Mèo Xiêm | |
---|---|
Mèo Xiêm Lilac | |
Nguồn gốc | Thái Lan |
Tiêu chuẩn nòi | |
CFA | tiêu chuẩn |
TICA | tiêu chuẩn |
AACE | tiêu chuẩn |
ACFA/CAA | tiêu chuẩn |
ACF | tiêu chuẩn |
CCA | tiêu chuẩn |
Mèo nhà (Felis catus) |
Mèo Xám là một trong những loài mèo đầu tiên của mèo lông ngắn phương Đông được công nhận. Nguồn gốc của mèo Xám cho đến nay vẫn chưa được rõ ràng, nhưng Thái Lan được tin rằng là nơi xuất xứ của nó. Ở Thái Lan - nơi mèo Xám là một trong những nòi mèo bản xứ - nó được người dân Thái gọi là Wichian Mat (วิเชียรมาศ, có nghĩa là 'kim cương mặt trăng'). Trong thế kỷ 20 mèo Xám là một trong những nòi mèo phổ biến nhất ở châu Âu và Bắc Mỹ.
Lịch sử
Giống mèo Xám, đặc trưng bởi màu lông của nó, là một trong những nòi mèo ở Xiêm La và Thái Lan được miêu tả trong một tác phẩm văn học mang tên 'những bài thơ Mèo' (Tamra Maew) xuất hiện trong khoảng từ thế kỷ thứ 14 đến 18.
Thông thường các ý kiến cho rằng mèo Xám lần đầu tiên xuất hiện ở bên ngoài châu Á vào năm 1884 khi Tổng lãnh sự Anh ở Băng Cốc, Edward Blencowe Gould (1847–1916), mang một cặp mèo Xám giống (tên là Pho và Mia) từ Thái về Anh làm quà tặng cho em gái mình, Lilian Jane Veley (về sau Veley trở thành đồng sáng lập câu lạc bộ mèo Xám vào năm 1901). Tuy nhiên, ngay từ 6 năm trước đó (1878) Tổng thống Hoa Kỳ Rutherford B. Hayes đã nhận được một chú 'mèo Xám' - món quà của Lãnh sự quán Hoa Kỳ tại Băng Cốc dành tặng cho Tổng thống - và đây cũng chính là chú mèo Xám đầu tiên được ghi nhận là đã đặt chân đến Hoa Kỳ.
Năm 1885, cặp mèo Pho-Mia của Veley đã sinh ra 3 chú mèo Xám con, chúng được đặt tên là Duen Ngai, Kalohom và Khromata. Gia đình mèo đã được giới thiệu công chúng trong buổi triển lãm tại Cung Pha Lê; lúc đó hình dáng và tính cách đặc trưng của chúng đã gây ấn tượng sâu sắc với người tham dự. Tuy nhiên không lâu sau đó cả ba chú mèo con đều qua đời. Hiện không có tài liệu nào ghi nhận nguyên nhân gây ra sự chết của chúng.
Đến năm 1886, một cặp mèo Xám cùng con cái của chúng được quý bà Vyvyan và người chị em của mình mang vào Anh. So với mèo lông ngắn Anh và mèo Ba Tư (hai giống mèo phổ biến ở Anh), mèo Xám có thân hình dài hơn và thanh mảnh hơn, đầu ít tròn hơn với mõm hình tam giác nhọn và tai lớn. Những khác biệt này cùng với màu lông đặc trưng - chưa từng xuất hiện ở Âu Mỹ - đã gây sốc cho người xem: một người chứng kiến thời đó đã miêu tả chúng là 'cơn ác mộng thiên nhiên của loài mèo'. Tuy nhiên, mèo Xám cũng nhanh chóng thu hút một số người hâm mộ nồng nhiệt và chỉ trong vài năm sau đó, những người này đã truyền bá mèo Xám khắp Anh, dựa trên một số cá thể mèo Xám nhập khẩu đầu tiên. Một số nguồn khác cho rằng, người anh em của Edward Blencowe Gould là Owen Nutcombe Gould (1857–1929) mới là Tổng lãnh sự ở Băng Cốc, tuy nhiên vào năm 1884 Owen còn quá trẻ để làm Tổng lãnh sự (lúc đó mới 27 tuổi) và không có bằng chứng nào xác nhận rằng ông ở Băng Cốc vào thời điểm đó. Quay trở lại với mèo Xám, khi mới đến Anh, chúng được người ta gọi là 'mèo hoàng gia Xiêm' vì trước đây chỉ có gia đình hoàng tộc Xiêm La nuôi giống mèo này. Tuy nhiên, các nghiên cứu sau này không tìm thấy bằng chứng về việc tồn tại của một chương trình gây giống có tổ chức tại hoàng gia Xiêm.
Giống mèo Xám nguyên thủy khi mới đến Anh - giống như thế hệ mèo Xám ở quê hương Thái Lan hiện nay - có kích thước trung bình, thân hình dài, cơ thể mảnh và thanh nhã; đầu hơi dài và thon hình búp măng với những đường thẳng kéo dài từ tai tới mõm nhọn; đôi tai phải có kích thước lớn, nhọn và gốc tai rộng; đuôi dài và thon.
Gần đây
Trong những năm 1950 và 1960, giống mèo Xiêm trở nên ngày càng phổ biến hơn và nhiều người nuôi mèo bắt đầu ưa chuộng những cá thể có dạng thân hình nhỏ gọn hơn người. Sau quá trình lựa chọn nhân tạo, xuất hiện một dòng mèo Xiêm mới với thân hình dài hơn, đầu nhọn hẹp và xương nhỏ; mèo Xiêm hiện đại ngày nay có thân hình thon dài, ít mỡ, chân thon, đuôi rất thon dài, đầu mỏ nhọn với tai cực lớn. Tuy nhiên, một số người vẫn trung thành với dòng mèo truyền thống nhận thấy rằng dòng mèo ưa thích của họ không còn cạnh tranh được trên thị trường mèo nữa.
Vào giữa những năm 1980, những con mèo có dạng hình 'nguyên thủy' dần dần biến mất khỏi các cuộc triển lãm mèo; tuy nhiên, một số người nuôi mèo - đặc biệt là ở Anh - vẫn kiên trì duy trì dòng mèo này. Điều này dẫn đến sự phân chia thành hai dòng mèo Xiêm riêng biệt: mèo 'hiện đại' và mèo 'truyền thống'. Cả hai dòng mèo này đều có nguồn gốc chung từ một tổ tiên xa xôi mà không có tổ tiên gần gũi. Kể từ cuối những năm 1980, những người yêu thích mèo truyền thống đã tụ hợp lại nhằm bảo tồn dòng mèo Xiêm này và giới thiệu công chúng về lịch sử và cách mua mèo 'kiểu cũ'. Các hội đoàn khác nhau đã thành lập trong cộng đồng này với các tiêu chuẩn đăng ký không đồng nhất (chẳng hạn như yêu cầu bằng chứng về tổ tiên từ các tổ chức đăng ký quốc tế). Sự khác biệt này đã dẫn đến nhiều tên gọi khác nhau cho dòng mèo truyền thống: 'mèo Xiêm truyền thống', 'mèo Xiêm kiểu cũ', 'mèo Xiêm cổ điển' và thậm chí 'mèo đầu táo' (applehead, một cái tên ban đầu do những người nuôi mèo Xiêm 'hiện đại' đặt để chế giễu dòng mèo Xiêm kiểu cũ có đầu ít nhọn hơn).
Tổ chức Mèo Quốc tế (The International Cat Association - TICA) đã chính thức thêm một giống mèo mới vào danh sách được phép tham gia triển lãm: mèo Thái, giống mèo Thái này có ngoại hình khá giống với mèo Thaikatze ở châu Âu. Mèo Thái bao gồm cả những con mèo Xiêm có ngoại hình ít đặc trưng hơn và mèo Wichian Mat nhập từ Thái Lan. Mèo Thái cũng được Liên đoàn Mèo Thế giới công nhận. Mèo Thái là một trong những dòng mèo nguyên thủy được nhập khẩu từ Thái Lan vào Mỹ vào ngày 3 tháng 1 năm 1879, được tặng cho bà Lucy Webb Hayes, đệ nhất phu nhân Hoa Kỳ lúc đó.