
Maschinengewehr 42 | |
---|---|
Súng máy MG-42 | |
Loại | Súng máy đa chức năng |
Nơi chế tạo | Đức Quốc xã |
Lược sử hoạt động | |
Phục vụ | 1942 - 1945 (Quân đội Đức Quốc Xã) 1957 - 1959 (Quân đội Tây Đức) |
Trận | Chiến tranh thế giới thứ hai Nội chiến Hy Lạp Chiến tranh Ả Rập-Israel 1948 Chiến tranh Algérie Chiến tranh giải phóng Bangladesh Chiến tranh thuộc địa Bồ Đào Nha Chiến tranh Nam Tư Nội chiến Congo thứ hai Nội chiến Syria |
Lược sử chế tạo | |
Người thiết kế | Werner Gruner |
Năm thiết kế | 1942 |
Nhà sản xuất | Metall und Lackierwarenfabrik Johannes Großfuß AG Mauser Werke AG |
Giai đoạn sản xuất | 1942 – 1945 |
Số lượng chế tạo | Khoảng 432,600 khẩu |
Các biến thể | MG45/MG42V, M53,MG1, MG2, MG3 |
Thông số | |
Khối lượng | 11,57 kg |
Chiều dài | 1220 mm (48,03 in) |
Kíp chiến đấu | 3 người (chỉ huy, bắn chính và tiếp đạn) |
Đạn | 7.92x57mm Mauser 7,62×54mmR (Biến thể thử nghiệm của Phần Lan) |
Cơ cấu hoạt động | Nạp đạn bằng lực giật, Khóa con lăn |
Tốc độ bắn | 1200-1500 viên/phút |
Sơ tốc đầu nòng | 755 m/s |
Tầm bắn hiệu quả | 200-2000m (219-2187 yd) 3500m (3828 yd) với giá chống 3 chân và kính ngắm |
Tầm bắn xa nhất | 4700m (5140 yd) (tối đa) |
Chế độ nạp | Dây đạn 50 hay 250 viên |
Ngắm bắn | Thước ngắm, đầu ruồi và kính ngắm |
MG-42 (Maschinengewehr 42 – Súng máy loại 1942) là một loại súng máy hạng nhẹ đa năng, sử dụng đạn 7,92×57mm, được thiết kế và phát triển bởi Đức Quốc xã. Nó đã được chính thức trang bị cho quân đội Đức Quốc xã (Wehrmacht) vào năm 1942, thay thế súng máy đa năng Maschinengewehr 34 trong nhiều đơn vị. Tuy nhiên, cả MG-34 và MG-42 đều tiếp tục được sản xuất và sử dụng cho đến khi chiến tranh kết thúc.
MG-42 nổi bật với độ tin cậy, độ bền, thiết kế đơn giản và dễ sử dụng. Đặc biệt, nó tạo ra tiếng bắn cực lớn, gây choáng váng cho kẻ thù. Với tốc độ bắn khoảng 1200 phát/phút, MG-42 có tốc độ bắn cao nhất trong các loại súng máy cầm tay một nòng, tạo ra âm thanh đáng sợ. Các súng tự động khác như súng máy Darne của Pháp, súng máy Gebauer của Hungary, súng máy ShKAS của Liên Xô và súng máy Vickers K của Anh có tốc độ bắn tương tự, nhưng MG-42 sử dụng dây đạn và có khả năng thay nòng nhanh, cho phép bắn liên tục lâu hơn.
Sau khi Đức Quốc xã đầu hàng, súng máy MG-42 được Tây Đức tiếp tục phát triển, dẫn đến các phiên bản MG-1 (MG-42/59), sau đó là MG-1A3, và cuối cùng là mẫu MG-3 nổi tiếng. MG-42 đã ảnh hưởng sâu rộng đến các mẫu súng máy của nhiều quốc gia khác, như MG-51 và SIG MG 710-3 của Thụy Sĩ, MG-74 của Áo, súng máy hạng nhẹ Ameli của Tây Ban Nha, M-60 của Mỹ và MAG 58 (M240) của Bỉ. Rheinmetall MG-3 đã được trang bị cho nhiều quân đội trong thời kỳ Chiến tranh Lạnh và vẫn còn được sử dụng đến ngày nay.
Lịch sử
Quá trình phát triển
Vào những năm 30 của thế kỷ XX, quân đội Đức Quốc xã đã bắt đầu sử dụng súng máy MG-34, được coi là súng máy đa năng hiện đại đầu tiên trên thế giới. MG-34 nổi bật với khả năng thay nòng dễ dàng và có thể sử dụng cả băng đạn dài hoặc hộp tiếp đạn lớn, cho phép bắn liên tục lâu hơn so với các súng máy hạng nhẹ khác như Browning M1918, Type 11, Bren hay FM 24/26. MG-34 nhẹ hơn nhiều so với súng máy cộng đồng như Vickers và Browning M1917, và có thể sử dụng cả băng đạn dài hoặc hộp tiếp đạn hình trống, đồng thời hoạt động hiệu quả trên giá súng hạng nặng hoặc bệ súng máy trên xe thiết giáp. Phiên bản MG-81 của súng được sử dụng như hỏa lực phòng thủ trên máy bay, trong khi MG-34 Panzerlauf được trang bị trên xe tăng. Tuy nhiên, MG-34 cũng gặp một số hạn chế như dễ bị bụi bẩn và chi phí sản xuất cao. Để cải tiến, phiên bản MG-34S đã được phát triển dựa trên thiết kế gốc.
Để khắc phục những vấn đề của MG-34, một cuộc thi thiết kế đã được tổ chức nhằm tìm ra một loại súng máy mới thay thế. Ba công ty được yêu cầu gửi mẫu thiết kế: Metall und Lackierwarenfabrik Johannes Großfuß AG từ Döbeln, Rheinmetall-Borsig từ Sömmerda, và Stübgen từ Erfurt. Mẫu thiết kế của Großfuß AG đã chứng minh ưu thế nổi bật nhờ vào cơ cấu lùi ngắn và hãm con lăn độc đáo, trong khi các đối thủ sử dụng kiểu trích khí. Đặc biệt, tập đoàn này không có kinh nghiệm trong thiết kế vũ khí mà chỉ chuyên về dập thép. Ernst Grunow, một kỹ sư hàng đầu của Großfuß AG, không biết gì về súng máy khi bắt đầu dự án, nhưng đã tham gia khóa đào tạo để hiểu rõ tính năng và đặc điểm của vũ khí. Ông đã tái thiết kế hệ thống máy súng của Mauser, kết hợp các kinh nghiệm học được từ khóa học và thực chiến của quân Đức. Kết quả là mẫu súng mới yêu cầu ít máy móc hơn và dễ chế tạo hơn, chỉ cần 75 giờ làm việc so với 150 giờ của MG-34, và chi phí chỉ 250 RM so với 327 RM của MG-34.
Mẫu thử nghiệm MG-39 vẫn giữ nhiều đặc điểm của MG-34, với những cải tiến nhằm tăng cường hiệu suất và sự tiện dụng. Thay đổi lớn nhất là loại bỏ hộp tiếp đạn, thay vào đó sử dụng băng đạn dài hoặc băng đạn ngắn 50 viên. Những cải tiến này giúp súng duy trì tốc độ bắn cao và hiệu suất tốt hơn. MG-39 được làm bằng các bộ phận rẻ tiền hơn, và đã chứng minh khả năng chống kẹt máy tốt hơn so với MG-34. Sau khi sản xuất khoảng 1500 khẩu, MG-39/41 được hoàn thiện vào năm 1941 và đưa vào thử nghiệm thực chiến.
MG-42 chính thức được chấp nhận vào năm 1942 và được sản xuất hàng loạt với tên gọi mới là MG-42. Các hãng Großfuß AG, Mauser-Werke, Gustloff-Werke và các đối tác khác thực hiện hợp đồng sản xuất. Trong suốt chiến tranh, khoảng hơn 400,000 khẩu MG-42 đã được sản xuất (17,915 khẩu năm 1942, 116,725 khẩu năm 1943, 211,806 khẩu năm 1944 và 61,877 khẩu năm 1945).
Biến thể
MG-42 của Phần Lan
Vào tháng 7 năm 1943, Phần Lan đã mua 5 khẩu MG-42 để đánh giá, trong đó 3 khẩu được thử nghiệm trên các mặt trận. Sau khi thử nghiệm, Phần Lan quyết định sản xuất khoảng 4.000 khẩu MG-42 được điều chỉnh để sử dụng đạn 7,62×54mmR. Tuy nhiên, chỉ có 1 khẩu trong số đó được đưa vào sử dụng thực tế.
MG-45/42V
Cuối chiến tranh, do thiếu nguyên liệu, Đức Quốc xã đã phát triển phiên bản mới của MG-42, gọi là MG-45 (hoặc MG-42V). Phiên bản này sử dụng cơ chế nạp đạn bằng phản lực bắn thay vì lực giật, dẫn đến sự khác biệt về cơ chế hoạt động. Súng được chế tạo từ thép kém chất lượng hơn, giảm trọng lượng còn 9 kg và vẫn giữ tay cầm ngang. Các cuộc thử nghiệm bắt đầu vào tháng 6 năm 1944, và mặc dù phát triển vẫn tiếp tục, chỉ có 10 khẩu MG-45 được chế tạo. Súng có khả năng bắn liên tục 120.000 viên với tốc độ bắn khoảng 1.350 viên/phút.
M53
Tại Nam Tư, biến thể của MG-42 được sản xuất tại nhà máy Zavodi Crvena Zastava và mang tên Zastava M53. MG-53 giữ nguyên hầu hết các đặc điểm và thiết kế của MG-42 và vẫn sử dụng đạn 7,92×57mm Mauser, do đó không có nhiều sự khác biệt so với MG-42. MG-42 bị tịch thu tại Nam Tư vào cuối Thế chiến II và được Quân đội Nhân dân Nam Tư sử dụng dưới tên M53/42s cho đến năm 1999, với một số khẩu được xuất khẩu sang Iraq vào năm 1980.
MG-51
MG-51 (Maschinengewehr model M1951) của Thụy Sĩ là phiên bản cải tiến của MG-42, sử dụng đạn 7,5×55mm Swiss. Được sản xuất bắt đầu từ năm 1950, MG-51 vẫn giữ nhiều đặc điểm của MG-42 nhưng có một số khác biệt. Nhiều bộ phận được gia công thay vì dập, làm tăng trọng lượng, độ ổn định và chi phí sản xuất. Nhà máy Waffenfabrik Bern đã thay đổi hệ thống khóa từ kiểu con lăn sang kiểu flapper. Súng có tốc độ bắn 1.000 viên/phút, nặng hơn MG-42 4,4 kg (9,70 lb) và được chế tạo với chất lượng hoàn thiện cao hơn.
Các trận chiến
Một trong những điểm nổi bật của MG-42 là tốc độ bắn cực kỳ nhanh, khoảng 1200-1500 viên/phút, gấp đôi tốc độ bắn 600 viên/phút của súng máy Vickers của Anh và Browning M1919 của Mỹ. Đặc điểm này đã khiến Quân đội Mỹ phải làm một bộ phim huấn luyện để giúp binh sĩ đối phó với tác động tâm lý khi gặp phải MG-42 trong chiến đấu. Với tốc độ bắn cao đến mức âm thanh của từng viên đạn gần như không thể phân biệt, được miêu tả như tiếng 'xé vải', súng được lính Mỹ gọi là 'Chiếc cưa máy của Hitler' ('Hitler's buzzsaw') hoặc 'Phéc-mơ-tuya của Hitler' ('Hitler's zipper'). Lính Liên Xô đặt tên là 'Máy xé thảm trải sàn'. Binh lính Đức gọi súng là 'Hitlersäge' ('Cưa của Hitler') hoặc 'Cưa xương'. Quân đội Anh đôi khi gọi súng là 'Quận Spandau' theo tên nhà sản xuất trên súng, tương tự như tên lóng của súng máy MG-08 của Đức trong Thế chiến I. Mặc dù có tốc độ bắn cao, Sổ tay Quân đội Đức (1940) cấm việc bắn nguyên băng liên tục và yêu cầu duy trì tốc độ bắn thực không quá 300 - 350 viên/phút để tránh làm nóng nòng súng quá mức, ảnh hưởng đến độ bền và chính xác.
Tốc độ bắn cao của MG-42 được rút ra từ các thử nghiệm với vũ khí trước đó, kết luận rằng binh sĩ chỉ có một khoảng thời gian ngắn để nhắm bắn, buộc phải bắn với tốc độ tối đa để tăng khả năng trúng đích. Nguyên tắc này cũng áp dụng cho súng máy Vickers K gắn trên máy bay. Tuy nhiên, nhược điểm của nguyên tắc này là súng tiêu tốn đạn nhanh chóng và nòng súng dễ nóng, làm giảm khả năng duy trì tốc độ bắn và hiệu suất của súng.
Phương pháp thay nòng của MG-42 không phù hợp với các phiên bản thứ cấp hoặc đồng trục trên xe tăng Đức trong Thế chiến II, ngoại trừ pháo chống tăng tự hành Jagdpanzer IV. Jagdpanzer IV ban đầu được trang bị hai khẩu MG-42 tiêu chuẩn ở hai bên giáp xe phía trước dành cho pháo thủ chính và trưởng xe, có thể bắn qua khớp cầu có giáp bảo vệ khi không sử dụng. Các phiên bản sau chỉ còn một khẩu ở bên trái.
Ứng dụng
- Đức Quốc xã
- Tây Đức
- Đức
- Algérie: Được sử dụng bởi Mặt trận Giải phóng Quốc gia
- Bangladesh: Được lực lượng Mukti Bahini sử dụng trong Chiến tranh Giải phóng Bangladesh
- Bulgaria: Nhận được từ Đức Quốc xã
- Croatia: Sử dụng mẫu M53
- Phần Lan: Được sử dụng để đánh giá
- Pháp
- Hungary
- Israel
- Cộng hòa Xã hội Ý
- Vương quốc România: Nhận 440 khẩu MG-42 từ Đức năm 1943
- Áo
- Na Uy: Những khẩu MG-42 cũ của Đức đã qua sử dụng. Hai trong số mười khẩu MG-42 dự định đã được chuyển đổi thành .30-06 Springfield và được chỉ định là MG42F1. Dự án chuyển đổi bị dừng lại do kho dự trữ MG 42 của Na Uy đã được bán ra nước ngoài.
- Bồ Đào Nha: Được gọi là M/944, sau đó thay thế bởi FN Minimi Mk.3
- Bosna và Hercegovina: Đã sử dụng mẫu M53
- Tây Ban Nha
- Tunisia: Được sử dụng trong cuộc khủng hoảng Bizerte
- Vương quốc Liên hiệp Anh và Bắc Ireland: Tịch thu từ quân Phát xít Đức trên chiến trường
- Nam Tư: Được sản xuất với tên gọi M53
- Zaire: MG-42 và M53
Chiến thuật sử dụng
MG-42 có trọng lượng 11,6 kg khi sử dụng làm súng máy hạng nhẹ với giá hai chân, nhẹ hơn và dễ dàng di chuyển hơn so với MG-34. Giá hai chân của MG-42 cũng là loại được sử dụng cho MG-34, có thể gắn vào các vị trí phía trước hoặc giữa súng tùy thuộc vào tình hình. Khi được sử dụng như súng máy hạng nặng, MG-42 được lắp trên giá súng hạng nặng Lafette 42, tổng trọng lượng của súng và giá là 20,5 kg. Nòng súng với cấu trúc đa giác (hơn 4 khương tuyến) nhẹ hơn và nhanh chóng nóng hơn so với nòng MG-34, nhưng có thể được thay thế chỉ trong vài giây bởi xạ thủ dày dạn kinh nghiệm.
Đội ngũ tác xạ lý tưởng cho một khẩu MG-42 gồm sáu thành viên: Chỉ huy, Số 1 - xạ thủ chính giữ súng, Số 2 - người mang giá súng và tiếp đạn, cùng ba người còn lại (số 3, 4 và 5) phụ trách đạn dược, nòng thay thế, dụng cụ đào công sự, và các thiết bị khác. Chỉ huy, số 1 và số 2 thường được trang bị súng ngắn để tự vệ, trong khi ba thành viên còn lại mang súng trường. Trong thực tế, đội ngũ có thể được rút gọn còn ba người: xạ thủ, tiếp đạn (cũng mang nòng thay thế), và chỉ huy mục tiêu. Xạ thủ MG-42 thường là hạ sĩ quan (Unteroffizier).
Chiến thuật của Mỹ và Anh trong thời kỳ này tập trung vào việc sử dụng lính mang hỏa lực xung kích, với súng máy đóng vai trò hỗ trợ. Ngược lại, chiến thuật của Đức Quốc xã tập trung vào việc sử dụng súng máy như là lực lượng chính và lính xung kích làm nhiệm vụ hỗ trợ. Điều này có nghĩa là Đức triển khai nhiều súng máy hơn đáng kể so với quân Đồng minh, và quân Đồng minh khi tấn công các vị trí phòng thủ của Đức hầu như luôn phải đối mặt với hỏa lực từ MG-42. Tổ tác xạ có thể bắn liên tục, và nòng súng quá nóng sẽ cần phải thay thế. Điều này cho phép MG-42 tiêu diệt đối phương hiệu quả hơn đáng kể so với các súng máy khác. Cả quân Mỹ và Anh đều đào tạo binh sĩ cách ẩn nấp trước hỏa lực của MG-42 và tấn công vào vị trí súng trong khoảng thời gian ngắn khi đối phương thay nòng. Tuy nhiên, tốc độ bắn cao của MG-42 đôi khi lại trở thành gánh nặng cho quân Đức, do tiêu tốn đạn nhanh chóng. Điều này khiến các binh sĩ phải liên tục cung cấp thêm đạn cho tổ bắn, trở thành nguồn cung cấp đạn dự trữ khi nguồn cung chính đã cạn.
- MG-51
- CETME Ameli
- MG-3
- SIG 710-3
Ghi chú
- Willbanks, James H. (2004). Súng máy: Lịch sử minh họa về ảnh hưởng của chúng. Santa Barbara, California: ABC-CLIO. ISBN 978-1851094806.
Liên kết ngoài
- Hướng dẫn nhận diện súng của Nazarian (PHIM) MG 42, tấn công chính xác (đoạn video)
- Vũ khí và đạn dược hiện đại: MG-42 Lưu trữ 2006-04-09 tại Wayback Machine
- Báo cáo của Mỹ về MG-42 từ Thế chiến II
- Những người đam mê MG42 và sửa chữa bán tự động
- MG 42 thử nghiệm bắn