So sánh mong ước của Thanh Hải trong Mùa Xuân nho nhỏ và ước nguyện của Viễn Phương trong Viếng lăng Bác gồm 6 mẫu hay nhất, giúp học sinh có thêm nhiều ý tưởng, viết bài văn tốt hơn.
Thông qua 2 bài thơ Viếng lăng Bác và Mùa xuân nho nhỏ, chúng ta thấy rõ mong ước chân thành, tha thiết được hòa nhập, được cống hiến cho cuộc sống. Hãy cùng theo dõi bài viết dưới đây của Mytour để có thêm nhiều kiến thức, ngày càng tiến bộ trong môn Văn 9:
Dàn ý so sánh mong ước của Thanh Hải và Viễn Phương
I. Mở đầu: giới thiệu tổng quan về 2 nhà văn và 2 tác phẩm
Mỗi người đều có những ước mơ riêng, từ những điều bình dị đến những khát vọng lớn lao, khi ta vượt lên cái tôi để hòa mình vào cộng đồng. Trước vẻ đẹp tươi mới của mùa xuân tại Huế, Thanh Hải thể hiện mong ước dâng hiến mùa xuân của mình cho đất nước thông qua bài thơ Mùa Xuân nho nhỏ. Viễn Phương cũng thể hiện sự kính trọng, xúc động khi đến viếng lăng Bác qua bài thơ Viếng lăng Bác.
II. Nội dung chính:
- Phần thơ 4,5 của Mùa xuân nho nhỏ: mùa xuân làm con người trở nên ấm áp và đầy hy vọng, dù ở tuổi già và gặp bệnh tật, Thanh Hải vẫn thể hiện niềm tin của mình:
Chim hót vang khắp nơi,
Hoa nở khắp muôn ngả,
Ta hòa mình vào dòng,
Làn gió khe khẽ hát.
- Tinh thần “ta sẽ” kết hợp với nhịp thơ dồn dập, mô tả khát vọng mãnh liệt trong lòng nhà thơ. Đó là ước muốn góp phần nhỏ bé để tô điểm cho mùa xuân quê hương.
Ước nguyện trở thành chim hót, mang âm nhạc cho cuộc sống thêm phần phồn thịnh, một cành hoa tươi thắm để rực rỡ dưới ánh nắng mặt trời, một nốt nhạc ấm áp tạo nên bản ca đầy cảm xúc. Những ước nguyện đó không phải quá lớn lao, không ồn ào, thể hiện tinh thần khiêm nhường và mong muốn dâng hiến mình một cách im lặng. Tiếng chim đó, bông hoa ấy, giai điệu ấy đều là biểu hiện của tấm lòng để tôn vinh mùa xuân thống nhất của quê hương, tôn vinh vẻ đẹp bình yên của Huế, ngày càng phát triển mạnh mẽ.
Một mùa xuân nho nhỏ
Dành tặng cho cuộc sống
Dù là tuổi hai mươi
Dù là khi tóc bạc.
- Thái độ tích cực, lạc quan của một nhà thơ đã góp phần lớn cho văn học Việt Nam và cho cuộc kháng chiến vẫn được thể hiện qua sự hiến dâng im lặng của mình. Dù đã bước vào tuổi già, nhưng vẫn muốn đóng góp sức lực của mình.
- Tâm trạng “dù là” là lời nhắc nhở bản thân phải luôn cố gắng đối mặt với tuổi già, với bệnh tật. Đối với nhà thơ, không chỉ tuổi trẻ mới có nghĩa vụ đóng góp cho xã hội mà đó cũng là trách nhiệm của mọi người.
- Hình ảnh thơ gần gũi, mộc mạc, giọng thơ nhẹ nhàng, ngọt ngào như lời thì thầm của chính nhà thơ. Ước nguyện đó không chỉ là để tôn vinh bản thân mà còn là để tôn vinh cuộc sống.
Khổ thơ cuối của bài Viếng lăng Bác
Mai trở về miền Nam, lòng tràn nước mắt
Muốn hóa thành chim hót quanh lăng
Muốn trở thành bông hoa tỏa hương khắp nơi
Muốn làm cây tre canh giữ hiếu kính ở đây.
- Dù đang đứng trước hình bóng của người lãnh tụ, Viễn Phương vẫn lo lắng khi ngày mai phải rời xa. Tình cảm thành kính và lòng trìu mến vô tận dành cho người lãnh tụ đã khiến nhà thơ khóc “lòng tràn nước mắt”, thể hiện qua những câu thơ giản dị nhưng chân thành.
- Tinh thần “muốn làm” nhấn mạnh khát vọng được biến thành thực tại để ở bên cạnh Người. Viễn Phương muốn trở thành con chim để hót chào bình minh trước lăng và mang tiếng hát đến cho Bác ngủ yên bình, muốn làm bông hoa trước lăng khoe sắc, muốn trở thành cây tre canh giữ sự thiêng liêng. Hình ảnh cây tre Việt Nam được lặp lại phần đầu thêm vào phẩm chất trung hiếu để hoàn thiện tính cách của người Việt Nam: kiên cường, bất khuất, trung hiếu.
- Viễn Phương sử dụng ngôn ngữ đơn giản nhưng giàu cảm xúc, tinh tế và khéo léo trong việc chọn lựa hình ảnh để diễn đạt lòng thành kính của mình khi đứng trước lăng Bác. Bài thơ truyền đạt cho người đọc tình yêu và tôn kính với người lãnh tụ vĩ đại của dân tộc và thái độ sống biết ơn và trung hiếu với đất nước.
* So sánh:
- Điểm tương đồng:
- Cả hai đoạn thơ đều thể hiện ước nguyện chân thành, tha thiết được hoà nhập, cống hiến cho cuộc đời, cho đất nước, nhân dân… Ước nguyện khiêm nhường, bình dị muốn được góp phần dù nhỏ bé vào cuộc đời chung.
- Cả hai nhà thơ đều sử dụng những hình ảnh đẹp của thiên nhiên làm biểu tượng để diễn đạt ước nguyện của mình.
- Khác biệt:
- Thanh Hải viết về chủ đề thiên nhiên đất nước và mong muốn hòa mình, dâng hiến cho cuộc sống.
- Viễn Phương viết về chủ đề lãnh tụ, thể hiện sự xúc động thiêng liêng, lòng thành kính sâu sắc khi người miền Nam mới được giải phóng ra được viếng lăng Bác Hồ.
III. Tổng kết: Mặc dù ngày Viễn Phương viếng lăng Bác đã cách xa, còn Thanh Hải không thể nhìn thấy mùa xuân quê hương nữa. Nhưng mỗi nhà thơ đều để lại những dòng thơ ấm áp, đong đầy về tình người, tình yêu sâu đậm với quê hương, xứ sở.
Phân tích điểm Tương đồng và Khác biệt về ước mơ của Thanh Hải và Viễn Phương qua hai bài thơ Mùa xuân nho nhỏ và Viếng Lăng Bác
- Khác biệt:
- Thanh Hải viết về chủ đề thiên nhiên đất nước và mong ước hòa nhập, dâng hiến cho cuộc sống.
- Viễn Phương viết về chủ đề lãnh tụ, thể hiện sự xúc động thiêng liêng, tấm lòng thành kính sâu sắc khi tác giả từ miền Nam vừa được giải phóng ra viếng Bác Hồ.
- Tương đồng:
- Cả hai đoạn thơ đều thể hiện ước nguyện chân thành, tha thiết được hoà nhập, cống hiến cho cuộc đời, cho đất nước, nhân dân... Ước nguyện khiêm nhường, bình dị muốn được góp phần dù nhỏ bé vào cuộc đời chung.
- Cả hai nhà thơ đều sử dụng hình ảnh đẹp của thiên nhiên làm biểu tượng thể hiện ước nguyện của mình.
So sánh ước nguyện của Thanh Hải và Viễn Phương
Giống nhau:
Cả hai nhà thơ đều có ước nguyện xuất phát từ lòng chân thành, muốn góp phần nhỏ bé vào cuộc sống chung, từ trái tim chan chứa tình yêu đất nước và nhân dân.
Khác nhau:
- Tác phẩm Mùa xuân nho nhỏ của Thanh Hải:
- Thanh Hải viết về đề tài thiên nhiên đất nước nên ước nguyện của ông mang tính xã hội, đất nước
- Ước nguyện của ông là muốn dành cả cuộc đời và sức lực để cống hiến cho đất nước.
- Tác phẩm Viếng Lăng Bác của Viễn Phương:
- Viễn Phương viết về đề tài lãnh tụ và ước nguyện của ông dành riêng cho Bác và cũng như thay mặt cho nhân dân.
- Ước nguyện của ông là hoá thân thành những thứ xung quanh lăng Bác để mãi bên Bác, không bao giờ rời xa.
So sánh ước nguyện của Thanh Hải và Viễn Phương - Mẫu 1
Chúng ta đều biết rằng có nhiều nhà văn, nhà thơ đã viết về ước nguyện cống hiến cho cuộc đời. Tuy nhiên, có lẽ chưa ai viết một cách chân thành, ấm áp như trong bốn khổ thơ của “Viếng lăng Bác” của nhà thơ Viễn Phương:
“Mai về miền Nam, lòng trào nước mắt
Muốn làm con chim hót quanh lăng Bác
Muốn làm đóa hoa thơm phức khắp nơi
Muốn làm cây tre trung hiếu đây này.'
Và khổ bốn và năm trong bài thơ “Mùa xuân nho nhỏ” của thi sĩ Thanh Hải:
“Ta làm con chim hót vang
Ta làm một cành hoa thắm
Ta góp mình vào dòng nhạc êm
Một nốt trầm xao xuyến.”
Một mùa xuân nho nhỏ
Yên bình dâng hiến cuộc đời
Dù tuổi đã ghi sổ
Dẫu tóc đã bạc trắng. ”
Dựa trên hai tác phẩm trên, chúng ta suy nghĩ gì về ước nguyện cống hiến của các tác giả? Trong khổ thơ đầu tiên của bài “Viếng lăng Bác” của Viễn Phương, ông bắt đầu bằng: “Mai về miền Nam thương trào nước mắt'.
Nếu ở khổ thơ thứ nhất nói về hình ảnh hàng tre xanh quen thuộc của làng quê Việt Nam, ở khổ thơ thứ hai nói về hình ảnh mặt trời cùng dòng người đi vào lăng viếng Bác thể hiện niềm tôn kính của nhà thơ và của mọi người đối với Bác, ở khổ thơ thứ ba thì nói về tâm trạng và sự xúc động khi ở trong lăng Bác, thì đến khổ thơ thứ tư này, nhà thơ đã bộc lộ rõ nét nhất về tình cảm của mình khi phải rời xa lăng Bác để trở về với những công việc của mình. Qua cụm từ “thương trào nước mắt”, tác giả dường như khóc rất nhiều khi phải nói lời chia tay với Bác và sau đó nhà thơ đã nêu:
“Mai về miền Nam, lòng trào nước mắt
Muốn làm con chim hót quanh lăng Bác
Muốn làm đóa hoa tỏa hương đâu đây
Muốn làm cây tre trung hiếu chốn này'
Điệp ngữ “muốn làm” kết hợp với nghệ thuật liệt kê, những chi tiết gợi tả “con chim, đóa hoa, cây tre” với nhịp thơ dồn dập đã nói lên ước nguyện của nhà thơ Viễn Phương muốn hóa thân vào cảnh vật quanh lăng Bác. Tác giả muốn làm con chim hót ru Bác ngủ, muốn làm đóa hoa tỏa hương bát ngát, muốn làm cây tre canh giữ giấc ngủ bình yên cho Người. Kết cấu đầu, cuối tương ứng thật độc đáo và khéo léo, bài thơ mở ra hình ảnh hàng tre xanh quen thuộc của Việt Nam và kết lại bằng hình ảnh “‘cây tre trung hiếu”. Nếu hàng tre là đại diện cho dân tộc Việt Nam thì cây tre trung hiếu đại diện cho nhà thơ. Tác giả muốn làm một công dân trung với nước, hiếu với dân, nhiệm vụ nào cũng hoàn thành, khó khăn nào cũng vượt qua, kẻ thù nào cũng đánh bại. Và tác giả muốn đi theo con đường cách mạng làm theo lời Bác. Đó cũng là ước nguyện của toàn nhân dân ta. Sang đến khổ thơ thứ hai, bốn, năm trong bài “Mùa xuân nho nhỏ” của thi sĩ Thanh Hải, ông đã viết:
“Ta làm con chim hót
Ta làm một cành hoa
Ta nhập vào hòa ca
Một nốt trầm xao xuyến.
Một mùa xuân nhỏ bé
Yên bình dâng cho cuộc sống
Dù là tuổi hai mươi
Dù là khi tóc bạc.”
Nếu ở khổ một là bức tranh thiên nhiên của mùa xuân ở Huế, ở khổ hai và ba là mùa xuân của đất nước thì đến đây là ước nguyện cống hiến của nhà thơ:
“Ta sẽ làm con chim hót
Ta sẽ tạo nên một cành hoa
Ta sẽ hòa mình vào giai điệu ca hát
Một nốt trầm xao xuyến.'
Với những dòng thơ như tâm tình, thủ thỉ, kết hợp với điệp ngữ “ta làm” đã thể hiện được ước nguyện của nhà thơ. Dù lặp lại hai hình ảnh “con chim, cành hoa” ở khổ một để tạo kết cấu chặt chẽ trong bài thơ nhưng ở khổ một lại là hình ảnh của thiên nhiên thì ở đây được nâng lên là hai hình ảnh ẩn dụ nói lên ước nguyện của nhà thơ. Nếu con chim mang tiếng hát cho đời thêm vui, cành hoa tỏa hương sắc làm đẹp cho đời thì nhà thơ cũng nguyện đem những gì tốt đẹp nhất cho đời. Tác giả còn muốn làm “một nốt trầm xao xuyến”. “Nốt trầm” là nốt thấp trong một bản nhạc nhưng sự hiện diện của nó góp phần làm tăng bậc cao của những nốt còn lại, tạo sự luyến láy làm cho bản đại hòa tấu thêm rộn ràng, tươi vui. Nếu ở khổ đầu tác giả sử dụng đại từ “tôi” nghĩa là chỉ mình ông cảm nhận vẻ đẹp của mùa xuân thiên nhiên thì đến đây ông dùng đại từ “ta” vừa chỉ số ít, vừa chỉ số nhiều nghĩa là không phải chỉ ước nguyện của riêng nhà thơ mà là của toàn dân Việt Nam. Sự hài hòa giữa “tôi” và “ta”, sự gắn bó giữa cái chung và cái riêng.
Và sang khổ thơ thứ năm, nhà thơ lại tiếp tục nói về ước nguyện cống hiến của mình:
'Một mùa xuân nhỏ bé
Lặng lẽ dâng cho cuộc sống
Dù là tuổi hai mươi
Dù là khi tóc bạc.”
Nhiều nhà thơ sử dụng nhiều định ngữ mùa xuân: mùa xuân xanh, mùa xuân chín, xuân lòng…Nhưng “mùa xuân nhỏ bé” là một hình ảnh ẩn dụ, sáng tạo độc đáo, một phát hiện mới của Thanh Hải. Nếu mùa xuân mang đến những thay đổi kì diệu cho đất nước thì nhà thơ cũng nguyện làm mùa xuân sống đẹp, sống với tất cả nhựa sống đang có để góp vào mùa xuân lớn của dân tộc, của cuộc đời chung. Từ “lặng lẽ” kết hợp với “dâng” gợi lên sự âm thầm không phô trương, nói lên một thái độ cống hiến, một cách cống hiến rất riêng Thanh Hải. Điệp ngữ “dù là” kết hợp hai hình ảnh hoán dụ “tuổi hai mươi” và “tóc bạc” đã thể hiện được ước nguyện cống hiến của nhà thơ dù đó là tuổi trẻ đầy thanh xuân hay dù cho đã luống tuổi.
Qua phần phân tích trên, ta cảm nhận ở hai thi phẩm có những nét chung về nội dung và nghệ thuật. Xét về cơ bản, cả hai tác phẩm đều thể hiện ước nguyện sống và cống hiến cao đẹp, mang lại cho đời những gì tốt đẹp nhất và đặc biệt ở hai tác giả, ta thấy những cảm xúc đó đều xuất phát từ tình cảm chân thành yêu cuộc sống, yêu đất nước dạt dào. Còn về mặt nghệ thuật, cả hai bài thơ đều mượn những hình ảnh thiên nhiên tuyệt đẹp và giàu ý nghĩa.
Tóm lại, hai thi phẩm, hai tác giả nhưng chung một suy nghĩ, chung một ước nguyện. Những điều đó thật đáng cho chúng ta – những thế hệ sau này – trân trọng. Riêng bản thân tôi vẫn còn ngồi trên ghế nhà trường nhưng sẽ luôn nuôi dưỡng trong lòng mình những đức tính tốt, trui rèn đạo đức, kiến thức để mai sau có thể xây dựng đất nước ngày càng phồn vinh, vững mạnh.
So sánh ước nguyện của Thanh Hải và Viễn Phương - Mẫu 2
Trong văn học hiện đại, đã có nhiều nhà văn, nhà thơ thể hiện mong muốn cống hiến tuổi thanh xuân của mình cho đất nước qua các tác phẩm. Trong số đó, khổ bốn bài thơ “Viếng Lăng Bác” của Viễn Phương và khổ bốn, năm bài thơ “Mùa xuân nho nhỏ” của Thanh Hải đã thể hiện mong muốn ấy một cách độc đáo, sâu sắc nhất. Vậy ta có suy nghĩ gì về ước nguyện cống hiến của hai nhà thơ trong các đoạn thơ ấy?
Ở “Viếng lăng Bác, nếu khổ một miêu tả hàng tre bên lăng Bác, khổ hai miêu tả mặt trời và đoàn người đến viếng lăng Bác, khổ ba miêu tả cảnh Bác nằm trong giấc ngủ bình yên thì khổ bốn thể hiện ước nguyện của tác giả qua việc miêu tả cảnh vật xung quanh lăng:
“Muốn làm con chim hót quanh lăng Bác
Muốn làm đóa hoa toả hương đâu đây
Muốn làm cây tre trung hiếu chốn này. ”
Bằng việc liệt kê các hình ảnh chọn lọc “con chim”, “đoá hoa”, “cây tre”, điệp ngữ “Muốn làm” và nhịp thơ nhanh, đoạn thơ đã thể hiện ước nguyện cống hiến của tác giả. Đây là những hình ảnh ẩn dụ đẹp thể hiện ước nguyện của nhà thơ muốn làm “con chim” đem lại niềm vui cho Bác, làm “đoá hoa” điểm tô cho lăng Bác và làm “cây tre” hoà nhập vào hàng tre bát ngát trước lăng Bác. Ở đây ta thấy có sự kết cấu đầu đuôi tương ứng: bài thơ mở ra bằng hình ảnh “hàng tre” và kết thúc bằng hình ảnh “cây tre trung hiếu”. “Cây tre trung hiếu” thể hiện mong muốn của tác giả được “trung với nước, hiếu với dân” như lời Bác dạy. Đây cũng là lời hứa của tác giả trước anh linh của Bác, hứa sẽ luôn giữ phẩm chất, cốt cách người Việt Nam, hứa sẽ sống như Bác và đi tiếp con đường cách mạng của Bác. Tác giả nói lên ước muốn của mình, hay phải chăng đã nói hộ ước muốn của tất cả chúng ta?
Còn ở bài “Mùa xuân nho nhỏ”, nếu khổ một miêu tả cảm xúc của nhà thơ về mùa xuân thiên nhiên xứ Huế, khổ hai, ba nói về cảm xúc của nhà thơ trước mùa xuân của đất nước thì ở khổ bốn, tác giả đã nói lên ước nguyện chân thành:
“Ta hóa thành con chim hót
Ta làm một cành hoa
Ta góp mình vào hoà ca
Một nốt trầm xao xuyến.”
Với giọng thơ dịu dàng, đầy tình cảm, các hình ảnh như “con chim”, “cành hoa”, “nốt trầm” và điệp ngữ “ta làm”, khổ thơ trên đã thể hiện ước nguyện cống hiến của Thanh Hải. Nhà thơ muốn trở thành “con chim” để mang lại niềm vui, niềm hạnh phúc cho mọi người, muốn làm “cành hoa” để đem lại những điều tốt đẹp nhất cho cuộc đời, muốn góp mình vào “hoà ca” của cuộc sống chung. Dù chỉ là một “nốt trầm” nhỏ bé nhưng lại góp phần quan trọng làm cho bản hoà ca trở nên du dương, làm xao xuyến lòng người. Tất cả đều thể hiện rằng tác giả muốn sống đẹp, muốn cống hiến những điều tốt đẹp nhất dù là nhỏ bé, sống với tất cả sức mạnh của mình như con chim hót hay cành hoa toả hương sắc cho đời. Chuyển từ ngôi nhân xưng “tôi” sang “ta” cũng thể hiện ước nguyện không chỉ riêng của tác giả mà của mọi người.
Một mùa xuân nhỏ bé
Lặng lẽ dâng tặng đời
Dù là tuổi hai mươi
Dù là khi tóc bạc.
Từ từ “nhỏ bé” và điệp ngữ “lặng lẽ” đã thể hiện sự khiêm tốn của tác giả. Động từ “dâng tặng” nói lên thái độ tự nguyện, chân thành cống hiến cho đất nước suốt cuộc đời. Không chỉ thế, các hình ảnh hoán dụ “tuổi hai mươi” và “khi tóc bạc” nói lên rằng dù trẻ hay già, mọi người đều có thể cống hiến cho cuộc sống. Điệp ngữ “dù là” như muốn thách thức thời gian, tuổi già và bệnh tật. Biết rằng tác giả đã sáng tác bài thơ này khi đang gặp phải bệnh tật, nhưng vẫn thể hiện thái độ lạc quan, khát vọng; ta cảm thấy tác giả thật đáng quý, đáng khâm phục.
Nhận thức trên đã cho thấy ở các đoạn thơ có sự tương đồng về nội dung và nghệ thuật. Về nội dung, cả hai đoạn thơ đều thể hiện ước nguyện sống đẹp, sống cống hiến của tác giả và của mọi người. Hơn nữa, cả hai đều xuất phát từ những cảm xúc chân thành nhất của các tác giả và tình yêu của họ đối với cuộc sống, đất nước với vị lãnh tụ kính yêu. Về mặt nghệ thuật, cả hai tác giả đều sử dụng những hình ảnh mộc mạc, giản dị trong thiên nhiên và nâng chúng lên thành những khát vọng cống hiến cao đẹp. Không chỉ thế, cả hai đoạn thơ còn sử dụng những hình ảnh ẩn dụ, hoán dụ mới mẻ, sáng tạo độc đáo, làm chúng trở nên thật lôi cuốn, gây nhiều cảm xúc cho người đọc.
Tuy nhiên, hai đoạn thơ cũng có sự khác biệt về nội dung và nghệ thuật. Về nội dung, sự khác biệt đó chủ yếu là nguồn cảm hứng và hoàn cảnh sáng tác. Thanh Hải đã viết “Mùa xuân nho nhỏ” trong lúc lâm bệnh, biết rằng cuộc sống của ông không còn lâu nhưng vẫn muốn đóng góp cho đời. Trong khi đó, “Viếng lăng Bác” của Viễn Phương được viết sau chuyến thăm lăng Bác ở Hà Nội, thể hiện cảm xúc và suy tư của ông sau hành trình đó. Về mặt nghệ thuật, 'Mùa xuân nho nhỏ' được viết theo thể thơ năm chữ, giọng thơ nhẹ nhàng, tình cảm, thể hiện chân thành của tác giả, trong khi “Viếng lăng Bác” được viết theo thể thơ tám chữ, giọng thơ trang trọng, thành kính, nhịp thơ dồn dập gây ấn tượng sâu sắc về Bác Hồ cho người đọc.
Với tất cả những điểm tương đồng và khác biệt đó, mỗi đoạn thơ mang một âm hưởng, một phong cách riêng, mang lại cái hay, cái độc đáo của từng bài thơ, làm cho ta cảm động trước ước nguyện cống hiến của tác giả và lối sống đẹp, trách nhiệm của họ, cũng như của người Việt Nam. Như Tố Hữu đã viết:
“Nếu là con chim, chiếc lá
Thì con chim phải hót, chiếc lá phải xanh
Lẽ nào vay mà không trả
Sống là cho đâu chỉ nhận riêng mình”
Là một học sinh, sau khi hiểu được những đoạn thơ trên, tôi sẽ cố gắng rèn luyện cho mình lối sống đẹp và trách nhiệm, cống hiến những điều tốt đẹp nhất của mình cho quê hương, đất nước.
So sánh ước nguyện của Thanh Hải và Viễn Phương - Mẫu 3
Chúng ta sống trong một xã hội với thiên nhiên và con người, liệu chúng ta có biết trân trọng cả hai không? Thanh Hải cảm nhận mùa xuân của thiên nhiên và mùa xuân của mỗi con người trong mùa xuân to lớn của đất nước. Ông mong muốn dâng hiến 'mùa xuân nho nhỏ' của mình vào cuộc sống lớn lao của tất cả chúng ta, và chúng ta cũng cảm nhận được sự thiêng liêng, lòng biết ơn và tự hào kết hợp với nỗi đau trong lòng khi Viễn Phương viếng lăng Bác, được thể hiện qua giọng điệu của nhà thơ vừa tha thiết vừa trang trọng trong cả hai bài thơ về ước nguyện của họ.
Không phải tình cờ mà nhà thơ Thanh Hải chọn mùa xuân là nguồn cảm hứng. Mùa xuân của thiên nhiên và của đất nước thường gợi lên trong mỗi con người niềm hy vọng và khao khát. Đối với Thanh Hải, đây là thời điểm ông nhìn lại cuộc đời và chia sẻ tâm tư của một người cách mạng, một nhà thơ trung thành với quê hương và đất nước, với khát vọng chân thành và tha thiết:
'Ta làm con chim hót,
Ta làm một cành hoa.
Ta nhập vào hoà ca,
Một nốt trầm xao xuyến'
Nhịp thơ dồn dập và điệp từ 'ta làm' là cách tốt nhất để diễn tả khát vọng cống hiến của nhà thơ. Đó là mong muốn sống hoà nhập vào cuộc sống của đất nước, đóng góp phần tốt đẹp, dù nhỏ bé, cho cuộc sống chung, cho đất nước. Tâm tư này được thể hiện một cách chân thành qua những hình ảnh tự nhiên sâu sắc, gây xúc động sâu sắc trong lòng người đọc. Ước nguyện làm một tiếng chim, một cành hoa để đóng góp vào vườn hoa muôn hương, rộn rã tiếng chim, để mang lại hương sắc, tô điểm cho mùa xuân thêm tươi đẹp. Nhà thơ nguyện cầu được trở thành một “nốt trầm xao xuyến” không ồn ào, không cao quý mà chỉ âm thầm, lặng lẽ để “hòa” vào khúc hát, tiếng hò vui mừng đón mùa xuân. Được tô điểm cho mùa xuân, góp phần tạo nên mùa xuân là tác giả đã nguyện hy sinh, nguyện cống hiến cho sự phồn thịnh của đất nước. Đó là một ước mơ khiêm tốn, chân thành, gần gũi, và đáng yêu! Hình ảnh tự nhiên, chân thành, giọng thơ nhẹ nhàng, êm đềm, ngọt ngào của những thanh bằng liên tiếp kết hợp với cách cấu trúc lặp lại như vậy đã đem lại ý nghĩa mới nhấn mạnh về mong muốn sống có ích, cống hiến cho đất nước như một lẽ tự nhiên. Điệp từ “ta” như một lời khẳng định, như một tiếng lòng, như một lời tâm sự nhỏ nhẹ, chân thành. Ước nguyện đó đã trở thành một lẽ sống cao đẹp, không chỉ cho riêng nhà thơ mà cho tất cả mọi người, cho thời đại của chúng ta. Đó chính là lẽ sống cống hiến cho cuộc sống, lặng lẽ, khiêm tốn, không kể gì đến tuổi tác:
Một mùa xuân nho nhỏ
Lặng lẽ dâng cho đời
Dù là tuổi hai mươi
Dù là khi tóc bạc.
Thái độ “lặng lẽ dâng cho cuộc sống” thể hiện ý nguyện khiêm tốn nhưng kiên trì và đáng quý, vì đó là những điều tốt đẹp nhất trong cuộc sống. Rất cảm động khi thấy ước nguyện của nhà thơ dù đã trải qua tuổi thanh xuân, vẫn được làm một mùa xuân nhỏ trong mùa xuân lớn ấy. Từ “dù là” ở đây như lời khẳng định với lương tâm rằng sẽ kiên nhẫn đối mặt với thử thách của thời gian và tuổi già, bệnh tật để mãi mãi làm một mùa xuân nho nhỏ trong mùa xuân rộng lớn của quê hương đất nước. Giọng thơ vẫn nhỏ nhẹ, chân thành nhưng mang sức ảnh hưởng lớn. Chính vì thế, hình ảnh “mùa xuân nho nhỏ” như bừng sáng, toả sức sống trong toàn bộ bài thơ.
Rất cảm động và kính phục khi đọc những dòng thơ như lời tóm tắt cuộc đời. 'Dù là tuổi hai mươi' từ lúc mới tham gia kháng chiến cho đến khi tóc bạc là thời điểm hiện tại vẫn dành cho cuộc sống và những dòng thơ này là một trong những dòng cuối cùng. 'Một mùa xuân nho nhỏ' cuối cùng của Thanh Hải dành cho cuộc sống trước khi ông bước vào thế giới của sự bất diệt, chuẩn bị rời khỏi mãi mãi.
Và “Viếng lăng Bác”, bài thơ gây ra một cảm xúc đặc biệt. Viễn Phương sử dụng một ngôn ngữ tinh tế, giàu cảm xúc sâu sắc để diễn đạt lòng kính yêu, lòng xót thương và lòng biết ơn vô tận của mình dành cho lãnh tụ. Từ tình cảm thành kính, ngưỡng mộ mà toàn dân tộc Việt Nam dành cho Bác nhà thơ đã truyền đạt cảm xúc của mình đến với người đọc khi nguyện làm tiếng chim hót , làm bông hoa thơm phức, làm cây tre hiếu khách và sẵn lòng thực hiện mọi công việc tốt để kính dâng Người:
Mai về miền Nam, lòng trào nước mắt
Muốn làm con chim hót quanh lăng
Muốn làm bông hoa thơm phức đây đây
Muốn làm cây tre hiếu khách chốn này.
Mặc dù hiện tại nhà thơ đang đứng bên lăng Bác, trong lăng Bác nhưng khi nhớ lại những ngày phải rời xa miền Bắc, ngày xa Bác Viễn Phương thấy rằng mình không muốn rời đi. Tình cảm trong những ngày sống bên Bác luôn sâu đậm từng khoảnh khắc. Tác giả không thể nào ngăn được những giọt nước mắt trào dâng và lòng trìu mến.
Mai về miền Nam, lòng trào nước mắt
Câu thơ đơn giản nhưng chứa đựng tình thương sâu sắc, làm cho mỗi người khi đọc đều cảm thấy rất xúc động. Đây là cách diễn đạt không hoa mỹ mà rất chân thành của người dân Nam Bộ, vẫn ẩn chứa trong lòng mỗi người không thể diễn tả được. Từ tình cảm đó, nhà thơ thể hiện ước nguyện thành kính, có thể là mong muốn chung của tất cả, dù đã từng gặp Bác hay chưa.
Đặt lòng muốn làm con chim hót quanh lăng Bác
Ước ao thành bông hoa thơm phức khắp nơi
Nguyện ước trở thành cây tre trung hiếu ở đây.
Từ ngữ “Đặt lòng muốn” được lặp lại nhiều lần trong bài thơ thể hiện ước nguyện tự nguyện, tự giác của Viễn Phương. Nhà thơ muốn trở thành tiếng hót của chim vui mừng quanh lăng. Muốn làm đóa hoa thơm phức và đẹp đẽ khắp nơi. Muốn trở thành cây tre trung hiếu canh giữ lăng Bác ngày đêm. Hình ảnh cây tre lại xuất hiện ở cuối bài thơ để kết thúc một cách khéo léo, để lại ấn tượng sâu sắc trong lòng độc giả. Việc tái hiện cây tre: “Nguyện ước trở thành cây tre trung hiếu ở đây”. Trong khi hàng cây đầu tiên là tre, hàng cây cuối cùng là cây tre. Ý nghĩa là muốn sống như một cây tre trong hàng tre kia để luôn bên Bác, bộc lộ tình cảm yêu mến. Đó là lòng tôn kính và tình yêu với Bác Hồ. Điều đó thật cao quý khi nhà thơ muốn sống như một cây tre trung hiếu, giữa muôn vàn cây tre quanh lăng Bác, để luôn ở bên Bác. Hình ảnh cây tre ở hàng thơ đầu được lặp lại trong hàng thơ cuối tạo nên một cấu trúc song song, hoàn chỉnh hóa biểu tượng của cây tre Việt Nam. Nếu trong hàng thơ đầu tiên, tre là biểu tượng của sức mạnh kiên cường, bất khuất; thì ở hàng thơ cuối cùng, cây tre được lặp lại nhưng để đại diện cho phẩm chất trung hiếu. Cây tre đã trở thành biểu tượng đầy đủ của con người và dân tộc Việt Nam.
Bài thơ 'Viếng lăng Bác' đã gửi lại trong lòng độc giả những cảm xúc sâu lắng và chân thành. Bài thơ sẽ tiếp tục sống trong lòng người đọc, nhắc nhở cho thế hệ sau về thành tựu vĩ đại của cách mạng và cách sống sao cho xứng đáng với sự hy sinh của một con người lớn lao như Chủ tịch Hồ Chí Minh, người đã dành cả cuộc đời mình cho sự nghiệp cách mạng:
'Chỉ biết tự quên mình cho hết mọi thứ
Như dòng sông cuồn cuộn lưu trôi phù sa'
So sánh ước nguyện của Thanh Hải và Viễn Phương - Mẫu 4
Trong kho tàng văn học Việt Nam, có nhiều tác phẩm thơ ca, truyện,… thể hiện mong muốn, ước vọng của tác giả dành cho cuộc sống, đất nước. Hai bài thơ nổi tiếng là Mùa xuân nho nhỏ của Thanh Hải và Viếng lăng Bác của Viễn Phương là ví dụ điển hình. Thông qua bốn khổ thơ của Viếng lăng Bác và hai khổ thơ bốn và năm của Mùa xuân nho nhỏ, hai nhà thơ đã thể hiện mong ước, khao khát của mình một cách đặc biệt và sâu sắc.
Hai bài thơ này được viết vào hai thời điểm đặc biệt. Viếng lăng Bác được Viễn Phương sáng tác khi ông đến từ miền Nam xa xôi thăm lăng Bác Hồ ngay sau khi lăng được khánh thành vào tháng 4 năm 1976. Mùa xuân nho nhỏ của Thanh Hải được sáng tác vào tháng 11 năm 1980, trước khi ông qua đời không lâu. Khi đọc hai bài thơ này, chúng ta cảm nhận được suy tư, cảm xúc chân thành của hai tác giả, cũng như thấy được những ước nguyện tuyệt vời của họ.
Bài thơ Mùa xuân nho nhỏ được Thanh Hải viết khi đang nằm bệnh vào mùa đông năm 1980. Dù vậy, với nhà thơ, đó là lúc mùa xuân đã tới, đem lại sức sống mới cho ông. Những vần thơ của ông là sắc xuân tràn ngập ở Huế và thể hiện tình yêu thiên nhiên, cuộc sống, đất nước của ông. Cuối cùng, ông thể hiện khát vọng nhỏ bé nhưng chân thành của mình.
'Làm chim hót vang tiếng ca
Làm cành hoa tỏa hương xa
Làm tiếng ca hòa vào vang
Một nốt trầm thấm lòng nhân gian
Một mùa xuân nho nhỏ chân thành
Dù là tuổi hai mươi hay tóc bạc
Mùa xuân đang về, mang theo sự sống mới, Thanh Hải lúc ấy nằm trên giường bệnh nhưng mong ước sống, mong được hòa mình vào mùa xuân, dù chỉ là một chú chim nhỏ, một cành hoa hay một nốt trầm trong bản hoà ca của cuộc đời. Những ước mong nhỏ bé đó thể hiện sự khát khao cống hiến, khát khao hòa mình vào mùa xuân của nhà thơ. Đặc biệt, từ 'làm' được lặp lại liên tiếp ở khổ thơ thứ tư như là khẳng định sự khát khao của ông. Tại đây, ông sử dụng từ 'ta' thay vì 'tôi' để thể hiện sự chung của mong ước với tất cả mọi người trên đất nước. Tất cả mong ước đều muốn hiến dâng cho mùa xuân của dân tộc, cho sự nghiệp của đất nước. Thanh Hải mong muốn trở thành một phần của 'mùa xuân nho nhỏ' để cống hiến cho cuộc sống.
Viếng lăng Bác của Viễn Phương thể hiện tình yêu, lòng kính trọng với Bác Hồ. Viễn Phương viết bài thơ này vào năm 1976, khi ông đến từ miền Nam xa xôi để thăm lăng Bác Hồ ngay sau khi lăng được khánh thành. Trong niềm vui đó, nhà thơ hòa mình vào dòng người đến lăng viếng Bác. Ông thể hiện cảm xúc chân thành, lòng thành kính và xúc động với Bác. Khi phải rời xa Bác để trở về miền Nam, Viễn Phương ước mình có thể trở thành chú chim hót, đóa hoa thơm và cây tre trung hiếu, những mong ước chân thành và cháy bỏng.
'Ngày mai về miền Nam, lòng đầy nước mắt
Ước mình làm con chim vang tiếng hót
Ước mình làm hoa tỏa hương nơi này
Ước mình làm cây tre trung hiếu bên lăng'
Ngày mai sẽ trở về miền Nam, Viễn Phương phải rời xa Bác, trong khoảnh khắc đau lòng ấy, ông mong mình có thể trở thành chú chim hót, đóa hoa thơm và cây tre, để ngày ngày được gần Bác, hiến dâng cho sự nghiệp của đất nước. Mong ước nhỏ bé nhưng cháy bỏng, chân thành, được thể hiện qua từ 'ước mình làm' lặp lại ba lần ở khổ thơ cuối. Nhà thơ mong trở thành chú chim hót, đóa hoa thơm và cây tre, để sống trong lòng dân tộc và hiến dâng cho Bác.
Sau khi đọc những bài thơ về ước nguyện của Thanh Hải và Viễn Phương, ta nhận ra rằng những điều ấy thật đẹp đẽ. Đó là những ước nguyện chân thành, khiêm nhường, mong muốn được hiến dâng cho cuộc sống, cho đất nước, dù chỉ là những điều nhỏ bé. Hai nhà thơ đã thông qua hình ảnh của thiên nhiên như “hoa”, “chim”, “mùa xuân”, … để thể hiện niềm ước vọng của mình, tạo ra những bài thơ đặc biệt và xúc động.
Tuy có những điểm tương đồng và khác biệt, nhưng mỗi ước nguyện của hai nhà thơ đều mang nét đặc trưng riêng, không thể lẫn lộn. Với Thanh Hải, ông chọn đề tài về thiên nhiên, đất nước, bởi bài thơ được viết trong giai đoạn xây dựng chủ nghĩa xã hội. Điều đó làm cho ông muốn cống hiến cuộc đời cho đất nước. Trong khi đó, ước nguyện của Viễn Phương là ở lại gần Bác Hồ, hòa mình với thiên nhiên quanh lăng Bác.
Viễn Phương lấy cảm hứng từ việc thăm lăng Bác Hồ vào năm 1976, viết bài thơ về Người để thể hiện lòng kính trọng và tình yêu với vị lãnh tụ của dân tộc. Điều này khiến cho ước nguyện của ông khác biệt so với Thanh Hải, ông muốn được ở lại gần Bác Hồ.
Mặc dù có những nét tương đồng và khác biệt, nhưng cả hai nhà thơ đã khiến cho chúng ta xúc động trước những ước nguyện chân thành của họ. Thông qua hình ảnh thiên nhiên, họ đã thể hiện khát vọng của mình, cống hiến cho cuộc sống tươi đẹp này.
Dù ước nguyện của Thanh Hải trong Mùa xuân nho nhỏ và của Viễn Phương trong Viếng lăng Bác khác nhau, nhưng cả hai đều mong muốn được cống hiến cho đất nước. Điều này đáng trân trọng và là một tấm gương để chúng ta học tập, cố gắng xây dựng quê hương, đất nước ngày càng tươi đẹp.