thì “Bài thơ về tiểu đội xe không kính” xuất hiện vào năm 1969 - thời điểm cuộc chiến chống Mỹ của dân tộc Việt Nam diễn ra gay gắt. Trong tác phẩm này, vẻ đẹp của người lính được nhà thơ Phạm Tiến Duật tái hiện thông qua sự phản chiếu, kết hợp giữa hình ảnh những chiếc xe không kính và người lính lái xe trên con đường Trường Sơn. Bằng ngôn từ tự nhiên, tinh nghịch và ngôn ngữ đời thường, ông đã đưa hình ảnh độc đáo của những chiếc xe không kính vào diễn đàn văn học Việt Nam:
“Không có kính không phải vì xe không có kính
Bom giật, bom rung kính vỡ đi rồi”
Bằng cách sử dụng từ “không” và ngôn từ thường ngày, tác giả tái hiện một cách chân thực hình ảnh những chiếc xe không kính - biểu tượng cho sự tàn phá dữ dội của bom đạn kẻ thù, đồng thời gợi lên sự nguy hiểm, gian khổ trên đường ra mặt trận. Trong tình hình đó, hình ảnh người lính hiện ra với tư thế tự tin:
“Bình tĩnh buồng lái ta ngồi,
Nhìn đất, nhìn trời, nhìn thẳng”
Tác giả đã áp dụng kỹ thuật đảo từ, đặt từ “bình tĩnh” lên đầu câu thơ để nhấn mạnh sự điềm tĩnh, tự tin trước những vụ nổ bom đạn. Từ “nhìn” được lặp lại ba lần tạo nên âm điệu lặp lại, diễn đạt cái nhìn sâu lắng, tự tin trước cảnh vật rộng lớn của người lái xe lính. Qua cửa kính, họ bình tĩnh đối mặt với sự khắc nghiệt, tàn khốc của cuộc chiến: “gió vào xoa mắt đắng”, “sao sáng”, “chim” như “xâm chiếm”, “khẩn cấp” vào buồng lái. Họ chấp nhận gian khổ bằng tinh thần phớt lờ, vượt qua mọi nguy hiểm:
“Không có kính, ừ thì có bụi,
Bụi phủ tóc trắng như người già
Chưa cần rửa, buồng lái đầy khói thuốc
Nhìn nhau mặt lấm cười ha ha.
Không có kính, ừ thì áo ướt
Mưa to, mưa xối như ngoài trời
Chưa cần thay, lái hàng trăm cây số nữa
Mưa tạnh, gió dừng khô nhanh thôi.”
Điệp cấu trúc câu “Không có… ừ thì” kết hợp với việc sử dụng kết cấu phủ định “Chưa có” đã làm nổi bật tinh thần lạc quan, sự ngang tàn, dũng cảm của người lính trước mọi khó khăn, gian khổ. Đồng thời, bài thơ còn khắc họa vẻ đẹp của tình đồng chí, đồng đội của những người lính lái xe: “Gặp bè bạn suốt dọc đường đi tới - Bắt tay qua cửa kính vỡ rồi”. Hình ảnh chân thực đã gợi ra sự đồng cảm, sẻ chia sâu sắc giữa những người lính. Tình cảm gắn bó giữa họ được tạo nên bởi điểm chung về lí tưởng, mục đích chiến đấu:
“Xe vẫn chạy vì miền Nam phía trước:
Chỉ cần trong xe có một trái tim”
Cách nói hình ảnh “vì miền Nam phía trước” đã thể hiện niềm tin, tinh thần lạc quan của người lính về sự chiến thắng của nhân dân ta trong công cuộc giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước. Đồng thời, hình ảnh hoán dụ “một trái tim” đã làm nổi bật “trái tim cầm lái” luôn rực cháy ngọn lửa yêu nước và tinh thần chiến đấu bất khuất, kiên cường của người lính. Như vậy, qua hai tác phẩm, chúng ta có thể thấy được vẻ đẹp chung của những người lính về lí tưởng chiến đấu, ý chí quyết tâm giải phóng dân tộc cùng tinh thần dũng cảm, yêu nước mãnh liệt, đồng thời, họ đều sử dụng sức mạnh của tình đồng chí, đồng đội để vượt qua những năm tháng chiến tranh khốc liệt.Tuy nhiên, trong mỗi một thi phẩm, vẻ đẹp người lính lại được khám phá ở một phương diện riêng.
Ở bài thơ “Đồng chí”, tác giả Chính Hữu khắc họa vẻ đẹp của người nông dân mặc áo lính thông qua sự mộc mạc, chân chất và sự quyện hòa giữa chất hiện thực - lãng mạn; còn trong tác phẩm “Bài thơ về tiểu đội xe không kính”, Phạm Tiến Duật đem đến bức chân dung người chiến sĩ lái xe trẻ trung, sôi nổi, ngang tàn qua cái nhìn đậm chất hiện thực về cuộc chiến tranh kháng chiến chống Mĩ của dân tộc.
Qua những gì đã phân tích, chúng ta có thể khẳng định rằng “Đồng chí” và “Bài thơ về tiểu đội xe không kính” đều khám phá, tái hiện và xây dựng thành công bức chân dung của những người lính với những vẻ đẹp, phẩm chất đáng quý, đáng trân trọng.
....
Phân tích vẻ đẹp của người lính qua hai bài thơ Đồng chí và Bài thơ về tiểu đội xe không kính
Đoàn giải phóng quân một lần ra đi.
Nào có sá chi đâu ngày trở về.
Ra đi ra đi bảo tồn sông núi.
Ra đi ra đi thà chết cho vinh.
Khúc hát quen thuộc từ xa chợt vọng lại gợi trong lòng chúng ta biết bao suy tưởng. Chúng ta như được sống lại một thời hào hùng của dân tộc theo tiếng hát sôi nổi trẻ trung và cũng bình dị như cuộc đời người lính. Không biết đã có bao nhiêu bài thơ nói về họ – những chàng Thạch Sanh của thế kỉ hai mươi. Tiêu biểu cho hai thời kì chống Pháp và chống Mĩ là hai bài thơ: “Đồng chí” của Chính Hữu và “Tiểu đội xe không kính” của Phạm Tiến Duật.
Người lính trong bài thơ “Đồng chí” xuất thân từ những cảnh ngộ nghèo khó: “nước mặn đồng chua”, “đất cày lên sỏi đá”. Họ là những người nông dân vừa được cách mạng giải phóng khỏi kiếp nô lệ lầm than. Bởi vậy, tình nguyện ra nhập bộ đội cầm lấy khẩu súng của cách mạng cũng chính là cầm vũ khí để giải phóng triệt để cho thân phận của mình, cho quần chúng và cho cả dân tộc. Vì tiếng gọi thiêng liêng của Tổ quốc mà họ “mặc kệ” tất cả, sẵn sàng từ biệt làng quê với ruộng nương, nhà cửa vốn hết sức thân thiết, gắn bó để ra đi, dấn thân vào cuộc đời người chiến sĩ:
Ruộng cày anh gửi bạn thân ruộng
Gian nhà không nao núng gió lung lay
Còn người lính trong thơ Phạm Tiến Duật là những chàng trai còn rất trẻ, có kiến thức, họ sẵn lòng gác lại những ước mơ tương lai để hiến dâng tuổi trẻ theo tiếng gọi thiêng liêng của miền Nam yêu dấu:
“Xẻ dọc Trường Sơn đi giải phóng đất nước.
Mà lòng vẫn hân hoan, nung nấu tương lai”.
Thời kỳ ban đầu của cuộc kháng chiến chống Pháp rất gian khổ và khó khăn, những người lính đã phải chịu đựng những cơn sốt run cả người, trán ướt mồ hôi, với những chiếc áo rách vai, quần có mấy miếng vá, chân không đôi giày... Nhưng chính từ trong những ngày khó khăn và thiếu thốn đó, tình đồng chí đã nảy sinh trong họ! Và nhờ có tình đồng chí, đồng đội gắn bó mật thiết, chia sẻ mọi khó khăn, họ có đủ sức mạnh để vượt qua mọi khó khăn: “thương nhau tay nắm chặt bàn tay”. Điều đẹp đẽ ấy nảy sinh giữa đêm rừng hoang sương mù, nơi mà cái sống và cái chết chỉ cách nhau một bước, những người lính vẫn ôm súng canh gác quân thù dưới ánh trăng sáng. Họ vẫn chiến đấu và vẫn tin rằng sẽ có một ngày chiến thắng. Chúng ta thấy ở họ một tinh thần chiến đấu dũng cảm và niềm tin không bao giờ phai nhạt. Đời lính có gian khổ nhưng vẫn giữ mãi nụ cười dù cho cái chết cũng gần kề. “Đầu súng trăng treo”, một biểu tượng đẹp của hình ảnh người lính, biểu tượng cao quý của tình đồng chí đã ăn sâu vào lòng mọi người.
Nhà thơ Quang Dũng trong bài thơ Tây Tiến cũng đã làm cho chúng ta thấy điều đó rõ ràng:
'Tây Tiến quân đội không mọc tóc,
Quân xanh màu lá dữ dằn hung hăng.
Mắt trừng gửi mộng qua biên giới,
Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm.”
Chính điều đó đã giúp chúng ta hiểu được sự quyết tâm của người lính và chúng ta càng phục sự hi sinh đó hơn. Tấm lòng của các anh thật cao đẹp và lớn lao biết chừng nào! Đó cũng là hình ảnh chung của những người lính trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp – những con người giản dị nhưng cũng thật dũng cảm, kiêu hãnh.
Cuộc kháng chiến chống Pháp đã giành được chiến thắng vẻ vang với trận Điện Biên Phủ hào hùng. Đất nước vẫn chưa được yên bình, cả Miền Nam lại bị cuốn vào cuộc chiến lửa và những người con của quê hương tiếp tục ra đi. Những anh chiến sĩ lái xe trên tuyến đường Trường Sơn trong trang thơ của Phạm Tiến Duật là những anh lính thật trẻ trung, yêu đời, dũng cảm, hóm hỉnh. Mỗi giây, mỗi phút, các anh phải đối mặt với nhiều khó khăn và sự dữ dội, ác liệt của bom đạn quân thù rơi xuống con đường và nhằm vào những chiếc xe của họ. Những gian khổ và sự ác liệt hiện ra trong hình ảnh những chiếc xe không kính, không đèn, không mui, thùng xe có xước, méo mó. Sự gian khổ tưởng như không thể vượt qua, cái chết như đang chờ đợi, nhưng mỗi lúc các anh vẫn “ung dung buồng lái ta ngồi. Nhìn đất nhìn trời nhìn thẳng”.
Mở đường Trường Sơn để xe tăng tiến vào phía Nam thực hiện chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử là giai đoạn gay go nhất, ác liệt nhất và cũng hào hùng nhất. Có lẽ chỉ có những chàng trai trẻ tuổi ngạo nghễ và kiêu hãnh kia mới có đủ sức thực hiện nhiệm vụ thiêng liêng và cao cả này. Những chiếc xe tưởng chừng như không thể sử dụng được vẫn tiến lên phía trước vì có những nụ cười rất kiêu hãnh, rất nghịch ngợm của những anh lái xe rất bướng bỉnh:
“Không có kính, ừ thì có bụi.
Bụi phun tóc trắng như người già.
Chưa cần rửa, phì phèo châm điếu thuốc.
Nhìn nhau mặt lấm cười ha ha…”
Bằng sự đồng cảm của một lính và cảm xúc của một nhà thơ, Phạm Tiến Duật đã tạo ra hình ảnh những chiến sĩ lái xe hùng hồn, tinh nghịch. Cử chỉ: “phì phèo châm điếu thuốc” và tiếng cười “ha ha” như lời thách thức của họ đối với quân thù. Đó là sức mạnh đầu tiên, còn sức mạnh gì khác khiến cho những chiếc xe ấy vẫn tiến lên phía trước? Tác giả đã trả lời mạnh mẽ và dứt khoát, trong những chiếc xe không kính có những trái tim yêu nước, luôn hướng về Miền Nam phía trước với khát vọng cháy bỏng là giải phóng Miền Nam, thống nhất đất nước:
“Xe vẫn chạy vì Miền Nam phía trước
Chỉ cần trong xe có một trái tim”
Qua hình ảnh anh chiến sĩ Trường Sơn, ta nhận ra sự gần gũi, thân quen giữa những lính qua các thời kỳ. Từ bộ đội cụ Hồ thời kháng chiến chống Pháp trong thơ Chính Hữu đến chiến sĩ Trường Sơn thời chống Mĩ trong thơ Phạm Tiến Duật đều có chung một nét đẹp truyền thống kiên cường, bất khuất, dũng cảm và đầy tinh thần lạc quan yêu đời. Với điều kiện thuận lợi hơn, lính thời chống Mĩ đã được trau dồi, huấn luyện. Các anh đã kế thừa và phát huy được tinh thần cách mạng vốn đã vững chắc và nay lại càng vững chắc hơn.
– Mặc dù cùng khai thác chất liệu thơ từ đời sống thực với những chi tiết thật đến trần trụi của cuộc sống lính nhưng hai bài thơ còn khác nhau bởi bút pháp và giọng điệu riêng của mỗi tác giả và cảm hứng nổi bật ở mỗi bài. Cảm hứng của Chính Hữu hướng vào vẻ đẹp của tình đồng chí, đồng đội của lính, còn Phạm Tiến Duật thì tập trung làm nổi bật chủ nghĩa anh hùng, tinh thần dũng cảm, bất chấp mọi khó khăn và bom đạn kẻ thù của người lái xe.
Nhìn lại những chặng đường lịch sử đã qua, đọc lại hai bài thơ về người lính qua hai thời kỳ, trong ta bỗng dấy lên niềm xúc động lẫn tự hào. Hình ảnh những lính ấy trở nên bất tử và đẹp rực rỡ. Dù lớp bụi thời gian có phủ đầy những trang sách và những đổi mới của cuộc sống làm biến chuyển đi tất cả, nhưng hình ảnh những anh lính cụ Hồ, anh giải phóng quân đến các chiến sĩ Trường Sơn vẫn sống mãi trong lòng mọi người với một niềm cảm xúc trào dâng mạnh mẽ.
Vẻ đẹp hình tượng người lính qua bài thơ Đồng chí và Bài thơ về tiểu đội xe không kính
Đối tượng phản ánh của văn học Cách mạng 1945 -1975 chính là tổ quốc, là chiến sĩ lính, là nhân dân anh hùng. Hình ảnh người lính trong hai bài thơ “Đồng chí” của Chính Hữu và “Bài thơ về tiểu đội xe không kính” của Phạm Tiến Duật là hình tượng đẹp, đã làm sâu sắc bức tranh người lính Cụ Hồ với những phẩm chất anh hùng, đáng được khen ngợi.
Đề tài về người lính là đề tài truyền thống trong văn học, thể hiện vẻ đẹp mạnh mẽ, anh hùng của những con người mang trách nhiệm bảo vệ đất nước, non sông.
Đồng chí được viết đầu mùa xuân 1948, sau chiến thắng Việt Bắc thu đông 1947. Với phong cách hiện thực và lãng mạn, bài thơ đã vẽ nên hình ảnh người lính với những phẩm chất tốt lành, ghi lại dấu ấn những năm tháng gian khổ trong thời kỳ đầu kháng chiến:
Họ là những chiến sĩ xuất thân từ ruộng đồng và rừng núi. Rất nhanh chóng, họ gắn bó với nhau bởi mục tiêu, lý tưởng chung:
“Quê hương anh nước mặn, đồng chua
Làng tôi nghèo đất cày lên sỏi đá
Anh với tôi đôi người xa lạ
Tự phương trời chẳng hẹn quen nhau”.
Vì lòng yêu nước cao cả và khao khát cuộc sống an bình, tự do, họ sẵn sàng hy sinh vì nguyên tác cao cả, bỏ lại những điều quan trọng nhất và thân thương nhất tại quê hương:
“Ruộng nương anh gửi bạn thân cày
Gian nhà không màng đến gió thổi lung lay”
Cuộc sống giữa rừng sâu với nước độc, họ sẵn lòng cùng nhau chịu đựng, chia sẻ mọi khó khăn, thiếu thốn của cuộc sống của người lính:
“Áo rách vai anh vẫn mặc
Quần tôi đâu đó vài mảnh vá
Mặc kệ giá lạnh vẫn tươi cười
Chân không đôi giày đi qua đêm”
Trong cơn khó khăn, họ đã xây dựng tình đồng chí đồng đội sâu sắc: chia sẻ, thông cảm với nhau; liên kết đoàn kết:
“Yêu thương nhau, tay nắm chặt bàn tay!
Đêm nay rừng hoang sương ẩm đọng
Đứng cạnh nhau, chờ đợi kẻ thù tới”
Không chỉ vậy, dù cuộc sống có gian khổ đến đâu, kẻ thù có cố gắng đến đâu, họ vẫn luôn hướng về ánh sáng, hướng về điều đẹp đẽ: “Đầu súng dựa vào ánh trăng”.
Bài thơ Đồng chí đã tái hiện lại một thời khắc gian khổ của người cha, làm sống lại cuộc chiến khốc liệt. Bài thơ đánh thức lại những kỷ niệm đẹp, những tình cảm sâu nặng mà chỉ những người từng là chiến sĩ mới hiểu và cảm nhận hết được.
Với nhiều hình ảnh chọn lọc, từ ngữ sâu sắc và gần gũi, với biện pháp ngôn từ đối ngữ được sử dụng một cách tài tình, Chính Hữu đã sáng tạo ra một bài thơ với những từ ngữ tinh tế, giản dị nhưng vẫn đầy uy lực. Bài thơ đã tôn vinh tình đồng chí với sự trang nghiêm, như là một ngọn lửa vẫn cháy mãi, không ngừng, ngọn lửa soi sáng bóng tối của cuộc chiến tranh.
Xuất hiện trong bối cảnh cuộc chiến chống Mỹ khốc liệt, Bài thơ về tiểu đội xe không kính đã tái hiện lại một cách tự nhiên, chân thực cuộc sống chiến đấu gian khổ nhưng phơi phới niềm tin của những chiến sĩ lái xe trên con đường Trường Sơn.
Mặc dù chiến tranh khốc liệt, nhưng người lái xe vẫn giữ vững tư thế thẳng thắn, tự tin:
“Ung dung ngồi trên buồng lái,
Nhìn xuống đất, nhìn ngắm trời, nhìn thẳng”
Xe không có kính làm cho cảnh vật trước mắt họ sống động hơn bao giờ hết:
“Thấy gió thổi vào như rót mắt đắng
Nhìn thấy con đường chạy thẳng vào tận trái tim
Thấy sao trời và bất ngờ làn chim
Như thể, như ùa vào buồng lái”
Thái độ không quan tâm đến khó khăn, nguy hiểm, họ tràn đầy tinh thần lạc quan:
Trong lốc xoáy, tình đồng chí
Sắt son gắn bó, kiên cường bền vững
Chung nỗi buồn, vui cười phôi pha
Một lòng một dạ, mãi đồng đội.
Tình đồng đội ở đó, chắc chắn, thân thiết, không gì xóa được. Họ cùng nhau trải qua mọi khó khăn, mọi gian nan:
Từ vùng đất bom đạn trở về
Đoàn kết lại thành một đội nhỏ
Gặp nhau trên đường, tương thân tương ái
Qua cửa kính vỡ, bắt tay chào nhau.
Bếp lửa ấm áp giữa trời xanh
Chia sẻ bữa cơm, là gia đình
Tinh thần yêu nước, quyết tâm chiến đấu vẫn hiện diện ở họ, vì miền Nam yêu dấu. Họ sẵn sàng ra đi khi miền Nam cần, không thể ngăn cản được ý chí của họ:
Vòm cây rung rinh, đường phố hiên ngang
Bước đi, bước đi dưới bầu trời thêm xanh.
Không kính, đèn vắng bóng, xe đồn đẹp,
Thùng xe trầy xước, vẫn tiến về miền Nam:
Một trái tim, cõi lòng, xe vẫn mạnh mẽ.”
Tình đồng đội, đồng chí trở thành lực lượng vững mạnh,
Giúp những chiến sĩ vượt qua thử thách, nguy hiểm, bảo vệ Tổ quốc yêu dấu.
Người lính thời đại Hồ Chí Minh, kết hợp truyền thống hiện đại,
Hiện thân chủ nghĩa anh hùng, là biểu tượng thế kỷ.”
Hai bài thơ miêu tả chân thực, sinh động hình ảnh người lính:
Từ bản năng mộc mạc, chân chất của người làng nơi cánh đồng,
Đến cuộc sống lạc quan, năng động, ngang tàng của người lái xe.
Điều này tạo nên nét đặc biệt về hình tượng,
Ghi dấu ấn sâu trong lòng độc giả.”
Tài năng, trải nghiệm, tình cảm với cuộc sống quân đội,
Chính Hữu và Phạm Tiến Duật thể hiện trong cảm hứng ngợi khen người lính.
Ngày nay, dù khác biệt về hoàn cảnh, thời gian,
Hai bài thơ vẫn nhấn mạnh phẩm chất cao quý của người lính Hồ Chí Minh:
Dũng cảm, ý chí, lòng yêu đời,
Sẵn sàng hy sinh vì nhiệm vụ bảo vệ tổ quốc.”
Hình ảnh người lính trong hai bài thơ thể hiện vẻ đẹp của con người Việt Nam trong thời đại cách mạng: giản dị nhưng lấp lánh tinh thần yêu nước. Điều này làm cho người đọc tự hào, cảm phục và biết ơn sâu sắc đối với những người đã hy sinh tất cả vì độc lập tự do của quê hương.
So sánh hình ảnh người lính cách mạng trong hai bài thơ Đồng chí và Bài thơ về tiểu đội xe không kính.
Là những nhà thơ quân đội trưởng thành trong những cuộc chiến tranh bảo vệ Tổ quốc, Chính Hữu và Phạm Tiến Duật đã sống và trải nghiệm cuộc sống của người lính trên chiến trường. Bằng cảm xúc sâu lắng, họ đã viết ra những vần thơ đầy cảm hứng về người lính, góp phần tôn vinh hình ảnh anh hùng của họ.
Bài thơ Đồng chí của Chính Hữu ra đời năm 1948, thời điểm kháng chiến chống Pháp mới bắt đầu, khi đất nước vẫn còn non trẻ. Người lính trong bài thơ là những người nông dân nghèo khó, họ đến với cuộc chiến từ làng quê yêu dấu, với sự kiên trì và dũng cảm.
Quê hương ta, nơi sóng biển gặp cánh đồng
Làng quê tôi, với đất cát, đá lạnh lẽo
Bài thơ về tiểu đội xe không kính của Phạm Tiến Duật ra đời vào năm 1969, thời điểm cuộc chiến chống Mĩ cứu nước đang đạt đến cao trào. Những người lính trong thời kỳ này đều rất trẻ. Họ vừa mới ra khỏi trường, tâm hồn còn ngập tràn tuổi trẻ. Đó chính là những con người:
Dọc theo con đường Trường Sơn đi chiến đấu với Mỹ
Với niềm tin sáng lập tương lai'.
Tình huống và điều kiện khác nhau như vậy đã dẫn đến nhận thức khác biệt về cách mạng của những người lính trong hai bài thơ. Nhận thức về cuộc chiến của những người lính chống Pháp còn đơn giản, chưa sâu sắc như thời kỳ kháng chiến chống Mỹ. Trong 'Đồng chí', tình cảm quan trọng nhất là tình đồng chí, đồng đội. Trong 'Bài thơ về tiểu đội xe không kính' mới thấy sự xuất hiện của ý chí, tinh thần yêu nước:
'Xe vẫn tiếp tục chạy vì miền Nam phía trước
Chỉ cần trong lòng có một trái tim'
Sống giữa chiến trường với tình đồng đội sâu sắc, người lính chống Pháp nhớ về gia đình với mẹ già, vợ con. Người lính chống Mỹ lại có góc nhìn khác. Họ nhận thức rằng cuộc chiến này vẫn còn dai dẳng và khắc nghiệt. Vì thế, chiếc xe hàng cùng con đường ra mặt trận trở thành mái nhà chung và đồng đội trở thành gia đình thứ hai:
'Bếp Hoàng Cầm ta xây giữa không gian
Chung bữa ăn nghĩa là một gia đình'.
Điểm khác biệt cơ bản giữa hai tác phẩm là phong cách thơ của hai tác giả. Chính Hữu sử dụng phong cách hiện thực - lãng mạn để miêu tả những người lính thời đầu của cuộc kháng chiến, đầy khó khăn và thiếu thốn:
'Áo anh rách vai Quần tôi có vài mảnh vá
Miệng cười buốt giá Chân không giày'
Tình cảm lãng mạn được thể hiện qua sự gắn kết trong tình đồng chí: 'Đồng chí!' cùng những hình ảnh thơ mộng như 'đầu súng trăng treo'. Trong bài thơ 'Bài thơ về tiểu đội xe không kính', phong cách thơ lãng mạn - hiện thực được áp dụng. Khó khăn và thiếu thốn không được giấu diếm:
'Thiếu kính, xe lại không đèn sáng
Thùng xe xước xát vẫn tiến phía Nam'.
Tuy nhiên, trên hết, vẫn là tính ngang tàng, tinh nghịch của những người lính trẻ, lạc quan yêu đời:
'Bình tĩnh ngồi trong buồng lái
Nhìn xuống đất, nhìn lên trời, nhìn thẳng'
'ừ, cảm nhận gió bụi'
'ừ, cảm nhận áo ướt',...
Có thể nói, trong 'Đồng chí' của Chính Hữu, nhà thơ đã tạo ra hình ảnh người lính với tình đồng đội sâu sắc, chia sẻ những gian khổ, khó khăn của cuộc sống chiến đấu đầy khó khăn, thiếu thốn. Trong bài thơ 'Bài thơ về tiểu đội xe không kính' của Phạm Tiến Duật, tuổi trẻ tràn đầy năng lượng, yêu đời, đam mê, và đầy ước mơ, lý tưởng của những người lính chống Mĩ được mô tả.
Mặc dù có những khác biệt do bối cảnh lịch sử nhưng những người lính trong hai bài thơ vẫn mang những đặc điểm chung đáng quý của người lính quân đội nhân dân. Đó là tấm lòng yêu nước, tình đồng chí, đồng đội.
Với tiếng gọi của quê hương, họ đã bỏ lại phía sau những 'bến nước gốc đa', những con phố, ngôi nhà và cả những người thân yêu nhất. Trong hoàn cảnh chiến đấu khắc nghiệt, thiếu thốn, tinh thần chiến đấu của họ lại bùng lên mạnh mẽ, sôi động. Họ không sợ nguy hiểm, khó khăn, vẫn kiên định cầm súng để bảo vệ tổ quốc, đất nước:
'Súng gần súng, đầu gần đầu'
'Xe vẫn tiếp tục tiến về phía Nam
Chỉ cần trong xe vẫn còn trái tim'.
Họ cùng đoàn kết bên nhau, bên cạnh những người đồng đội để dũng cảm chiến đấu. Nếu trong 'Đồng chí' là:
Thắm tay nhau chặt lấy bàn tay
Trong Bài thơ về tiểu đội xe không kính, hình ảnh ấy đã trở nên quen thuộc:
Chạm tay qua cửa kính vỡ tan
Dù gặp thiếu thốn và khó khăn, họ vẫn chấp nhận, vẫn sống lạc quan, yêu đời hơn. Bắt tay đó chứa đựng tình đồng đội thiêng liêng, truyền niềm tin chiến thắng, tình yêu và lòng dũng cảm đó. Sống và chết, trong lòng mỗi người lính không có khái niệm ấy.
Dù có những điểm giống và khác biệt rõ ràng nhưng điều đó khiến người lính cụ Hồ hiện lên qua nhiều màu sắc, sinh động và gần gũi. Điều này giúp người đọc hiểu rõ hơn về họ. Họ là biểu tượng, là niềm tin, là khát vọng của nhân dân. Trong đó, người đọc thấy một ánh sáng lí tưởng cao đẹp và thiêng liêng. Những nét khác biệt còn thể hiện phong cách riêng của mỗi tác giả.
So sánh hình ảnh người lính trong Đồng chí và Bài thơ về tiểu đội xe không kính
Về đề tài: Dân tộc ta đã tham gia hai cuộc chiến tranh cách mạng quyết liệt chống Pháp và Mỹ. Hình ảnh 'Bộ đội Cụ Hồ' là hình ảnh đẹp nhất, đáng yêu nhất trong văn thơ và là niềm tự hào của dân tộc.
Về tác phẩm: Bài thơ Đồng chí được sáng tác vào đầu năm 1948 khi tác giả Chính Hữu tham gia chiến dịch Việt Bắc, Bài thơ về tiểu đội xe không kính được sáng tác năm 1969 khi tác giả Phạm Tiến Duật tham gia hoạt động ở tuyến đường Trường Sơn, thành công trong việc khắc họa về người lính.
Về luận đề: Hình ảnh anh bộ đội trong hai bài thơ đã lưu lại trong văn chương Việt Nam hai nét đẹp, đáng yêu của người lính trong hai giai đoạn lịch sử.
Phân tích lịch sử
Những điểm chung: Đây là những người lính của nhân dân nên họ cùng mang những nét đẹp chung:
- Yêu nước, yêu quê hương, yêu đồng chí.
- Có thể phân tích các câu thơ 'Giếng nước gốc đa nhớ người ra lính' (Đồng chí) và 'Xe vẫn chạy vì miền Nam phía trước' (Bài thơ về tiểu đội xe không kính).
- Có thể phân tích cử chỉ nắm tay chứa đựng bao tình cảm không lời trong cả hai bài thơ thể hiện sự gắn bó tình đồng chí.
- Vượt qua mọi khó khăn, gian khổ để quyết tâm tiêu diệt giặc hoàn thành nhiệm vụ:
- Tất cả những khó khăn, gian khổ, thử thách được tái hiện bằng những chi tiết chân thật, không tránh né trong cả hai bài thơ.
- Thế mà, các chiến sĩ đều có một tư thế ngoan cường 'chờ giặc tới', 'ung dung nhìn thẳng'.
- Lạc quan tin tưởng: Cả hai bài thơ đều thể hiện tinh thần lạc quan của người lính. Từ 'miệng cười buốt giá' của anh bộ đội kháng chiến chống Pháp đến 'nhìn nhau mặt lấm cười ha ha' của anh lính lái xe thời chống Mĩ đều thể hiện tinh thần lạc quan, khí phách anh hùng.
Những điểm riêng khác nhau:
Bài thơ Đồng chí của Chính Hữu thể hiện hình ảnh người lính nông dân thời đầu kháng chiến chống Pháp với vẻ đẹp giản dị, mộc mạc và sâu sắc. Tình đồng chí thiêng liêng kết hợp với tình cảm giao tiếp khi lí tưởng chiến đấu đã rực sáng trong lòng.
Súng bên súng, đầu sát bên đầu
Đêm rét chung chăn thành đôi tri kỉ
Đồng chí!
Bài thơ về tiểu đội xe không kính của Phạm Tiến Duật thể hiện hình ảnh người lính lái xe trong cuộc kháng chiến chống Mĩ với vẻ đẹp trẻ trung, ngang tàng. Đây là thế hệ những người lính trẻ có văn hóa, có tài năng chiến đấu, có tâm hồn nhạy cảm, và có tính cách riêng biệt mang đậm nét 'lính' đáng yêu. Tất cả họ đều vì miền Nam ruột thịt, với trái tim cháy bỏng yêu nước.
Xe vẫn chạy vì miền Nam phía trước
Chỉ cần trong xe có một trái tim.
Đánh giá tổng quan:
Hình ảnh của người lính, dù ở thời kỳ kháng chiến chống Pháp hay chống Mĩ, đều mang đậm phẩm chất cao đẹp của 'anh bộ đội Cụ Hồ' thời đại, đã cung cấp cho các nhà thơ những nguyên mẫu đẹp đẽ, từ đó tạo ra những hình ảnh sâu sắc, gợi cảm xúc trong lòng người đọc. Khi viết về những người lính, các nhà thơ cũng nói về chính bản thân mình và những đồng đội của mình. Do đó, hình ảnh của người lính trở nên chân thực và sống động.
....