TOP 13 bài Thuyết minh về Hồ Gươm độc đáo, nổi bật nhất, giúp học sinh lớp 9 hiểu rõ hơn về vị trí địa lí, nguồn gốc và lịch sử của Hồ Gươm để viết bài thuyết minh đầy ấn tượng.
Hồ Gươm nằm ở trung tâm của thủ đô Hà Nội, còn được biết đến với nhiều tên gọi như Hồ Lục Thủy, Hồ Thủy Quân, Hồ Hoàn Kiếm. Mời các bạn đọc theo dõi bài viết dưới đây của Mytour để có thêm thông tin phong phú và độc đáo về Hồ Gươm, giúp bạn viết bài văn thuyết minh một cách xuất sắc.
Dàn ý thuyết minh về Hồ Gươm
I. Khởi đầu
- Hồ Gươm là một trong những điểm du lịch nổi tiếng của Việt Nam.
- Nó là một biểu tượng quan trọng với người dân Việt Nam.
II. Nội dung chính:
a. Vị trí địa lý, nguồn gốc và quá trình hình thành của Hồ Gươm
- Hồ Gươm nằm ở trung tâm quận Hoàn Kiếm, thành phố Hà Nội, và có một lịch sử lâu dài được ghi nhận từ xa xưa.
- Hồ là phần cuối cùng của dòng sông Hồng, từng được liên kết với sông Hồng.
- Hồ được biết đến với nhiều tên gọi khác nhau:
- Hồ Tả Vọng.
- Hồ Lục Thủy (vì màu nước luôn xanh quanh năm).
- Vào thế kỉ XV, hồ Lục Thủy được đổi tên thành Hồ Hoàn Kiếm, hay còn gọi là Hồ Gươm. (Tên Hồ Hoàn Kiếm liên quan đến truyền thuyết về việc vua Lê Thái Tổ trả lại thanh gươm quý cho rùa Kim Quy).
b. Đặc điểm đặc biệt của Hồ Gươm
- Nước Hồ Gươm luôn xanh quanh năm, từ mùa này sang mùa khác.
- Hồ có những con rùa quý hiếm.
- Trên hồ có hai hòn đảo: đảo Ngọc và đảo Rùa.
c. Di tích lịch sử và kiến trúc độc đáo liên quan đến Hồ Gươm.
Di tích lịch sử và kiến trúc độc đáo đã tạo nên vẻ đẹp đặc biệt của Hồ Gươm:
– Tháp Bút, Đài Nghiên (do nhà hiền triết Nguyễn Văn Siêu phục dựng, xây dựng).
- Tháp được xây từ đá, với đỉnh tháp hình như cây bút lông. Trên thân tháp có khắc ba chữ “Tả Thanh Thiên” (nghĩa là viết trên bầu trời xanh).
- Đài nghiên (làm từ đá, hình dáng nửa quả đào bổ dọc, có ba con ếch ở đỉnh).
– Cầu Thê Húc (mang ý nghĩa giữ lại ánh sáng đẹp của mặt trời) dẫn đến cổng đền Ngọc Sơn. Cầu được làm bằng gỗ, sơn màu đỏ, cong như hình con tôm.
– Đền Ngọc Sơn: xây trên Đảo Ngọc. Đền được xây theo phong cách kiến trúc đương đại. Đền chính bao gồm hai ngôi đền liền kề. Đền phía bắc tôn vinh Trần Hưng Đạo và Văn Xương. Phía nam có đình Trấn Ba (đình chống sóng)…
– Tháp Rùa: được xây trên Đảo Rùa giữa sóng nước lung linh. Tháp Rùa đẹp với vẻ đẹp cổ kính được phủ bởi rêu phong.
III. Tổng kết:
- Hồ Gươm là một điểm du lịch nổi tiếng, đẹp và thiêng liêng của Việt Nam.
- Là nơi diễn ra nhiều hoạt động văn hóa quan trọng và hội hè.
- Thể hiện truyền thống hiếu học thông qua Tháp Bút, Đài Nghiên.
- Thể hiện tình yêu nước của dân tộc thông qua truyền thuyết về việc vua Lê Thái Tổ trả gươm cho rùa vàng. Mọi người tự hào khi nói về Hồ Gươm, về đất nước.
Thuyết minh về Hồ Gươm xuất sắc nhất
Trong bài thơ “Lại về” của nhà thơ Tố Hữu đã viết:
“Hồ Gươm xanh thắm ven bờ
Thiên thu hồn nước mong chờ từ ngàn xưa
Bây giờ đây lại đây nơi đây
Quốc kỳ trên đỉnh tháp, sao bay trên mặt hồ.”
Hồn Nước – tâm hồn của đất nước, linh hồn của dân tộc cũng như truyền thống, bản sắc của Việt Nam. Hồ Gươm, theo tác giả, là hiện thân vật chất của Hồn Nước từ hàng ngàn năm trước, gợi nhớ lịch sử dân tộc. Hồ Gươm được coi là không gian thiêng liêng của Hà Nội và cả nước. Diện tích toàn bộ của Hồ Gươm là 12 ha, dài 700m theo hướng Nam Bắc và rộng 200m theo hướng Đông Tây. Theo những chuyên gia địa chất, Hồ Gươm là một món quà từ sông Hồng từ xa xưa, từ thời sông Cái chảy sâu vào đất này hàng ngàn năm trước. Hiện tượng sông chảy như vậy là điều thường thấy.
Thực ra, tên gọi Hồ Gươm mới chỉ xuất hiện khoảng một thế kỷ trước. Trước đó, tên phổ biến là hồ Hoàn Kiếm. Trong quá khứ, hồ được biết đến với nhiều tên gọi khác nhau. Vì hồ có màu nước xanh quanh năm nên có tên là hồ Lục Thủy. Truyền thuyết kể rằng khi vua Lê Thái Tổ đánh quân Minh xâm lược, vua chiến thắng và giành lại nền độc lập. Khi vua đóng thuyền trên hồ Lục Thủy, một con rùa vàng nổi lên, vua trỏ gươm vào rùa thì rùa ngậm cây gươm mà lặn xuống nước.
Nghĩ rằng đó là lúc trước Trời cho mượn gươm để đánh giặc, nên giờ giặc tan thì sai rùa thần đến đòi lại gươm để trả lại cho Trời. Từ đó, vua đổi tên hồ thành hồ Hoàn Kiếm, tức hồ Trả Gươm mà ngày nay chúng ta thường gọi là hồ Gươm. Theo giáo sư Trần Quốc Vượng, bản sắc của Thăng Long – Đại Việt được tạo nên từ những giá trị hư và thực, huyền diệu và thực tế. Hồ Gươm từ đó được biết đến phổ biến với tên gọi Hoàn Kiếm, nhưng cũng có lúc được gọi là hồ Vọng, chia thành hai phần tả-hữu. Theo sách sử, hồ Gươm xa xưa rộng lớn. Truyền thuyết kể rằng vua muốn tìm rùa vàng nên đã sai lính đắp đập ngăn hồ Lục Thủy thành hai nửa, tuy nhiên không tìm thấy rùa, vẫn không thấy rùa nên được cho là rùa Thần.
Sau đó, cái đập được giữ lại, nửa hồ phía bắc trở thành hồ Tả Vọng, phần còn lại phía nam là Hữu Vọng, sau này phần hồ Hữu Vọng bị lấp bởi đất từ phía tây, hồ Gươm hiện tại là một phần của hồ Tả Vọng. Thời chúa Trịnh, hồ Gươm được sử dụng làm nơi tập luyện thủy quân, còn được gọi là hồ Thủy Quân. Ngày nay, hồ Gươm vẫn xanh tươi quanh năm, với hàng cây được trồng ven bờ, đã có thi sĩ mô tả hồ Gươm như là sóng mắt biếc và hàng cây xanh như hàng mi của hồ Gươm - hàng mi của đôi mắt của cô gái trẻ.
Tháp Rùa nằm ở trung tâm hồ, được xây dựng từ giữa năm 1884 đến tháng 4 năm 1886 trên gò Rùa. Đây là một kiến trúc độc đáo mang nét Pháp rõ ràng. Tháp có hình chữ nhật, gồm 3 tầng, mỗi mặt có 3 cửa. Tầng 1 và 2 có kiến trúc tương tự nhau, gồm nhiều ô cửa hình vòm. Tầng 3 chỉ có một cửa hình tròn ở mặt phía Đông, trên cửa có khắc ba chữ Quy Sơn Tháp. Tầng đỉnh có hình dạng giống như một vọng lâu, vuông vức, mỗi bề dài 2 mét. Đền Ngọc Sơn nằm ở phía Bắc hồ, trước đây được gọi là Tượng Nhĩ (tai voi). Khi chuyển đô ra Thăng Long, vua Lý Thái Tổ đổi tên thành Ngọc Tượng và đền chính thức là Ngọc Sơn từ thời Trần.
Đền Ngọc Sơn thờ thần Văn Xương, ngôi sao chủ chốt trong văn chương và khoa cử và thần Trần Hưng Đạo. Cầu Thê Húc dẫn đến cổng đền Ngọc Sơn, do Nguyễn Văn Siêu xây dựng vào năm 1865. Tên của cầu có nghĩa là 'nơi đậu ánh sáng mặt trời buổi sáng sớm'. Tháp Bút trên bờ hướng đông bắc hồ, được xây dựng từ năm 1865, bao gồm năm tầng. Trên đỉnh là tượng trưng cho một ngòi bút vươn lên trời, phần thân có khắc ba chữ Tả Thanh Thiên nghĩa là viết lên trời xanh, thân tầng thứ ba của tháp có khắc một bài Bút Tháp Chí. Đài Nghiên là phần không thể thiếu của tháp Bút, ba chân kê nghiên là hình tượng ba con cóc.
Trên thân nghiên có khắc một bài Minh, gồm 64 chữ hán. Tháp Hòa Phong là phần còn sót lại của chùa Báo Ân. Tháp có 3 tầng, tầng 1 lớn hơn và cao hơn 2 tầng trên cùng. Đền Bà Kiệu thờ ba nữ thần là Liễu Hạnh công chúa, Đệ Nhị Ngọc Nữ và Đệ Tam Ngọc Nữ. Thủy Tạ được xây dựng thời chúa Trịnh Sâm, là biểu tượng đặc trưng của lối kiến trúc cổ Việt Nam, vua thường đến đây để thưởng ngoạn cảnh đẹp của hồ. Đền thờ vua Lê có tượng vua Lê Thái Tổ đứng trên trụ cao, tay cầm thanh kiếm như muốn đâm vào mặt hồ.
Hồ Gươm với những giá trị vĩnh cửu đã trở thành tâm hồn của thủ đô Hà Nội. Hồ Gươm luôn sống mãi trong lòng người dân thủ đô, đặc biệt là những người con xa quê.
Mời nhau chiêm ngưỡng Kiếm hồ,
Thăm cầu Thê Húc, chùa Ngọc Sơn.
Tháp bút, đài nghiên chưa phai mòn
Hỏi ai đã tạo nên nét non nước này?
Giới thiệu về Hồ Gươm - Mẫu 1
Chắc hẳn mỗi người trong chúng ta đều biết về Hồ Gươm. Đây là một di sản lịch sử, một điểm tham quan nổi tiếng của Hà Nội. Nếu ai đến đây cũng sẽ không quên ghé thăm hồ để thưởng ngoạn vẻ đẹp độc đáo của nó.
Hồ Gươm nằm ở trung tâm của thủ đô. Hồ có hình dạng bầu dục, bao quanh là các vườn hoa. Từ xa nhìn, hồ như một chiếc lồng hoa xinh đẹp. Hồ Gươm còn được gọi là hồ Lục Thuỷ vì nước trong và xanh. Nó còn được biết đến với tên là hồ Hoàn Kiếm hoặc hồ Tả Vọng. Hai cái tên này có từ thời Lê. Theo truyền thuyết, sau khi đánh tan quân Minh xâm lược, vua Lê Lợi ngồi trên thuyền rồng thì bất ngờ Rùa Vàng từ dưới hồ nổi lên để đòi lại thanh gươm. Nhà vua trả lại thanh gươm. Tên Hồ Hoàn Kiếm hoặc Hoàn Gươm cũng được gọi từ đó thay cho tên hồ Tả Vọng.
Xung quanh hồ có rất nhiều cây như si, phượng, đa,... và những vườn hoa lớn. Phía bắc của hồ có nhà hàng Thuỷ Tạ. Sau mỗi giờ mệt mỏi, du khách có thể ghé vào đây vừa ăn kem vừa thưởng ngoạn cảnh đẹp của hồ. Giữa hồ là Tháp Rùa, với hình dạng cổ kính uy nghi, gồm ba tầng, xung quanh là thảm cỏ. Tháp Rùa đã tạo nên vẻ đẹp đặc biệt cho hồ. Phía bắc của hồ là đền Ngọc Sơn. Mỗi khi Tết đến, rất nhiều người đến đây để thắp hương cầu may mắn. Tiếp sau đền là khu bán hàng lưu niệm. Đó là nơi trưng bày một con rùa cực kỳ lớn. Đền Ngọc Sơn được nối với bờ qua cầu Thê Húc cong cong, sơn đỏ tươi. Ra khỏi đó là Đài Nghiên, Tháp Bút. Trên thân Tháp Bút có khắc ba chữ: “tả thanh thiên” của Nguyễn Siêu, nghĩa là “viết lên trời xanh”. Gần hồ có nhiều tượng đá để tôn vinh sự trang nghiêm của một di sản lịch sử.
Hồ Gươm tươi đẹp, mang vẻ đẹp cổ kính và linh thiêng. Xung quanh hồ là khu dân cư đông đúc với nhiều tòa nhà cao tầng. Bắt đầu từ phố Đinh Tiên Hoàng là Bưu điện Hà Nội. Bên cạnh là vườn hoa Chí Linh, nơi có tượng đài của Vua Lí Thái Tổ rất uy nghi. Đối diện cầu Thê Húc là đền Bà Kiệu có từ thế kỉ XVIII, bên cạnh là tượng đài cảm tử với ba chiến sĩ sẵn sàng chiến đấu để bảo vệ Tổ quốc. Đi thêm khoảng hai mươi mét là Nhà hát múa rối Thăng Long. Ở đó biểu diễn những tiết mục đặc sắc của dân tộc. Bên phải là dãy phố Hàng Ngang - Hàng Đào, nơi tấp nập như trẩy hội.
Quanh hồ cũng tổ chức nhiều hoạt động vui chơi dành cho mọi người. Các cụ già thường ngồi đánh cờ, bàn luận tình hình thời sự trong và ngoài nước. Không chỉ vậy, đây còn là nơi lý tưởng để nghỉ ngơi sau những giờ làm việc mệt mỏi. Mỗi buổi sáng sớm, mọi người thường đến đây để tập thể dục. Gần đây, tuyến xe buýt Hà Nội - Hà Đông gần hồ mở phố đi bộ vào ban đêm, cả dãy phố sáng lên bởi ánh đèn rực rỡ.
Em rất tự hào vì được sinh ra tại đây. Hồ Gươm không lớn đẹp, lộng lẫy như nhiều danh lam thắng cảnh khác, nhưng nó là biểu tượng của Thủ đô Hà Nội, là sự sống ngàn năm văn vật của đất nước chúng ta.
Giới thiệu về Hồ Gươm - Mẫu 2
Nhắc đến hồ Hoàn Kiếm - Hồ Gươm, ta nghĩ ngay đến hai câu thơ nổi tiếng: “Hồ Gươm xanh thẳm quanh bờ / Thiên thu hồn nước mong chờ bấy lâu”. Đây không chỉ là một trong những không gian văn hóa sôi động của thủ đô mà còn chứa đựng, lưu giữ một thiên sử anh hùng của dân tộc. Nằm giữa trung tâm sầm uất, trái tim của Hà Nội, Hồ Gươm chính là một danh thắng tự hào của người Hà Thành.
Hồ Gươm còn được biết đến với cái tên Hồ Hoàn Kiếm, đã tồn tại từ lâu đời, kể từ khi sông Cái còn chảy sâu trong lòng đất. Hiện tượng dòng sông chuyển hướng là điều thường xuyên xảy ra, dòng sông Hồng chảy qua các phố như Hàng Đào, Hai Bà Trưng, Lí Thường Kiệt,... để tạo ra các phân lưu. Và phân lưu rộng lớn nhất chính là hồ Hoàn Kiếm ngày nay.
Hồ Hoàn Kiếm đã có nhiều tên gọi khác nhau, trước đây được gọi là hồ Lục Thủy vì dòng nước xung quanh luôn xanh mát quanh năm. Nhưng từ thế kỉ XV, tên gọi Hoàn Kiếm liên quan đến truyền thuyết về Rùa thần đòi gươm. Theo truyền thuyết, trong cuộc chiến chống lại quân Minh xâm lược (1417 - 1422), Lê Lợi dẫn đầu cuộc khởi nghĩa Lam Sơn và bắt được thanh gươm quý có tên Thuận Thiên. Thanh gươm này đã ở cùng ông suốt những năm kháng chiến và giúp đất nước giành lại độc lập.
Vào năm 1428, khi Lê Lợi lên ngôi vua với danh hiệu Lê Thái Tổ, trong một lần đi dạo quanh hồ Lục Thủy, ông đã nhìn thấy một con rùa vàng nổi lên. Khi vua nhìn xuống gươm mình, rùa đã lặn xuống và không thấy nữa. Ông tin rằng đó là trời mượn gươm để đánh quân Minh, sau khi chiến thắng, ông sai rùa đến lấy gươm nên hồ được gọi là Hồ Hoàn Kiếm hay Hồ Gươm. Một thời gian sau đó, trong thời kỳ phân tranh giữa hai triều đại Trịnh - Nguyễn, hồ được đổi tên thành hồ Vọng và được chia thành hai phần Tả Vọng và Hữu Vọng. Tuy nhiên, sau này phần hồ Tả Vọng đã bị lấp và chỉ còn lại hồ như ngày nay, gọi là Hồ Hoàn Kiếm.
Hồ Gươm nằm ở giữa các khu phố cổ của Hà Nội như Hàng Ngang, Hàng Đào, Lương Văn Can, Tràng Thi, Tràng Tiền, Hàng Bài,... Hồ có diện tích tổng cộng khoảng 12 ha, là một trong những hồ tự nhiên lớn nhất ở thủ đô. Hồ có chiều dài khoảng 700m theo hướng Nam Bắc và rộng khoảng 200m. Hồ không chỉ là nơi lưu giữ giá trị văn hóa lịch sử của thủ đô mà còn giúp điều hòa không khí và gắn liền với đời sống du lịch của người dân nơi đây. Khi đến thăm Hồ Gươm, đừng quên ghé qua các công trình kiến trúc nổi tiếng như Tháp Rùa, Cầu Thê Húc, Đền Ngọc Sơn,...
Tháp Rùa được xây dựng vào thế kỷ 19, từ năm 1884 đến tháng 4 năm 1886 thì hoàn thành. Tháp nằm ở giữa hồ, trên gò Rùa và mang dấu ấn của kiến trúc Pháp. Tháp gồm có 3 tầng giống như một vọng lâu, hai tầng đầu có kiến trúc tương tự nhau với nhiều ô cửa vòm, chiều dài có 3 cửa và rộng 2 cửa. Tầng 3 chỉ có một cửa vòm. Tháp Rùa cũng là nơi rùa thường phơi nắng và đẻ trứng, loài rùa này được xếp vào sách đỏ Việt Nam. Mỗi lần rùa nổi lên thì đều báo hiệu một việc quốc gia quan trọng.
Đền Ngọc Sơn tọa lạc trên xưa là hòn đảo Ngọc bên bờ bắc của Hồ Gươm, hay còn được biết đến với tên gọi khác là Tượng Nhĩ (Tai Voi). Đến thời Lí Thái Tổ, nó được đổi tên thành Ngọc Tượng, và chỉ đến thời Trần mới trở thành Ngọc Sơn. Để bước chân vào đền, du khách phải vượt qua cây cầu mang tên Thê Húc, một cầu cong đỏ rực được xây dựng vào năm 1865 nhờ công của danh nhân Nguyễn Văn Siêu.
Bên cạnh những điểm du lịch nổi tiếng, khi đến Hồ Gươm, du khách không nên bỏ lỡ những địa danh như Tháp Bút, Đài Nghiên... Những công trình kiến trúc ấn tượng này đã tạo nên sức hút không thể cưỡng lại đối với du khách trong và ngoài nước khi đến thăm Hà Nội. Chúng thực sự là biểu tượng của khát vọng hòa bình của dân tộc.
Có thể nói rằng Việt Nam là một đất nước phong phú về tài nguyên và thiên nhiên, được tạo hoá ban tặng những danh thắng kỳ vĩ. Tuy nhiên, Hồ Hoàn Kiếm - Hồ Gươm vẫn được xem như một trong những tác phẩm vĩ đại khó lòng phai mờ trong lòng người dân. Đây chính là nơi ghi chép hồn cốt tinh túy của dân tộc.
Thông tin chi tiết về Hồ Gươm - Mẫu 3
Hà Nội, nơi có Hồ Gươm,
Nước trong xanh như pha mực,
Bên bờ hồ là Tháp Bút,
Viết thơ về bầu trời cao.
Khi nhắc đến Hà Nội, người ta không thể không nghĩ đến hình ảnh của hồ Hoàn Kiếm trong xanh và bên cạnh đó là Tháp Rùa nghiêng ngả. Hồ Hoàn Kiếm cùng với các kiến trúc xung quanh đã trở thành một biểu tượng đẹp và thiêng liêng của Hà Nội - con tim hồng của đất nước. Hồ Hoàn Kiếm tồn tại từ lâu đời, tính từ thời hồ còn là một phần của sông Hồng cổ, và đến nay đã có hàng nghìn năm lịch sử. Theo địa danh hiện nay, hồ Hoàn Kiếm bao gồm hai phần từ phố Hàng Đào kéo dài qua Hai Bà Trưng.
Lý Thường Kiệt đến phố Hàng
Chuối, thông với sông Hồng.
Mặc dù hồ tồn tại từ lâu đời nhưng tên Hoàn Kiếm chỉ xuất hiện từ thế kỷ này. Trước đây, vì nước hồ luôn xanh biếc nên được gọi là Lục Thủy. Vào thế kỷ XV, hồ mới được đổi tên thành Hoàn Kiếm. Sự kiện đó liên quan đến truyền thuyết trả gươm thần cho Rùa Vàng của vua Lê Lợi. Truyền thuyết kể rằng khi Lê Lợi khởi nghĩa ở Lam Sơn, có người tìm thấy một thanh gươm sắc bén, sau đó Lê Lợi nhặt được phần chuôi gươm trong rừng. Khi ông ghép lưỡi vào chuôi, thân gươm bắt đầu phát sáng hai chữ 'Thuận Thiên' (nghĩa là: theo ý trời). Gươm quý này đã đi theo Lê Lợi trong suốt thời gian kháng chiến chống lại quân Minh. Sau khi chiến thắng, Lê Lợi trở thành vua và quay về Thăng Long. Trong một lần vua đi chơi thuyền trên hồ Lục Thủy, một con rùa bất ngờ xuất hiện, vua giơ gươm ra, rùa liền nhảy lên và ăn trộm thanh gươm rồi lặn xuống nước, từ đó vua đã trả gươm cho trời. Từ đó, hồ Lục Thủy được đổi tên thành hồ Hoàn Kiếm, thông thường được gọi là Hồ Gươm. Sau đó, trong thời kỳ nhà Lê, hồ còn được sử dụng làm nơi huấn luyện cho quân thủy.
Ngày nay, diện tích của Hồ Hoàn Kiếm là khoảng 12 ha, chiều dài từ Nam ra Bắc khoảng 700m, chiều rộng từ Đông ra Tây khoảng 200m. Hồ được bao quanh bởi các phố Lê Thái Tổ ở phía Tây, phố Đinh Tiên Hoàng ở phía Đông và phố Hàng Khay ở phía Nam. Giữa hồ có một đảo gọi là Đảo Rùa. Đảo có hình tròn gần, có đường kính từ Đông sang Tây là 18m, từ Bắc ra Nam là 24m, diện tích khoảng 350m2. Tháp Rùa được xây trên đảo nơi mà vua Lê Thánh Tông đã xây Điếu Đài để câu cá. Tháp có hình chữ nhật, gồm 3 tầng. Tầng một: chiều dài 6,28m (đối với 2 mặt hướng Đông và Tây), mỗi mặt có 3 cửa, chiều rộng 4,54m, mỗi mặt có 2 cửa. Các cửa đều có hình cuốn, đỉnh nhọn. Tầng hai: chiều dài 4,8m, rộng 3,64m và có kiến trúc giống như tầng một. Tầng ba: chiều dài 2,97m, rộng 1,9m. Tầng này chỉ có một cửa tròn ở mặt phía Đông, đường kính 0,68m, phía trên cửa có 3 chữ 'Quy Sơn Tháp' (tháp Núi Rùa). Tầng đỉnh có hình dáng giống một vọng lâu, vuông vức, mỗi bên dài 2m. Đảo Ngọc Sơn: nằm ở phía Bắc hồ, trước đây có tên là Tượng Nhĩ (tai voi). Vua Lý Thái Tổ đổi tên thành Ngọc Tượng khi chuyển đô ra Thăng Long, và đến thời Trần mới được gọi là Ngọc Sơn. Trong năm thứ 18 của triều Tự Đức (1865), danh nhân Nguyễn Văn Siêu đã cùng người dân sửa lại đền Ngọc Sơn. Đền mới được bổ sung đất và xây dựng kè đá xung quanh, xây đình Trấn Ba và một cây cầu từ bờ Đông đi vào gọi là cầu Thê Húc. Tên của cây cầu có nghĩa là 'nơi ánh sáng mặt trời đầu ngày đậu'.
Hình ảnh hồ Gươm lấp lánh như một chiếc gương tuyệt vời giữa trung tâm của Hà Nội đã in sâu vào lòng mọi người khi đến thăm. Cư dân sống xung quanh hồ thường thích ra đây tập thể dục vào buổi sáng sớm, đặc biệt là vào mùa hè. Mọi người thường gọi những con đường xung quanh hồ là Bờ Hồ. Mặc dù hồ không phải là hồ nước lớn nhất ở Thủ Đô Hà Nội, nhưng với vị trí độc đáo của nó, nằm giữa trung tâm thành phố, giữa những con phố cổ, hồ Hoàn Kiếm
Kiếm luôn là một phần không thể thiếu trong cuộc sống của người dân nơi đây. Hồ Hoàn Kiếm - Hồ Gươm sẽ mãi sống trong tâm trí của mỗi người dân Hà Nội và của cả dân tộc như một biểu tượng thiêng liêng về lịch sử và văn hóa truyền thống.
Thông tin chi tiết về Hồ Gươm - Mẫu 4
Hồ Gươm (Hoàn Kiếm) được coi như một viên ngọc của Thủ đô, hay như du khách nước ngoài thường gọi là 'Lẵng hoa giữa thành phố, nằm lọt giữa lòng Hà Nội'. Mặc dù đền Ngọc Sơn là một công trình kiến trúc mới trên đảo Ngọc, nhưng nó vẫn là một biểu hiện đặc biệt của không gian và kiến trúc. Theo các nhà nghiên cứu, hồ là một phần còn lại của sông Hồng sau khi dòng sông thay đổi như hiện nay, sự thay đổi này đã diễn ra cách đây hàng nghìn năm. Trước đây, hồ được gọi là Lục Thủy vì nước xanh quanh năm. Vào thế kỷ 15, hồ Lục Thủy được đổi tên thành hồ Hoàn Kiếm. Câu chuyện về việc trả gươm cho rùa vàng của vua Lê Thái Tổ đã gắn bó với tên Hoàn Kiếm.
Đảo Ngọc Sơn trước đây được gọi là Tượng Nhĩ (tai voi), sau đó vua Lý Thái Tổ đặt tên là Ngọc Tượng, đến đời Trần đổi tên thành Ngọc Sơn. Tại đây đã có một ngôi đền được xây dựng để tưởng nhớ những anh hùng liệt sĩ đã hy sinh trong cuộc chiến chống lại quân Nguyên Mông. Sau này, đền này đã sụp đổ, nhưng vào thời Vĩnh Hựu nhà Lê (1735 - 1739), chúa Trịnh Giang đã xây dựng cung Thuỵ Khánh và hai quả núi đất được đặt ở bờ phía đông của đảo, gọi là núi Đào Tai và Ngọc Bội. Cuối đời Lê, cung Thuỵ Khánh đã bị phá huỷ bởi Lê Chiêu Thống. Một nhà từ thiện tên là Tín Trai đã xây dựng một ngôi chùa mang tên chùa Ngọc Sơn trên nền cung cấp. Năm Thiệu Trị thứ ba (1843), chùa này đã được một hội từ thiện đổi thành đền Tam Thánh. Hội này đã loại bỏ chuông, xây lại các gian điện chính, các dãy phòng hai bên, đưa tượng Văn Xương đế quân vào thờ và đổi tên thành đền Ngọc Sơn (Văn Xương là một nhân vật trong lịch sử, sau khi qua đời, được thần chú về văn chương khoa cử).
Theo sách 'Hà Thành linh tích cổ lục', từ đời Lê trên đảo Ngọc Sơn đã có một đền thờ Quan Công, người nổi tiếng trong lịch sử Tam Quốc (Trung Quốc). Khi vua Lê và chúa Trịnh sử dụng hồ làm nơi kiểm soát thuỷ quân, đền được xem như một võ miếu. Dân Hà Thành đã đem tượng Đức thánh Trần đến thờ cùng với Quan Công. Tuy nhiên, theo 'Khâm định Việt sử thông giám cương mục', đó là tượng Lê Lai, một công thần nổi tiếng trong lịch sử Lê Lai đã hy sinh để giúp vua.
Năm Tự Đức lần thứ mười tám (1865), nhà nho Nguyễn Văn Siêu tiến hành tu sửa lại đền. Đền sau khi được sửa lại, được bổ sung đất và xây kè đá xung quanh, xây thêm đình Trấn Ba và một cầu từ bờ đông vào được đặt tên là cầu Thê Húc. Trên núi Ngọc Bội, ông đã xây một tháp đá, đỉnh tháp hình như ngọn bút lông, trên thân tháp có khắc ba chữ 'Tả Thanh Thiên' (viết lên trời xanh), ngày nay thường gọi là tháp Bút. Tiếp theo là một cửa cuốn được gọi là đài Nghiên, trên đó đặt một nghiên mực bằng đá hình nửa quả đào bổ đôi theo chiều dọc, có hình ba con ếch đội. Trên nghiên có khắc một bài minh nói về công dụng của nghiên mực xét về phương diện triết học. Người sau này ca ngợi đó là: Nhất đài Phương Đình bút. Từ cổng ngoài đi vào có hai bức tường hai bên, một bên là bảng rồng, một bên là bảng hổ, tượng trưng cho hai bảng cao quý đề cập đến những người thi đỗ, thúc đẩy sĩ tử đi qua càng gắng học hành.
Tên cầu Thê Húc có ý nghĩa là giữ lại ánh sáng đẹp của mặt trời. Cầu Thê Húc dẫn đến cổng đền Ngọc Sơn, còn gọi là Đắc Nguyệt Lâu (lầu được trăng) dưới bóng cây đa cổ thụ, nằm giữa một khu rừng cây um tùm, trông như từ dưới nước nhô lên. Đền chính bao gồm hai ngôi nối liền nhau, ngôi đền đầu tiên về phía Bắc thờ Trần Hưng Đạo và Văn Xương. Tượng Văn Xương đứng, cầm bút, được đặt ở hậu cung trên bệ đá cao khoảng 1m, hai bên có hai cầu thang bằng đá. Phía Nam có đình Trấn Ba (đình chắn sóng - ý chỉ là cột trụ đứng vững giữa làn sóng không lành mạnh trong nền văn hóa đương thời). Đình hình vuông có tám mái, hai tầng mái có 8 cột chống đỡ, bốn cột ngoài bằng đá, bốn cột trong bằng gỗ. Các nhân vật được thờ trong đền ngoài Văn Xương Đế Quân, Lã Động Tân, Quan Vân Trường, Trần Hưng Đạo, còn thờ cả phật A Di Đà. Điều này phản ánh quan niệm Tam giáo đồng nguyên của người Việt.
Sự kết hợp giữa đền Ngọc Sơn và hồ Hoàn Kiếm đã tạo nên một tổng thể kiến trúc Thiên - Nhân hài hoà, tạo vẻ đẹp cổ kính, hài hoà, đối lập cho đền và hồ, gợi lên những cảm xúc hòa mình giữa con người và thiên nhiên. Đền và hồ trở thành dấu vết tái hiện lại những kỷ niệm xưa về lịch sử dân tộc, thức tỉnh niềm tự hào, yêu nước chính đáng, cũng như tâm linh, ý thức mỗi người Việt Nam trước sự trường tồn của dân tộc.
Với người Hà Nội, hồ Hoàn Kiếm không chỉ là nơi để thư giãn, gió mát, chơi thuyền mà còn gắn bó với cuộc sống hàng ngày ở nhiều khía cạnh: đón giao thừa, mọi người đi du xuân quanh hồ. Xuân về, hồ là nơi gặp gỡ của các bạn trẻ đi lễ các đền chùa lân cận. Các cặp đôi trong ngày cưới tìm đến bên hồ Gươm chụp ảnh kỷ niệm. Mùa hè, những buổi chiều nắng oi bức, hồ là điểm đến tuyệt vời để hóng mát. Ai từng nhìn từ trên cao xuống hồ vào mùa thu sẽ không khỏi ngạc nhiên trước cảnh tượng đầy màu sắc và thơ mộng của những cây bằng lăng tím rực rỡ xen giữa những cây phượng cháy đỏ, cơm nguội chín vàng, những cành cây uốn lượn, ôm sát mặt nước hồ biếc xanh như ngọc. Mùa thu, hồ Hoàn Kiếm không chỉ là một cảnh đẹp với những dải liễu bên bờ, nắng vàng lấp lánh trên mặt nước mà còn là điểm đến của người dân thủ đô để xem pháo hoa trong những ngày lễ lớn của dân tộc như ngày 19/8 và 2/9.
Những di tích lịch sử đặc biệt: tháp Rùa, tượng vua Lý Thái Tổ, đền Ngọc Sơn, đài Nghiên, tháp Bút, đền Bà Kiệu, chùa Bà Đá… và những công trình kiến trúc hiện đại, mới được xây dựng hoặc được tu bổ luôn đảm bảo kết hợp hài hoà với cảnh quan vốn có quanh hồ. Hồ Gươm với đền Ngọc Sơn, cầu Thê Húc và tháp Rùa lung linh trong bóng nước là hình ảnh của thủ đô Hà Nội trong mỗi trái tim người Việt Nam.
Mô tả về Hồ Gươm - Mẫu 5
Nếu nhắc đến Thủ đô Hà Nội, không thể không nhắc đến Chùa Một Cột - biểu tượng cho ý chí kiên cường của dân tộc, hay Khuê Văn Các - ngôi trường lớn của tri thức. Nhưng cái tên Hồ Gươm vẫn chiếm trọn lĩnh vực của mọi người. Nằm bên trong lòng của Hà Nội, thành phố lâu đời, nơi được biết đến với tinh thần hòa bình, nơi có Tháp Rùa biểu tượng cho ước mơ hòa bình. Đài Nghiên, Tháp Bút kể về truyền thống văn hóa lâu đời. Chỉ cần ba biểu tượng đó, Hồ Hoàn Kiếm đã trở thành trái tim của Thủ đô!
Hồ Gươm không chỉ là một điểm du lịch đẹp cho Thủ đô, mà còn là dấu ấn lịch sử quan trọng của Thăng Long - Đông Đô – Hà Nội. Để đến Hồ Gươm, bạn có thể đi qua nhiều con đường như Hàng Bài, Tràng Thi, Hàng Khay hoặc các khu phố cổ. Hồ Gươm nằm ở trung tâm của quận Hoàn Kiếm, kết nối giữa các phố cổ với khu phố Tây được người Pháp xây dựng. Hồ Gươm từng là một phần của sông Hồng, nhưng ngày nay đã trở thành một hồ nhỏ. Trong quá khứ, người Pháp đã xây cầu gỗ để vượt qua hồ và dần dần san lấp. Ngày nay, đó là phố cầu Gỗ mà ai cũng biết.
Hồ Gươm đã trải qua nhiều thăng trầm trong lịch sử. Cách đây 600 năm, Hồ Gươm bao gồm hai phần chạy qua nhiều phố cổ. Trước kia, Hồ Gươm được gọi là Hồ Lục Thủy vì nước hồ xanh biếc. Sau này, nó được đổi tên thành hồ Hoàn Kiếm, liên quan đến truyền thuyết về Rùa Vàng trả gươm. Từ thế kỷ XV, hồ được gọi là hồ Hoàn Kiếm và liên kết với truyền thuyết về vua Lê Lợi và Rùa Vàng.
Hồ Gươm là một địa điểm đặc biệt. Màu xanh của nó không giống như bất kỳ hồ nào khác. Màu xanh của Hồ Gươm được tạo ra bởi sự sống của loài tảo. Tuy nhiên, màu xanh đó đang bị ô nhiễm do sự phá hủy của con người. Việc ô nhiễm đã làm mất đi vẻ đẹp tự nhiên của Hồ Gươm. Điều quan trọng là phải giữ cho hồ sạch sẽ để bảo vệ vẻ đẹp của nó và hình ảnh tốt đẹp của Thủ đô Hà Nội.
Ở Hồ Gươm, chúng ta có thể dễ dàng chiêm ngưỡng Đài Nghiên và Tháp Bút, tác phẩm được danh sĩ Nguyễn Văn Siêu đặt ra từ năm 1864. Tháp Bút được khắc ba chữ 'Tả Thanh Thiên', ý nghĩa 'Viết lên bầu trời xanh', hiện nay thường được gọi là Tháp Bút. Đài Nghiên, một cửa cuốn có tên là Đài Nghiên, trên đó có một nghiên mực đặt bằng đá hình nửa quả đào bổ đôi theo chiều dọc, ba chân kê nghiên là hình tượng ba con ếch. Có ba con ếch để nhắc nhở chúng ta không nên kiêu ngạo, như trong câu chuyện Ếch ngồi đáy giếng và để thể hiện khát vọng hòa bình, tinh thần học thuật của dân tộc Việt Nam. Một điểm đặc biệt giữa Tháp Bút và Đài Nghiên là vào buổi trưa hè, từ cổng ra vào có hai bức tường đứng hai bên, cả hai bức tường cao quý ấy đều khắc tên những người đỗ đạt, thúc đẩy sĩ tử cố gắng học tập. Bước vào sâu hơn, chúng ta gặp Cầu Thê Húc, được xây bằng gỗ và sơn màu đỏ, được thiết kế cong cong như hình con tôm, hướng về phía Đông để đón ánh sáng mặt trời buổi sáng.
Hồ Gươm được du khách coi là một điểm đến nổi tiếng. Xung quanh hồ là những loài cây lộng lẫy như cây phượng, cây bằng lăng, cây liễu sư. Ngoài ra, có nhiều loài hoa được trồng và sắp xếp thành hình chữ ở bờ hồ. Ngày nay, du khách trong và ngoài nước, cũng như người dân Hà Nội thường tới Hồ Gươm để dạo chơi. Họ chụp ảnh, tán dóc và cảm thấy thư thái... Đây không chỉ là nơi dành cho du khách, mà còn là nơi dành cho mọi người, từ người già chơi cờ, đến các bác, cô thì tập thể dục, và đứa trẻ đến chơi và tận hưởng không khí trong lành. Từ Hồ Gươm, chúng ta có thể nhìn thấy nhiều điểm nổi tiếng khác của Hà Nội như Tượng đài Lý Thái Tổ, Bưu điện Hà Nội với đồng hồ cổ kính, và các khu phố cổ...
Mời nhau ngắm cảnh Hồ Gươm,
Chiêm ngưỡng cầu Thê Húc, chùa Ngọc Sơn,
Tháp Bút, Đài Nghiên đâu mòn phai,
Người nào tạo dựng nên huyền thoại này?
Dù Hồ Gươm có từ thế kỉ nào, dù có nhiều tên gọi khác nhau, nhưng đối với tôi, Hồ Gươm là một phần không thể thiếu trong trái tim.
Mô tả về Hồ Gươm - Mẫu 6
Hà Nội! Không chỉ là thủ đô của Việt Nam. Không chỉ là trung tâm chính trị quan trọng. Đây là một điểm đến lịch sử liên quan đến những đau thương, những dấu vết chiến tranh không thể phai nhòa. Khi nói đến Hà Nội, người dân ở đây luôn để lại ấn tượng đẹp đẽ trong lòng mỗi người Việt Nam. Những địa danh, những hình ảnh tại Thăng Long luôn là điểm đến mà ai cũng muốn trải nghiệm, khám phá. Trong đó, Hồ Gươm là một phần không thể thiếu.
Hồ Gươm không chỉ là một địa điểm du lịch nổi tiếng ở Hà Nội, mà còn là một di tích lịch sử quan trọng của đất nước. Nó liên quan đến truyền thuyết Lê Lợi và cuộc khởi nghĩa Lam Sơn cùng với cây cung vàng đã giúp Việt Nam giành lại độc lập từ tay quân Minh xâm lược. Câu chuyện về con rùa và cây gươm của Lê Lợi đã tạo ra cái tên 'Hồ Gươm' hay 'Hồ Hoàn Kiếm' ngày nay thay cho tên 'Hồ Lục Thủy' trước đây. Trên hồ có hai hòn đảo: đảo Ngọc và đảo Rùa. Đầu thế kỷ 19, một ngôi chùa đã được xây trên đảo Ngọc được gọi là chùa Ngọc Sơn. Sau này, chùa này đã được đổi tên thành Đền Ngọc Sơn.
Hồ Gươm là một hồ nước ngọt tự nhiên ở Hà Nội. Với diện tích 12ha, nước hồ luôn xanh ngắt quanh năm. Hồ này nằm ở vị trí kết nối giữa khu phố cổ với các khu phố Tây được quy hoạch bởi người Pháp. Khi đến thăm Hồ Gươm, không thể không thấy tháp Rùa, một biểu tượng của nó. Tháp Rùa là một kiến trúc mang tính lịch sử và thiêng liêng đối với người dân Hà Nội và cả Việt Nam.
Hồ Gươm đã trải qua nhiều biến cố lịch sử và vẫn tồn tại qua thời gian. Đây là điểm đến quan trọng của nhiều du khách khi đến Hà Nội vì giá trị lịch sử và kiến trúc của nó.
Đối với người dân Hà Nội, Hồ Gươm không chỉ là nơi thư giãn mà còn là biểu tượng tinh thần của thành phố. Nó là một phần không thể thiếu trong lịch sử và văn hóa của Hà Nội.
Do đó, các sự kiện quan trọng của đất nước thường được tổ chức và diễn ra tại đây. Ngoài ra, với nước hồ trong xanh tạo cảm giác nhẹ nhàng, thoải mái mỗi khi hè đến. Dù Hà Nội có nhiều ngày nắng nóng, nhưng khi đến bờ hồ Hoàn Kiếm, không gian vẫn luôn mát mẻ và thoải mái. Đây cũng là lý do khiến Hồ Gươm luôn đông người mỗi khi mùa hè đến. Ngày nay, Hồ Gươm là điểm đến lý tưởng của sinh viên và các bạn trẻ, bởi đây là nơi tập trung nhiều du khách nước ngoài, giúp họ nâng cao khả năng giao tiếp với người nước ngoài.
Tóm lại, Hồ Gươm không chỉ là danh lam thắng cảnh và di tích lịch sử, mà còn là biểu tượng quan trọng của Hà Nội và người dân nơi đây. Đây là nơi du lịch, thư giãn, và học tập của mọi người. Hãy đến với Hồ Gươm để trải nghiệm và cảm nhận vẻ đẹp và ý nghĩa của nó.
Đất nước Việt Nam được ưu đãi với nhiều danh lam thắng cảnh đẹp. Một trong số đó là Hồ Gươm, điểm đến không thể bỏ qua khi du lịch Hà Nội.
Hồ Gươm không chỉ đẹp về cảnh quan mà còn mang trong mình giá trị lịch sử và tinh thần của người Hà Nội. Đây là điểm đến tự hào của thành phố và cả đất nước.
Hồ Gươm không chỉ đẹp với mặt nước xanh biếc và bóng liễu thướt tha, mà còn là di sản lịch sử quý báu của người Việt Nam. Đây là một trong những danh lam thắng cảnh đặc biệt của Hà Nội.
Trong việc thuyết minh về điểm tham quan này, không thể không đề cập đến lịch sử hình thành và tồn tại của hồ. Hồ Gươm đã tồn tại từ rất lâu, cách đây khoảng 6 thế kỷ, và ngày nay nó trải dài từ phố Hàng Đào qua Hai Bà Trưng, Lý Thường Kiệt đến phố Hàng Chuối. Màu nước hồ xanh biếc quanh năm, vì vậy Hồ Gươm còn được biết đến với tên Hồ Lục Thủy.
Vào thế kỷ XV, Hồ Gươm đã được đổi tên thành Hồ Hoàn Kiếm, liên quan đến truyền thống trả gươm thần cho con rùa vàng của vua Lê Lợi, người dẫn đầu cuộc khởi nghĩa Lam Sơn chống lại quân Minh. Truyền thuyết kể rằng, trong thời kỳ bị bắt nô, nhân dân ta phải chịu nhiều sự bạo hành từ quân Minh, khiến cuộc sống trở nên khốn khổ. Khi Lê Lợi (hay vua Lê Thái Tổ) tiến hành cuộc khởi nghĩa của Lam Sơn, có một ngư dân phát hiện một thanh gươm và một cái chuôi ở trong rừng. Khi ghép lưỡi gươm vào chuôi, thanh gươm phát ra ánh sáng. Chiếc gươm này đã theo Lê Lợi trong suốt cuộc kháng chiến chống lại quân Minh. Khi Lê Lợi lên ngôi và định đô tại Thăng Long, trong một lần ra thuyền trên Hồ Lục Thủy, một con rùa đột nhiên hiện ra. Rùa cất tiếng nói “Xin vua hãy trả lại gươm cho thần” Lê Thái Tổ hiểu được ý của rùa, rút gươm từ vỏ, khi gươm được giơ lên, nó bay về phía con rùa. Rùa lấy gươm rồi lặn xuống đáy hồ, từ đó Hồ Lục Thủy được đổi tên thành Hồ Hoàn Kiếm hay Hồ Gươm. Truyền thuyết này đã phản ánh lòng yêu chuộng hòa bình và căm ghét chiến tranh của người dân Hà Nội và người Việt Nam nói chung.
Rùa là một trong bốn loài vật linh thiêng trong văn hóa dân gian. Loài rùa quý hiếm này vẫn sinh sống trong lòng hồ, đôi khi nổi lên mặt nước, mang lại may mắn cho du khách nào có dịp thấy chúng.
Hồ Gươm có hai hòn đảo, đảo Ngọc và đảo Rùa. Đầu thế kỷ XIX, người ta đã xây dựng một ngôi chùa trên đảo Ngọc, được gọi là Chùa Ngọc Sơn. Sau đó, chùa không còn thờ phật nữa mà chuyển sang thờ thần Văn Xương Đế Quân nên được gọi là Đền Ngọc Sơn.
Du khách sẽ được trải nghiệm vẻ đẹp của cảnh quan thiên nhiên tuyệt vời. Trên Hồ Hoàn Kiếm, có cây cầu Thê Húc dẫn vào Đền Ngọc Sơn. Cây cầu được thiết kế cong cong hình vòng cung, rất đẹp mắt, là lối duy nhất dẫn du khách vào Đền Ngọc Sơn.
Trong việc thuyết minh về danh lam thắng cảnh này, chúng ta không thể quên hình ảnh của rặng liễu, những hàng lộc vừng thơ mộng, rủ bóng quanh mặt hồ. Xung quanh bờ hồ được trang trí với nhiều loại hoa, cây cảnh tạo nên một danh lam thắng cảnh lung linh của Hà Nội. Hình ảnh Hồ Gươm như một tấm gương xinh đẹp giữa thành phố đã in sâu vào lòng người dân Hà Nội hàng thế hệ. Người dân Hà Nội thường tập thể dục vào buổi sáng quanh khu vực hồ, đặc biệt là vào mùa hè. Cảm giác yên bình, tiếng chim hót líu lo trên mặt hồ xanh biếc tạo ra cảnh quan thơ mộng, khiến cho Hồ Gươm trở nên sinh động và sôi động hơn.
Mặc dù không phải là hồ lớn nhất ở thủ đô, nhưng với nguồn gốc đặc biệt, Hồ Gươm từ lâu đã trở thành một phần của cuộc sống và tinh thần của nhiều người. Nằm ở trung tâm của một khu phố cổ kính, Hồ đã tạo ra một không gian đủ rộng cho các hoạt động văn hóa địa phương. Hồ không chỉ đẹp mà còn mang trong mình ý nghĩa về khát khao hòa bình.
Không có từ ngữ nào có thể diễn đạt hết vẻ đẹp của Hồ Gươm khi thuyết minh về nó. Hồ Gươm là điểm hội tụ, là điểm gặp gỡ của du khách suốt bốn mùa. Mùa xuân với lễ hội truyền thống và sắc hoa rực rỡ. Mùa hạ với gió mát, thổi đi nắng oi bức của phố phường, tiếng ve râm ran trên những cành cây, mời gọi mùa hè. Mùa thu với màn sương huyền ảo, cành cây rủ nhau vào gió, làm say lòng bao nhà nhiếp ảnh tài hoa. Mùa đông với những cơn mưa lá vàng, bước chân nhẹ nhàng trên thảm lá rơi, cảm nhận sự se lạnh và những giọt mưa phùn nhẹ nhàng.
Hồ Gươm không chỉ mang nét đẹp cổ kính mà còn có vẻ đẹp hiện đại, là một danh lam thắng cảnh tuyệt vời của nước ta. Qua bao thăng trầm của lịch sử phát triển, Hồ Gươm vẫn giữ được vẻ đẹp và tinh tế, trở thành điểm đến hấp dẫn cho du khách trong và ngoài nước. Bất kỳ mùa nào, Hồ Gươm cũng là biểu tượng về lòng yêu nước và khát khao hòa bình của con người Việt Nam.
Truyền thuyết về Hồ Gươm mang đến cho chúng ta những câu chuyện ý nghĩa về lịch sử và văn hóa. Hồ Gươm không chỉ là một hồ nước bình thường mà còn là biểu tượng của sự giao thoa giữa quá khứ và hiện tại, giữa truyền thống và hiện đại. Hồ Gươm luôn là một điểm đến đầy sức hút và ý nghĩa cho mọi người.
Mặt nước của Hồ Gươm vẫn rực rỡ dưới ánh nắng,
Hương thơm của hoa thủ đô ngát khắp không gian...
Đó là những lời ca hát đầy tự hào về một danh lam thắng cảnh tại trung tâm của thủ đô Hà Nội - Hồ Gươm.
Cách đây khoảng 6 thế kỷ, Hồ Gươm strải dài từ phố Hàng Đào, qua Hai Bà Trưng, Lý Thường Kiệt tới phố Hàng Chuối, liên kết với sông Hồng. Màu nước xanh biếc quanh năm đã khiến cho Hồ Gươm được biết đến với cái tên Hồ Lục Thuỷ.
Theo truyền thống, vào thế kỷ 15, hồ đã được đổi tên thành hồ Hoàn Kiếm, kỷ niệm về việc trả gươm thần cho Rùa Vàng, kỷ niệm về chiến thắng 10 năm của dân tộc Việt Nam chống lại quân Minh (1417 - 1427) dưới sự lãnh đạo của vua Lê Lợi. Truyền thuyết kể rằng, khi Lê Lợi khởi nghĩa ở Lam Sơn (Thanh Hóa), ông đã tìm được một lưỡi gươm, sau đó nhặt được một cái chuôi. Gươm quý này đã ở bên cạnh Lê Lợi trong suốt cuộc chiến chống lại quân Minh. Khi lên ngôi, trong một buổi đi chơi thuyền trên hồ Lục Thuỷ, vua Lê Thái Tổ bất ngờ gặp một con rùa. Ngài rút gươm ra và nắm lấy, gươm liền bay về phía con rùa. Rùa ngậm gươm lặn xuống đáy hồ, và từ đó hồ Lục Thuỷ được đổi tên thành hồ Hoàn Kiếm (trả gươm) hoặc hồ Gươm.
Cũng vào thời kỳ Lê, hồ cũng được sử dụng làm nơi huấn luyện cho thuỷ quân, nên thường được gọi là hồ Thuỷ Quân.
Trên lòng hồ, có hai hòn đảo: Đảo Ngọc và Đảo Rùa. Vào cuối thế kỷ 16, nhà Trịnh đã xây dựng phủ Chúa tại phường Báo Thiên (nay là Nhà Thờ Lớn) và gần hồ tại phố Thợ Nhuộm, họ đặt tên cho hai phần của hồ là Hữu Vọng và Tả Vọng. Sau đó, Trịnh Doanh đã làm đầy bờ hồ, đối diện với đảo Ngọc, một gò đất được gọi là gò Ngọc Bội, còn trên đảo Rùa xây dựng dinh Tả Vọng. Khi chế độ của Trịnh suy yếu, Lê Chiêu Thống đã phá hủy tất cả những công trình được xây dựng bởi họ Trịnh. Vào đầu thế kỷ 19, một ngôi chùa được xây dựng trên đảo Ngọc và được gọi là chùa Ngọc Sơn. Không lâu sau đó, chùa đã được chuyển từ thờ Phật sang thờ thần Văn Xương và Trần Hưng Đạo, và được đổi tên thành đền, hay đền Ngọc Sơn như ngày nay. Vào năm 1864, nhà nho Nguyễn Văn Siêu đã thực hiện việc sửa sang lại cảnh quan của đền. Trên gò Ngọc Bội, ông đã xây dựng một ngọn tháp hình bút, được gọi là tháp Bút ngày nay.
Mặc dù không phải là hồ lớn nhất trong thủ đô, nhưng hồ Hoàn Kiếm đã trở thành một phần của cuộc sống và tâm trí của nhiều người. Nằm ở trung tâm của một quận với những khu phố cổ hẹp, hồ Hoàn Kiếm đã mở ra một không gian đủ lớn cho các hoạt động văn hóa cộng đồng. Hồ có nhiều cảnh đẹp. Và quan trọng hơn, hồ liên quan đến lịch sử, là biểu tượng của mong ước hòa bình (trả gươm và cầm bút), và văn võ đặc sắc của dân tộc (thanh kiếm dưới đáy hồ và tháp bút viết trên bầu trời). Vì vậy, nhiều nghệ sĩ đã sử dụng hình ảnh của hồ Hoàn Kiếm làm nguồn cảm hứng cho các tác phẩm của họ.
Thuyết minh về Hồ Gươm - Mẫu 9
Mỗi khi tôi trở về thăm thủ đô Hà Nội, tôi luôn muốn ghé ngắm hồ Hoàn Kiếm trước tiên. Nó đã tồn tại ở đây hàng nhiều trăm năm, chứng kiến sự thay đổi của thời gian và dòng chảy lịch sử. Nhưng bề mặt của nó vẫn rạng rỡ như một chiếc gương ngọc, nằm yên bình với vẻ đẹp cổ kính, giữa trung tâm của thủ đô ồn ào và sôi động.
Hồ Gươm, hay còn gọi là Hồ Hoàn Kiếm, là một hồ nước ngọt tự nhiên, nằm trong khu vực của quận Hoàn Kiếm, Hà Nội. Hồ có diện tích khoảng 12 héc ta, khá sâu, với độ sâu trung bình từ 1 đến 1,4 mét, và chiều dài bờ hồ ước tính khoảng 1750 mét. Địa lý của hồ Gươm bắt nguồn từ một phụ lưu của sông Hồng, sau đó mở rộng và đọng lại ở khu vực thấp của thủ đô, tạo nên hồ như ngày nay. Đây được coi là điểm kết nối giữa các khu phố cổ, bao gồm phố Hàng Ngang, Hàng Đào, Cầu Gỗ,... với các khu phố Bảo Khánh, Nhà Thờ, Hàng Bài, Tràng Tiền, được quy hoạch từ hàng trăm năm trước bởi thực dân Pháp.
Hồ Gươm được biết đến với nhiều tên gọi khác nhau. Trước đây, nó được gọi là hồ Lục Thủy vì màu nước xanh như ngọc, vô cùng tuyệt đẹp. Trong thời kỳ của vua Lê và chúa Trịnh, hồ được sử dụng cho việc duyệt quân và luyện binh nên còn được biết đến với các tên gọi khác nhau như hồ Thủy Quân, hồ Tả Vọng, Hữu Vọng. Tên gọi Hoàn Kiếm bắt đầu xuất hiện vào đầu thế kỷ 15, liên quan đến truyền thuyết về việc vua Lê Lợi trả lại thanh gươm báu cho Rùa Thần. Theo câu chuyện cổ xưa, khi dạo chơi trên thuyền rồng ở trung tâm hồ Gươm, bỗng một con Rùa lớn xuất hiện, yêu cầu nhà vua trả lại thanh gươm mà Long Vương đã cho mượn để đánh bại giặc Minh. Lê Lợi đã trả gươm, rùa lấy gươm rồi lặn xuống, từ đó hồ còn được biết đến với tên gọi Hồ Hoàn Kiếm.
Trên hồ, có nhiều di tích lịch sử đáng chú ý. Đầu tiên là Tháp Rùa, là biểu tượng của hồ Gươm, mà ai đến tham quan cũng muốn ghé thăm ít nhất một lần. Tháp Rùa nằm trên một mỏm đất trôi giữa hồ, được xây dựng theo phong cách kiến trúc Pháp, khởi công vào khoảng năm 1884 và hoàn thành vào năm 1886. Với thiết kế độc đáo, tòa tháp cao bốn tầng tạo nên một cảnh quan đặc sắc giữa lòng hồ, yên bình và lặng lẽ, phủ kín rêu phong, chứng tỏ sức sống vững chắc qua bao thăng trầm lịch sử.
Hướng về phía Bắc là đền Ngọc Sơn, trước đây được biết đến với tên Tượng Nhĩ nhưng sau đó được đổi tên trong thời Trần. Đền này dành cho việc thờ thần Văn Xương, người quản lý việc khoa cử và Trần Hưng Đạo. Ngay trước đền là cây cầu Thê Húc cong với lớp sơn đỏ rực rỡ dưới ánh nắng mặt trời, được danh sĩ Nguyễn Văn Siêu xây dựng vào năm 1886. Tên của cây cầu có ý nghĩa là “nơi đậu ánh sáng mặt trời vào buổi sáng sớm”. Sự kết hợp giữa đền Ngọc Sơn và hồ Hoàn Kiếm tạo ra một cảnh quan hài hòa, mang đậm nét cổ kính, thể hiện sự hòa quyện giữa con người và thiên nhiên tươi đẹp.
Quay về phía Đông Bắc, chúng ta sẽ thấy Tháp Bút, cao và uy nghiêm, như muốn viết vài dòng chữ lên bầu trời xanh. Tháp có 5 tầng, đỉnh tháp hình ngọn bút nghiêng lên trời, phần thân bút được khắc ba chữ lớn “Tả Thanh Thiên”. Tháp Bút được xây dựng cùng với Đài Nghiên vào năm 1865, tạo ra một tác phẩm kiến trúc độc đáo, thể hiện tinh thần hiếu học của nhân dân Việt Nam.
Ngoài những công trình kiến trúc lịch sử đã nêu trên, hồ Gươm còn liên quan đến nhiều công trình kiến trúc khác như Tháp Hòa Phong ở phía Đông, đền Bà Kiệu ở phía Đông Bắc (thờ ba vị nữ thần là Liễu Hạnh công chúa, Đệ nhị Ngọc nữ và Đệ tam Ngọc nữ), Thủy Tạ và đền vua Lê,...
Hệ sinh thái của hồ không có gì đặc biệt, tuy nhiên điều đáng lưu ý nhất là Rùa Hồ Gươm. Ban đầu, có tất cả bốn con, nhưng đều đã qua đời, con rùa cuối cùng vào năm 2011. Được đưa lên để chữa trị những vết thương lở loét khắp người, nhưng đến đầu năm 2016, 'cụ Rùa' cuối cùng cũng lìa đời. Đây là hậu quả của việc một số người vô tình xả rác xuống lòng hồ làm ô nhiễm nguồn nước, cộng thêm nạn săn bắt trộm Rùa.
Hồ Gươm mang ý nghĩa vô cùng quan trọng với người dân thủ đô. Nơi đây không chỉ là điểm thưởng thức phong cảnh đẹp mà còn là di tích chứng kiến biết bao sự kiện lịch sử của dân tộc. Hồ mang một giá trị văn hóa tinh thần to lớn, in sâu trong ký ức của người dân Hà Nội. Người ta nói rằng Hà Nội không thể không nhắc đến Hồ Gươm yên bình với Tháp Rùa và đền Ngọc Sơn đậm nét cổ kính. Hiện nay, hồ Gươm đã trở thành điểm du lịch hấp dẫn ngay giữa lòng thủ đô, thu hút rất nhiều du khách đến tham quan.
Tuy không phải là hồ lớn nhất ở thủ đô nhưng với những nét đặc trưng về lịch sử và vẻ đẹp cổ điển, hồ Hoàn Kiếm đã trở thành nguồn cảm hứng bất tận trong thi ca và nhạc họa. Hồ Gươm không chỉ là di tích lịch sử mà còn là danh lam thắng cảnh có giá trị và ý nghĩa tinh thần to lớn đối với người dân Hà Nội. Nếu bạn có cơ hội, hãy đến với Hà Nội, đến với hồ Gươm để cảm nhận vẻ đẹp độc đáo và những dấu ấn xưa cũ tại đây.
Thuyết minh về Hồ Gươm - Mẫu 10
Đất nước ta có nhiều danh lam thắng cảnh đẹp, và Hồ Gươm là một trong số đó. Không thể bỏ qua khi du lịch Hà Nội, Hồ Gươm không chỉ đẹp về cảnh vật, mà còn gắn liền với lịch sử đấu tranh anh dũng của dân tộc ta. Đây là một điểm đến tự hào của người Hà Nội.
Hồ Gươm không chỉ là một danh lam thắng cảnh đẹp mà còn là một di tích lịch sử của đất nước. Trong thời kỳ khó khăn của giặc Minh, Lê Lợi đã dùng thanh gươm thần để kháng chiến và giành chiến thắng, giúp nước ta thoát khỏi ách đô hộ. Sau khi chiến thắng, Lê Lợi đã trả lại thanh gươm thần, và từ đó hồ Tả Vọng được đổi tên thành Hồ Gươm hay hồ Hoàn Kiếm.
Hồ Gươm có hai hòn đảo: đảo Ngọc và đảo Rùa. Vào đầu thế kỷ 19, người ta đã xây dựng Chùa Ngọc Sơn trên đảo Ngọc. Sau đó, chùa không thờ Phật nữa mà chuyển sang thờ thánh Văn Xương và Trần Văn Đạo, đổi tên thành Đền Ngọc Sơn. Năm 1864, Tháp Bút được xây dựng trên gò Ngọc Bội đối diện với đảo Ngọc.
Khi đến Hồ Gươm, du khách sẽ được thưởng thức cảnh vật thiên nhiên tuyệt đẹp, với cầu Thê Húc và đền Ngọc Sơn là điểm nhấn. Cầu Thê Húc có một đoạn cong cong đẹp và là lối duy nhất để vào đền Ngọc Sơn.
Xung quanh hồ Hoàn Kiếm, cảnh vật rất đẹp, với rặng liễu xanh rủ xuống hồ, những ghế đá dành cho du khách nghỉ ngơi, tiếng chim hót líu lo, và mặt hồ xanh biếc. Không chỉ mang hơi thở của lịch sử, thiên nhiên xung quanh hồ cũng rất đẹp.
Ở Hồ Gươm, bạn có thể thấy những người già trẻ, những cặp tình nhân đi dạo, những người tập thể dục... họ đều tận hưởng cảnh đẹp của Hồ Gươm mỗi người một cách riêng biệt, làm cho Hồ Gươm trở nên sôi động hơn.
Hồ Gươm không chỉ là điểm đẹp kết hợp giữa cổ kính và hiện đại mà còn là một trong những danh lam thắng cảnh đặc biệt của đất nước. Vượt qua thời gian, Hồ Gươm vẫn giữ được vẻ đẹp và trở thành điểm đến hấp dẫn cho du khách cả trong và ngoài nước.
Nhắc đến Thủ đô Hà Nội, không thể không kể đến những biểu tượng văn hóa như Chùa Một Cột hay Khuê Văn Các. Tuy nhiên, Hồ Gươm nổi tiếng hơn cả, nằm trong lòng của thành phố với ý nghĩa lịch sử và văn hóa sâu sắc.
Hồ Gươm, với Tháp Rùa và Đền Ngọc Sơn, tượng trưng cho khát vọng hòa bình và văn vật. Đây là trái tim của Thủ đô, là điểm đầu tiên của nhiều chương trình ý nghĩa. Hồ Gươm không chỉ là một điểm du lịch đẹp mắt mà còn là dấu ấn của lịch sử và văn hóa của Hà Nội.
Trước khi giới thiệu về Hồ Gươm, hãy nhìn ra mặt hồ và thưởng thức một đoạn thơ của Tố Hữu. Hồ Gươm không chỉ là vẻ đẹp tự nhiên mà còn là biểu tượng của tâm hồn, truyền thống của dân tộc Việt Nam.
Hồ Gươm không chỉ là nơi mang nét đẹp hiện đại mà còn là biểu tượng của lịch sử và văn hóa Việt Nam. Với Tháp Rùa, Đền Ngọc Sơn, và các điểm nổi bật khác, Hồ Gươm là điểm đến không thể bỏ qua khi đến Hà Nội.
Hồ Gươm, theo tác giả, là hình tượng vật chất của tinh thần Nước từ hàng nghìn năm trước, để chúng ta tự hào về lịch sử dân tộc. Đây là không gian thiêng liêng của Hà Nội và cả nước ta. Diện tích toàn bộ của hồ Gươm là 12ha, dài 700m theo hướng Nam Bắc và rộng 200m theo hướng Đông Tây. Theo những nhà địa chất, Hồ Gươm là món quà từ sông Hồng từ xa xưa, thời sông Cái từ hàng nghìn năm trước.
Trước khi được gọi là Hồ Gươm, nó đã có nhiều tên gọi khác như hồ Hoàn Kiếm. Thời xa xưa, do màu nước xanh quanh năm, nó còn được gọi là hồ Lục Thủy. Trong truyền thuyết, vua Lê Thái Tổ đã có cuộc chiến chống lại quân Minh xâm lược và giành lại độc lập cho nước. Sau đó, khi vua đánh bắt được một thanh gươm và sau đó thấy một con rùa vàng, từ đó hồ được đổi tên thành hồ Hoàn Kiếm hay hồ Trả Gươm như chúng ta thường gọi ngày nay.
Truyền thuyết nói rằng việc trả lại thanh gươm cho rùa là biểu tượng cho khát vọng hòa bình của dân tộc. Khi xua tan giặc, vua quyết định gác lại vũ khí để tập trung vào việc sản xuất, tạo điều kiện cho một cuộc sống hòa bình và thịnh vượng. Hồ Gươm không chỉ là nơi lưu giữ lịch sử mà còn là biểu tượng của niềm tin và hy vọng của dân tộc Việt Nam.
Theo truyền thuyết dân gian, thanh gươm thường được coi là biểu tượng của Lửa. Việc nhúng gươm vào nước thể hiện cho nghi lễ hòa hợp giữa nước và lửa. Hồ Gươm không chỉ là một địa điểm lịch sử mà còn là nơi hòa quyện giữa truyền thuyết và hiện thực, tạo nên một phần không thể thiếu của di sản văn hóa của Việt Nam.
Hồ Gươm từng được biết đến với nhiều tên gọi khác nhau như hồ Hoàn Kiếm và hồ Vọng. Truyền thuyết kể rằng vua đã gửi quân lính để tìm kiếm rùa vàng. Hồ Gươm không chỉ là một kỳ quan tự nhiên mà còn là một phần không thể thiếu của lịch sử và văn hóa Việt Nam.
Sau đó, phần hồ phía bắc được gọi là hồ Tả Vọng, phần phía nam gọi là Hữu Vọng. Hồ Gươm đã từng được sử dụng làm nơi tập luyện thủy quân thời chúa Trịnh và được biết đến với tên hồ Thủy Quân. Ngày nay, hồ Gươm vẫn xanh tươi quanh năm với hàng cây trồng quanh bờ hồ. Một số nhà thơ đã so sánh hồ Gươm như là sóng mắt biếc và hàng cây như hàng mi của đôi mắt người thiếu nữ. Có lẽ quý khách đang nhìn thấy tháp rùa nổi tiếng giữa lòng hồ.
Tháp rùa đã từ lâu trở thành biểu tượng của Hà Nội, mặc dù thực ra nó chỉ được xây vào cuối thế kỷ 19. Tháp được xây trên đảo rùa, nơi rùa hồ Gươm thường đến phơi nắng và đẻ trứng. Đảo này còn được gọi là Quy Sơn, cao hơn mặt nước hồ khoảng 60cm. Một truyền thuyết kể lại rằng trên đảo rùa có một huyệt quý, nơi đưa hài cốt vào sẽ có con cháu vinh quang đời đời. Trong thời kỳ Pháp áp đặt, tháp được đặt tên là tháp Bá Kim, nhưng người dân vẫn gọi nó là tháp Rùa.
Một tên tay sai của thực dân Pháp, Bá Kim, muốn xây tháp trên đảo rùa và đặt hài cốt của cha mẹ vào đó. Tuy nhiên, kế hoạch này đã thất bại và tháp được hoàn thành mà không có hài cốt. Để thưởng công cho Bá Kim, thực dân Pháp đặt tên tháp là tháp Bá Kim, nhưng người dân vẫn gọi nó là tháp Rùa.
Mặc dù truyền thuyết về việc Bá Kim xây tháp để tang hài cốt cha mẹ chỉ là câu chuyện dân gian, nhưng nó vẫn tạo nên sự thiêng liêng và huyền bí của tháp Rùa. Tháp được xây theo hình chữ nhật, có ba tầng và một đỉnh vuông vức. Với lịch sử hơn một thế kỷ, tháp Rùa đã trở thành một phần không thể thiếu của Hà Nội, là biểu tượng của tâm hồn của thành phố.
Tháp Rùa không chỉ là biểu tượng của Hà Nội mà còn là một phần của di sản văn hóa của Việt Nam. Tháp được xây trên đảo rùa, nơi truyền thuyết kể lại về một huyệt quý và tiên xuống tắm. Đền Ngọc Sơn, nơi thờ các liệt sỹ hy sinh trong cuộc kháng chiến chống lại Nguyên Mông, cũng là một phần không thể thiếu của quần thể kiến trúc xung quanh hồ Gươm.
Vào thời Lê Chiêu Thống, nhà nho Tín Trai xây chùa Ngọc Sơn. Sau đó, chùa được chuyển thành đền Tam Thánh thờ Văn Xương Đế Quân và gọi là Đền Ngọc Sơn như ngày nay. Nhà nho Nguyễn Văn Siêu tiến hành tu sửa lại đền vào thời Tự Đức, và kiến trúc hiện đại chủ yếu là từ lần trùng tu này!
Đối với người Hà Nội, hồ Hoàn Kiếm không chỉ là nơi để thư giãn, chơi thuyền mà còn là một phần không thể thiếu trong đời sống hàng ngày. Cảnh đẹp của hồ Hoàn Kiếm thu hút mọi người, từ những đôi tình nhân muốn lưu giữ kỷ niệm đến những người muốn tận hưởng không khí mát mẻ vào những ngày hè oi ả. Hồ Hoàn Kiếm cũng là điểm đến yêu thích của người dân thủ đô vào mùa thu, khi họ có thể chiêm ngưỡng pháo hoa nhân những ngày lễ lớn.
Ngày nay, Hồ Gươm vẫn là điểm đến phổ biến của du khách trong và ngoài nước. Việc bảo vệ và giữ gìn hồ Gươm là trách nhiệm của chúng ta, để nó mãi mãi là niềm tự hào của đất nước.
Thuyết minh về Hồ Gươm - Mẫu 12
Hồ Gươm nước biếc mây trôi
Lá reo đón gió, hoa cười ngậm trăng
Trấn Ba Đình đứng ngàn năm
Tháp rùa cổ kính rêu phong nét mờ
Bốn mùa như một bài thơ
Cúc Thu, gió Hạ, nụ tơ Xuân hồng
Người đi lòng vẫn như lòng
Hẹn nhau mai mốt về cùng Hồ Gươm”.
Hồ Gươm với người dân Việt là một nơi gần gũi và thu hút du khách bởi vẻ đẹp thanh thoát và sự cổ kính, phong trần.
Hồ Gươm là một hồ nước ngọt tự nhiên nằm ở trung tâm Hà Nội, có lịch sử lâu dài và nhiều lần đổi tên. Từ hồ Lục Thủy, Thủy Quân, đến Hồ Tả Vọng, Hữu Vọng, rồi Hồ Hoàn Kiếm hay Hồ Gươm.
Thuyết kể về việc Lê Lợi nhận được một chuôi kiếm từ một người chài ở Thanh Hóa, sau đó đánh thắng giặc Minh. Rồi sau đó, một rùa vàng xuất hiện từ dưới đáy hồ và yêu cầu Lê Lợi trả lại chuôi kiếm.
Hồ Hoàn Kiếm từng chiếm một phần lớn diện tích của kinh thành Hà Nội theo bản đồ thời Hồng Đức. Hiện nay, nó là một điểm kết nối quan trọng giữa khu phố cổ và khu phố Tây.
Tháp Rùa là biểu tượng nổi tiếng của Hồ Gươm, được xây dựng từ năm 1884 đến 1886. Tháp có kiến trúc Pháp đặc sắc, được coi là nơi cổ kính và đặc biệt, là nơi để rùa phơi nắng và đẻ trứng.
Đền Ngọc Sơn nằm bên bờ Bắc của hồ, trước đây được gọi là Tượng Nhĩ. Vua Lý Thái Tổ đã đổi tên thành Ngọc Tượng khi chuyển đô ra Thăng Long, và sau đó được đổi tên thành Ngọc Sơn trong thời Trần. Đền này được lập bởi nhà từ thiện Tín Trai trên nền cung Thuỵ Khánh cũ để thờ thần Văn Xương và Trần Hưng Đạo. Đây là nơi linh thiêng, mọi người thường đến đây cầu phúc và may mắn cho gia đình và người thân trong những dịp lễ tết.
Cầu Thê Húc cong như con tôm dẫn đến cổng đền Ngọc Sơn, được xây dựng bởi danh sĩ Nguyễn Văn Siêu vào năm 1865. Tên của cầu có ý nghĩa là 'nơi đậu ánh sáng Mặt Trời buổi sáng sớm'. Cầu Thê Húc là nơi lãng mạn và dễ thương, là nơi tạo duyên cho những đôi trai gái tụ hội.
Trên bờ hướng Đông Bắc của hồ là Đài Nghiên, xây dựng từ năm 1865, bao gồm năm tầng. Trên đỉnh là một ngòi bút đối lên trời, có khắc ba chữ Tả Thanh Thiên, và tầng thứ ba có khắc một bài Bút Tháp Chí. Đây là nơi thiêng liêng với nhiều người sĩ tử, họ thường đến đây để thắp nhang cầu may mắn trước khi thi.
Ở bờ Tây của hồ, gần với đình Nam Hương là đền thờ vua Lê. Đền có tượng vua Lê Thái Tổ đứng trên trụ cao, tay cầm thanh kiếm như phóng xuống mặt hồ. Bức tượng oai phong lẫm liệt với khí thế của một bậc đế vương, gợi nhắc đến những chiến thắng oai hùng của nhà Lê xưa. Bờ hồ là nơi tổ chức các trò chơi và du khách có thể mua những món quà lưu niệm với giá cả phải chăng. Con người nơi đây thân thiện và hiếu khách.
Hồ Gươm không chỉ là nơi đẹp về phong cảnh mà còn là biểu tượng của dân tộc và là nguồn cảm hứng lãng mạn cho những người nghệ sĩ. Như Nguyễn Khuyến đã viết:
Thủ đô Hà Nội có Hồ Gươm
Nước xanh màu biếc như pha mực
Bên bờ hồ thơ mộng là Tháp Bút
Viết lên trời cao những khúc ca...
Hồ Gươm thực sự là một điểm tham quan nổi tiếng của miền Bắc. Người ta có thể đến và rời đi, nhưng trong tâm hồn họ vẫn luôn mang nét thanh tao của nơi này.