Minamino với Red Bull Salzburg năm 2018 | |||
Thông tin cá nhân | |||
---|---|---|---|
Tên đầy đủ |
南野 拓実 (みなみの たくみ) Minamino Takumi | ||
Ngày sinh | 16 tháng 1, 1995 (29 tuổi) | ||
Nơi sinh | Izumisano, Ōsaka, Nhật Bản | ||
Chiều cao | 1,74 m (5 ft 9 in) | ||
Vị trí |
Tiền vệ tấn công Tiền đạo | ||
Thông tin đội | |||
Đội hiện nay | Monaco | ||
Số áo | 18 | ||
Sự nghiệp cầu thủ trẻ | |||
Năm | Đội | ||
2004–2017 | Sessel Kumatori FC | ||
2007–2009 | U-15 Cerezo Osaka | ||
2009–2012 | U-18 Cerezo Osaka | ||
Sự nghiệp cầu thủ chuyên nghiệp* | |||
Năm | Đội | ST | (BT) |
2012–2014 | Cerezo Osaka | 62 | (7) |
2015–2020 | Red Bull Salzburg | 136 | (42) |
2020–2022 | Liverpool | 30 | (4) |
2021 | → Southampton (mượn) | 10 | (2) |
2022– | Monaco | 47 | (10) |
Sự nghiệp đội tuyển quốc gia | |||
Năm | Đội | ST | (BT) |
2011 | U-17 Nhật Bản | 4 | (1) |
2012 | U-20 Nhật Bản | 8 | (5) |
2016 | U-23 Nhật Bản | 3 | (1) |
2015– | Nhật Bản | 58 | (20) |
Thành tích huy chương | |||
*Số trận ra sân và số bàn thắng ở câu lạc bộ tại giải quốc gia, chính xác tính đến 4 tháng 5 năm 2024 ‡ Số trận ra sân và số bàn thắng ở đội tuyển quốc gia, chính xác tính đến 28 tháng 3 năm 2024 |
Minamino Takumi (Nhật:
Sự nghiệp câu lạc bộ
Trước khi trở thành cầu thủ chuyên nghiệp
Khi còn học tiểu học, anh là một thành viên của đội bóng Sessel Kumatori FC. Đồng đội khi ấy của anh là Muroya Sei. Năm 2007, sau rất nhiều lời đề nghị từ các học viện đào tạo bóng đá, khi lên cấp 2, anh đã gia nhập đội U-15 Cerezo Osaka.
Năm 2009, đội của anh đã giành được vị trí thứ 8 tại Giải bóng đá thiếu niên Nhật Bản (U-15) lần thứ 24, tại đây anh cũng ghi được danh hiệu vua phá lưới với 8 bàn thắng.
Năm 2010, anh được lên đội U-18 Cerezo Osaka. Tại giải đấu Takamado Cup U-18 năm 2010: Prince League (khu vực Kansai), trong trận đấu đầu tiên anh đã đóng góp cú hat-trick vào chiến thắng của đội trước đội bóng trường Trung học Khoa học và Công nghệ thành phố Kobe, sau đó đội của anh đã giành được vị trí đầu tiên mà không thua một trận nào.
Năm 2011, tại giải đấu Takamado Cup U-18 2011: Premier League, anh xếp vị trí thứ 4 trong bảng xếp hạng vua phá lưới (khu vực phía Tây) với 9 bàn thắng. Ngoài ra, tại Giải vô địch bóng đá trẻ J-League (J Youth Cup) lần thứ 19, anh đã ghi được 13 bàn thắng sau 8 trận đấu và trở thành vua phá lưới.
Tháng 8 năm 2012, anh cùng với Akiyama Daichi có suất trong đội 1 khi đang còn được đăng kí chơi trong đội loại 2 (Nhật Bản có 6 loại đội bóng. Đội loại 2 để chỉ đội U-18 hoặc đội bóng trường THPT). Trận đấu chính thức đầu tiên của anh gặp đội Omiya Ardija tại vòng 32 J1 League. Trong trận cuối cùng tại J1 League gặp Kashikawa Frontale, anh lần đầu tiên được ra sân chính thức từ đầu và chơi suốt 90 phút. Bàn thắng chính thức đầu tiên của anh được ghi trong trận gặp Shimizu S-Pulse tại vòng 4 Cúp Hoàng đế 2012. Cùng năm, tại giải đấu Takamado Cup U-18 2012: Premier League, anh ghi được 16 bàn thắng và xếp thứ 2 trong BXH vua phá lưới.
Cerezo Osaka
Minamino đã thi đấu 62 trận cho Cerezo Osaka trong J1 League, đồng đội với Diego Forlán, nhưng đội bóng đã xuống hạng vào mùa giải cuối cùng của anh.
Năm 2013, anh được thăng hạng lên đội một cùng với các cầu thủ Akiyama Daichi, Okada Takeru và Kogure Daiki. Anh nhận áo số 13 từ cầu thủ Kakitani Yoichiro. Anh được lựa chọn vào đội hình xuất phát ngay từ trận đấu mở màn gặp Albirex Niigata. Điều này là lần đầu tiên trong lịch sử CLB Cerezo Osaka có một cầu thủ mới tốt nghiệp trung học được chọn vào đội hình xuất phát ở trận mở màn. Anh ghi bàn đầu tiên tại J1 League trong trận gặp Júbilo Iwata ở vòng 14 và lập kỷ lục là cầu thủ trẻ tuổi nhất ghi bàn tại J1 League cho Cerezo Osaka (18 tuổi 5 tháng 20 ngày), vượt qua kỷ lục cũ do Okubo Yoshito giữ trước đó.
Năm 2014, với những thành công của mùa giải trước, kỳ vọng vào anh và CLB rất lớn, nhưng họ không thể cải thiện kết quả từ đầu mùa. Sau nhiều lần thay đổi HLV, CLB chỉ đứng thứ 17/20 vào cuối mùa và phải xuống chơi ở J2 League. Anh kết thúc mùa với một kết quả không như ý, chỉ ghi được 2 bàn thắng và nhận 2 thẻ đỏ (1 trong trận gặp Pohang Steelers tại AFC Champions League, 1 trong trận gặp Kawasaki Frontale tại J1 League).
Red Bull Salzburg
Câu lạc bộ Red Bull Salzburg đã theo dõi Minamino trong một năm rưỡi trước khi ký hợp đồng với anh vào ngày 7 tháng 1 năm 2015. Bản hợp đồng kéo dài đến năm 2018 với tùy chọn gia hạn thêm một năm. Ngày 6 tháng 1 năm 2015, Osaka xác nhận việc chuyển nhượng Minamino đến Red Bull Salzburg ở Bundesliga Áo đã được hoàn tất.
Tại Red Bull Salzburg, Minamino đã được trao áo số 18. Vào ngày 13 tháng 2 năm 2015, anh ra mắt trong trận gặp SC Wiener Neustadt ở vòng 20, đóng vai trò tiền vệ cánh phải. Anh cũng đã tham gia trận đấu châu Âu đầu tiên vào ngày 26 tháng 2, gặp Villarreal trong lượt về vòng 32 UEFA Europa League, Salzburg thua 1-3 (tổng 2-5 sau hai lượt) và Minamino chỉ ra sân trong hiệp 1 trước khi được thay bởi Felipe Pires. Vào ngày 4 tháng 3 năm 2015, anh ghi được 2 bàn vào lưới FC Admira Wacker Mödling ở vòng 23, đây là hai bàn thắng đầu tiên của anh kể từ khi chuyển đến Áo.
Trong mùa giải 2015-2016, Minamino đã ghi bàn trong trận đầu tiên của mình tại Cúp bóng đá Áo vào ngày 18/7, gặp Deutschlandsberger SC ở vòng 1. Vào ngày 27/8, anh tham gia trận gặp FC Dinamo Minsk tại UEFA Europa League, ghi bàn mở tỷ số nhưng Red Bull Salzburg đã bị loại ở vòng play-off. Trong mùa giải này, anh góp công vào 10 bàn thắng giúp đội chiến thắng.
Trong mùa giải 2016-2017, trong trận gặp SV Ried tại vòng 22 vào ngày 19/2/2017, Minamino đã có một cú hat-trick và kiến tạo một bàn, đây là cú hat-trick đầu tiên của anh trong sự nghiệp chuyên nghiệp. Trong hai mùa giải liên tiếp, anh đã ghi được ít nhất 10 bàn thắng.
Trong mùa giải 2017-2018, anh ghi bàn trong trận gặp Hibernians FC ở vòng loại thứ 2 UEFA Champions League. Vào ngày 22/7, anh ghi bàn trong trận đấu mở màn Bundesliga Áo với Wolfsberger AC. Ngày 5/11, trong trận gặp SKN St. Pölten ở vòng 14, anh phải rời sân vì chấn thương nhưng đã ghi được 2 bàn. Vào ngày 14/2/2018, anh ghi bàn vào lưới Real Sociedad trong trận lượt đi vòng 32 UEFA Europa League.
Trong mùa giải 2018-2019, Minamino ghi bàn trong trận gặp FC Admira Wacker Mödling ở vòng 6 vào ngày 2/9/2018. Vào ngày 8/11, anh có màn trình diễn xuất sắc khi lập hat-trick chỉ trong hiệp 1 trong trận gặp Rosenborg BK ở lượt trận thứ 4 vòng bảng UEFA Europa League.
Liverpool
Vào tháng 12 năm 2019, Liverpool đã đồng ý thỏa thuận ký hợp đồng với Minamino từ Salzburg và chính thức kích hoạt điều khoản giải phóng hợp đồng trị giá 7,25 triệu bảng Anh vào tháng 1 năm 2020. Christoph Freund, giám đốc thể thao của Salzburg nhận định rằng 'Các CLB lớn đã theo dõi anh ấy và nếu tôi là họ, tôi sẽ không ngần ngại ký hợp đồng với anh ấy. Takumi đã sẵn sàng cho một chặng đường mới từ tháng 1.' Ngày 18 tháng 12 năm 2019, anh đã hoàn tất buổi kiểm tra y tế tại Liverpool để chuẩn bị cho việc chuyển đến CLB này vào ngày 1 tháng 1 năm 2020. Minamino khoác áo số 18 tại Liverpool, đây là số áo đã từng được mặc bởi Dirk Kuijt, John Arne Riise và Michael Owen.
Southampton (cho mượn)
Vào ngày 1 tháng 2 năm 2021, Minamino đã chuyển đến Southampton theo dạng cho mượn đến hết mùa giải 2020-2021. Anh là cầu thủ Nhật Bản thứ hai khoác áo cho Southampton, sau Yoshida Maya.
Sự nghiệp đội tuyển quốc gia
Năm 2009, anh được triệu tập vào Đội tuyển U-15 quốc gia Nhật Bản và tham dự vòng loại AFC U-16 Championship 2010. Anh đã có cú hat-trick trong trận đấu với Philippines. Tại vòng chung kết, U-15 Nhật Bản lọt vào top 4, còn Minamino đã ghi 5 bàn và trở thành vua phá lưới của giải đấu.
Năm 2011, trước khi Giải vô địch bóng đá U-17 thế giới 2011 diễn ra, một bài báo có tiêu đề 'Takumi Minamino, vũ khí bí mật của Nhật Bản' đã được đăng trên trang chủ của FIFA, anh được kỳ vọng là ngôi sao của U-17 Nhật Bản. Tuy nhiên, trước khi bước vào giải đấu, anh không có phong độ tốt nhất và chỉ ghi được 1 bàn, nhưng U-17 Nhật Bản đã lọt vào top 8 đội mạnh nhất sau 18 năm kể từ khi đội làm chủ nhà giải đấu năm 1993.
Năm 2014, tại giải U19 Quốc tế 2014 – Nutifood Cup tổ chức tại Việt Nam vào tháng 1, anh đã được vinh danh với danh hiệu MVP – Cầu thủ xuất sắc nhất giải đấu. Vào tháng 4, anh tham gia trại huấn luyện cùng ứng viên đội tuyển quốc gia Nhật Bản. Anh không được lựa chọn vào đội tuyển tham dự FIFA World Cup 2014, là cầu thủ Nhật Bản đầu tiên không tham dự World Cup ở độ tuổi thanh thiếu niên từ sau Shinji Ono, tuy nhiên anh đã có tên trong danh sách sơ bộ. Tại giải AFC U-19 Championship 2014 tại Myanmar, anh đã chơi xuất sắc khi ghi được 4 bàn sau 4 trận, nhưng cuối cùng U-19 Nhật Bản đã dừng bước ở tứ kết vì quả penalty của chính anh.
Năm 2015, anh được chọn tham gia trận đấu với đội tuyển quốc gia Syria tại vòng loại FIFA World Cup 2018 khu vực châu Á (Vòng 2) diễn ra vào tháng 10, đây là lần đầu tiên anh được góp mặt trong đội tuyển quốc gia. Ngày 13/10, anh đã ra sân trong trận giao hữu với đội tuyển Iran, đánh dấu trận đầu tiên trong màu áo đội tuyển quốc gia.
Năm 2016, anh được triệu tập tham dự giải AFC U-23 Championship 2016, đây cũng là vòng loại cho giải bóng đá nam tại Thế vận hội Mùa hè 2016. Trong trận gặp U-23 Ả Rập Xê Út ở lượt trận thứ 3 vòng bảng, từ cánh phải, anh đã thành công trong pha rê bóng và kiến tạo để Ideguchi Yosuke ghi bàn. Tại Thế Vận hội Mùa hè 2016, trong trận đầu tiên gặp đội tuyển U-23 Nigeria vào ngày 4/8, anh ghi bàn gỡ hòa, nhưng U-23 Nhật Bản đã phải nhận thất bại 4-5. Anh đã ra sân trong cả 3 trận đấu vòng bảng, nhưng U-23 Nhật Bản đã dừng bước tại đây.
Ngày 11 tháng 9 năm 2018, anh đã ghi bàn đầu tiên cho đội tuyển Nhật Bản tại Kirin Challenge Cup trước đội tuyển Costa Rica. Ngày 12/10, trong trận đấu với đội tuyển Panama, anh đã ghi bàn mở tỷ số ở phút 42. Ngày 16/10, với việc ghi bàn dẫn trước đội tuyển Uruguay và sau đó ghi thêm bàn thắng thứ tư vào phút 66, anh đã ghi bàn trong 3 trận liên tiếp. Việc ghi bàn trong 3 trận liên tiếp kể từ khi HLV mới của đội tuyển quốc gia đã thay đổi, nếu tính từ khi J-League thành lập, chỉ có 3 người đã làm được điều này trong lịch sử, đó là Lopes Wagner vào năm 1997, Okazaki Shinji vào năm 2015 và Minamino là người tiếp theo.
Tháng 1 năm 2019, anh tham dự Cúp bóng đá châu Á 2019. Trong trận bán kết với Iran, vào phút 56, khi Minamino nhận đường chọc khe từ đồng đội, anh đã bị ngã sau va chạm với hậu vệ đối phương. Cầu thủ Iran đã lập tức đứng lại và phản ứng với trọng tài rằng không có lỗi xảy ra và chỉ cho rằng Minamino đã giả vờ ngã. Tuy nhiên, trọng tài không thổi phạt và trận đấu tiếp tục diễn ra. Minamino nhanh chóng đứng dậy để đuổi theo bóng và kiến tạo thành công cho Osako Yuya mở tỷ số. Ngoài đường kiến tạo đó, anh cũng kiếm được một quả penalty và góp công vào bàn thắng còn lại của trận đấu. Trong trận chung kết với đội tuyển Qatar, anh đã ghi bàn mở tỷ số cho mình tại giải đấu, mặc dù đội tuyển Nhật Bản đã thất bại với tỷ số 1-3.
Chuyện ngoài lề
Vào ngày 13 tháng 1 năm 2014, Minamino Takumi đã tham gia 'Lễ Thành Nhân của quận Higashisumiyoshi' tổ chức tại phố mua sắm Komagawa thuộc quận Higashisumiyoshi, Osaka, và đã thử thách kỉ lục Guinness '1 phút high-five (đập tay) liên tục'. Anh đã thực hiện high-five với 182 người, vượt qua kỉ lục thế giới 171 người do Danchou Yasuda – thành viên của bộ ba diễn viên hài 'Yasuda Dai Circus' – đang nắm giữ, và đã được chứng nhận là kỉ lục thế giới. Tuy nhiên, sau đó không lâu, kỉ lục của Minamino đã bị phá vỡ.
Thống kê câu lạc bộ
CLB Trẻ
- 2004 - 2007 Sessel Kumatori FC
- 2007 - 2009 Cerezo Osaka U-15 (泉佐野市立第三中学校 - Trường THCS Izumisano số 3)
- 2010 - 2012 Cerezo Osaka U-18 (興國高等学校 - Trường THPT Kokoku)
- 2012 Cerezo Osaka (Cầu thủ đăng ký trong đội loại 2)
CLB Chuyên nghiệp
- 2013 - 2014 Cerezo Osaka
- 1/2015 - 2019 FC Red Bull Salzburg
- 1/2020 - Liverpool F.C.
- 2021 - Southampton F.C. (mượn)
Cập nhật lần cuối: 6 tháng 4 năm 2021
Thành tích câu lạc bộ | Giải vô địch | Cúp quốc gia | Cúp Liên đoàn | Giải đấu quốc tế | Khác | Tổng cộng | |||||||||
---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|
Câu lạc bộ | Mùa giải | Số áo | Số trận | Bàn thắng | Số trận | Bàn thắng | Số trận | Bàn thắng | Số trận | Bàn thắng | Note | Số trận | Bàn thắng | Số trận | Bàn thắng |
Nhật Bản | J1 League | Cúp Thiên Hoàng | Cúp Liên đoàn | ACL | — | Tổng cộng | |||||||||
Cerezo
Osaka |
2012 | 34 | 3 | 0 | 2 | 1 | — | — | — | — | 5 | 1 | |||
2013 | 13 | 29 | 5 | 1 | 0 | 8 | 3 | — | 38 | 8 | |||||
2014 | 30
|
2 | 3 | 2 | 2 | 2 | 7 | 2 | 42 | 8 | |||||
Tổng cộng | 62 | 7 | 6 | 3 | 10 | 5 | 7 | 2 | — | 85 | 17 | ||||
Áo | Austrian Bundesliga | Cúp Bóng đá Áo | Cúp Liên đoàn | UEFA Europa League
UEFA Champions League |
— | Tổng cộng | |||||||||
FC Red Bull
Salzburg |
2014-15 | 18 | 14 | 3 | 2 | 0 | — | 1 | 0 | EL | — | 17 | 3 | ||
2015-16 | 32 | 10 | 6 | 2 | — | 2 | 1 | EL Play-off | 40 | 13 | |||||
0 | 0 | CL Play-off | |||||||||||||
2016-17 | 21 | 11 | 5 | 3 | — | 4 | 0 | EL | 31 | 14 | |||||
1 | 0 | CL Play-off | |||||||||||||
2017-18 | 28 | 7 | 4 | 1 | — | 1 | 0 | EL Play-off | 44 | 11 | |||||
8 | 2 | EL | |||||||||||||
3 | 1 | CL Play-off | |||||||||||||
2018-19 | 27 | 6 | 5 | 3 | — | 10 | 4 | EL | 45 | 14 | |||||
3 | 1 | CL Play-off | |||||||||||||
2019–20 | 14 | 5 | 2 | 2 | — | 6 | 2 | CL | 22 | 9 | |||||
Tổng cộng | 136 | 42 | 24 | 11 | 39 | 11 | — | 199 | 64 | ||||||
Anh | Ngoại hạng Anh | Cúp FA | Cúp Liên đoàn Anh | UEFA Champions League | Siêu cúp Anh | Tổng cộng | |||||||||
Liverpool F.C. | 2019–20 | 18 | 10 | 0 | 3 | 0 | — | 1 | 0 | — | — | — | 14 | 0 | |
2020–21 | 9 | 1 | 1 | 0 | 2 | 2 | 4 | 0 | 1 | 1 | 17 | 4 | |||
2021–22 | 10 | 2 | 3 | 3 | 5 | 4 | 4 | 0 | 0 | 0 | 22 | 9 | |||
Tổng cộng | 29 | 3 | 7 | 3 | 7 | 6 | 9 | 0 | 1 | 1 | 53 | 13 | |||
Southampton
F.C. (mượn) |
2020–21 | 19 | 10 | 2 | 0 | 0 | 0 | 0 | — | — | — | — | 10 | 2 | |
Tổng cộng sự nghiệp | 237 | 54 | 37 | 17 | 17 | 11 | 55 | 13 | 1 | 1 | 347 | 96 |
Thống kê đội tuyển quốc gia
Các giải đấu đã tham dự:
- Đội tuyển U-15 quốc gia
- 2009 - Vòng loại AFC U-16 Championship 2010
- Đội tuyển U-16 quốc gia
- 2010 - Giải bóng đá quốc tế Montaigu lần thứ 38
- 2010 - AFC U-16 Championship 2010
- Đội tuyển U-17 quốc gia
- 2011 - FIFA U-17 World Cup 2011
- 2012 - Giải bóng đá trẻ quốc tế tại Niigata lần thứ 16
- Đội tuyển U-18 quốc gia
- 2011 - Traditional Winter Tournament Israel 2011
- 2013 - Vòng loại AFC U-19 Championship 2014
- Đội tuyển U-19 quốc gia
- 2014 - U-19 Quốc tế - Nutifood Cup 2014
- 2014 - AFC U-19 Championship 2014
- Đội tuyển U-21 quốc gia
- Đội tuyển U-22 quốc gia
- 2015 - Vòng loại AFC U-23 Championship 2016
- Đội tuyển U-23 quốc gia
- 2016 - AFC U-23 Championship 2016
- 2016 - Giải bóng đá quốc tế Toulon 2016
- 2016 - Bóng đá nam - Thế vận hội mùa hè 2016
- Đội tuyển quốc gia
- 2014 - FIFA World Cup 2014 (chỉ có trong danh sách đăng kí sơ bộ)
- 2015 - Vòng loại FIFA World Cup 2018 khu vực châu Á (Vòng 2)
- 2018 - Kirin Challenge Cup 2018
- 2019 - AFC Asian Cup 2019
- 2019 - Vòng loại FIFA World Cup 2022 khu vực châu Á (Vòng 2)
Số trận ra sân cho đội tuyển quốc gia
Cập nhật lần cuối: 29 tháng 3 năm 2022
Đội tuyển quốc gia Nhật Bản | ||
---|---|---|
Năm | Số trận | Bàn thắng |
2015 | 2 | 0 |
2016 | 0 | 0 |
2017 | 0 | 0 |
2018 | 5 | 4 |
2019 | 15 | 7 |
2020 | 4 | 1 |
2021 | 9 | 4 |
2022 | 4 | 1 |
Tổng cộng | 39 | 17 |
Bàn thắng quốc tế cho đội tuyển quốc gia
- Danh sách bàn thắng và kết quả của Nhật Bản xếp trước.
# | Ngày | Địa điểm | Đối thủ | Tỉ số | Kết quả | Giải đấu |
---|---|---|---|---|---|---|
1. | 11 tháng 9 năm 2018 | Sân vận động Panasonic Suita, Suita, Nhật Bản | Costa Rica | 2–0 | 3–0 | Cúp Kirin 2018 |
2. | 12 tháng 10 năm 2018 | Sân vận động Denka Big Swan, Niigata, Nhật Bản | Panama | 1–0 | 3–0 | |
3. | 16 tháng 10 năm 2018 | Sân vận động Saitama 2002, Saitama, Nhật Bản | Uruguay | 1–0 | 4–3 | |
4. | 4–2 | |||||
5. | 1 tháng 2 năm 2019 | Sân vận động Thành phố Thể thao Zayed, Abu Dhabi, UAE | Qatar | 1–2 | 1–3 | AFC Asian Cup 2019 |
6. | 5 tháng 9 năm 2019 | Sân vận động bóng đá Kashima, Kashima, Nhật Bản | Paraguay | 2–0 | 2–0 | Cúp Kirin 2019 |
7. | 10 tháng 9 năm 2019 | Sân vận động Thuwunna, Yangon, Myanmar | Myanmar | 2–0 | 2–0 | Vòng loại World Cup 2022 |
8. | 10 tháng 10 năm 2019 | Sân vận động Saitama, Saitama, Nhật Bản | Mông Cổ | 1–0 | 6–0 | |
9. | 15 tháng 10 năm 2019 | Sân vận động Pamir, Dushanbe, Tajikistan | Tajikistan | 1–0 | 3–0 | |
10. | 2–0 | |||||
11. | 14 tháng 11 năm 2019 | Sân vận động Dolen Omurzakov, Bishkek, Kyrgyzstan | Kyrgyzstan | 1–0 | 2–0 | |
12. | 13 tháng 11 năm 2020 | Sân vận động Liebenauer, Graz, Áo | Panama | 1–0 | 1–0 | Giao hữu |
13. | 30 tháng 3 năm 2021 | Fukuda Denshi Arena, Chiba, Nhật Bản | Mông Cổ | 1–0 | 14–0 | Vòng loại World Cup 2022 |
14. | 28 tháng 5 năm 2021 | Myanmar | 1–0 | 10–0 | ||
15. | 7–0 | |||||
16. | 7 tháng 6 năm 2021 | Sân vận động Panasonic Suita, Suita, Nhật Bản | Tajikistan | 2–1 | 4–1 | |
17. | 1 tháng 2 năm 2022 | Sân vận động Saitama, Saitama, Nhật Bản | Ả Rập Xê Út | 1–0 | 2–0 |
Danh hiệu
Câu lạc bộ
Cerezo Osaka U-18
- Hạng 1 Takamado Cup U-18: Prince League (khu vực Kansai): 2010
Red Bull Salzburg
- Giải bóng đá vô địch quốc gia Áo: 2014–15, 2015–16, 2016–17, 2017–18
- Cúp bóng đá Áo: 2014–15, 2015–16, 2016–17
Liverpool
- Premier League: 2019–20
- FA Cup: 2021–22
- EFL Cup: 2021-22
- Á quân Champions league: 2021-22
Quốc tế
U-23 Nhật Bản
- Giải vô địch bóng đá U-23 châu Á: 2016
Nhật Bản
- Á quân AFC Asian Cup: 2019
Cầu thủ cá nhân
- - Vô địch giải bóng đá thiếu niên Nhật Bản (U-15) lần thứ 24 (2009)
- Vô địch giải bóng đá U-16 châu Á: 2010
- Vô địch giải AFC U-16 Championship: 2010
- Vô địch giải bóng đá trẻ J-League (J Youth Cup) lần thứ 19 (2011)
- Giải thưởng Tân binh xuất sắc nhất J.League: 2013
- Giải thưởng Cầu thủ xuất sắc nhất Giải U-19 Quốc Tế - Nutifood Cup: 2014
Các thành tích khác
- - Giải thưởng Gương mặt mới tại giải thể thao chuyên nghiệp Nhật Bản: 2013
Thông tin thêm
- 南野拓実 (@takumina0116) - Twitter
Southampton F.C. – đội hình hiện tại |
---|