
Miyawaki Sakura | |
---|---|
Miyawaki Sakura vào năm 2002 | |
Sinh | Kagoshima, Kagoshima, Nhật Bản |
Nghề nghiệp |
|
Năm hoạt động | 2008–nay |
Chiều cao | 160 cm (5 ft 3 in) |
Cân nặng | 15 kg (33 lb) |
Sự nghiệp âm nhạc | |
Thể loại |
|
Năm hoạt động | 2011–nay |
Hãng đĩa |
|
Hợp tác với |
|
Tên tiếng Nhật | |
Kanji | 宮脇 咲良 |
Hiragana | みやわき さくら |
Katakana | ミヤワキ サクラ |
Rōmaji | Miyawaki Sakura |
Tên tiếng Triều Tiên | |
Hangul | 미야와키 사쿠라 |
Romaja quốc ngữ | Miyawaki Sakura |
McCune–Reischauer | Miyawak'i Sak'ura |
Miyawaki Sakura (宮脇咲良), sinh ngày 19 tháng 3 năm 1998, là một nữ ca sĩ, diễn viên, người mẫu, streamer, YouTuber người Nhật Bản. Cô từng là thành viên của nhóm HKT48 và là đội phó của Team KIV thuộc HKT48, đồng thời cũng là thành viên AKB48 thuộc team A. Sakura cũng tham gia vào chương trình Produce 48 với HKT48 và được chọn làm center cho ca khúc chủ đề 'Nekkoya'. Sau đó, cô là thành viên của nhóm nhạc nữ IZ*ONE từ tháng 10 năm 2018 đến tháng 4 năm 2021. Hiện tại, cô là thành viên của nhóm nhạc nữ Le Sserafim, được thành lập bởi Source Music X HYBE và ra mắt vào ngày 2/5/2022.
Tiểu sử
Miyawaki Sakura sinh ra ở Kagoshima và đã theo học tại học viện âm nhạc Shiki Theatre, một trong những học viện âm nhạc hàng đầu ở Kagoshima. Năm 2005, cô bắt đầu tham gia vào đoàn kịch của trường và từng đóng vai chính trong vở kịch 'LION KING' vào năm 2008. Mặc dù gia đình cô không muốn cô theo con đường nghệ thuật, Miyawaki Sakura vẫn quyết tâm theo đuổi ước mơ và gia nhập HKT48 khi mới 13 tuổi.
Sự nghiệp
2011–2014: Gia nhập HKT48 và tham gia Team AKB48
Vào tháng 7 năm 2011, Miyawaki Sakura gia nhập HKT48 với vai trò là thực tập sinh thế hệ đầu tiên. Cô chính thức ra mắt công chúng vào ngày 23 tháng 10 cùng với các thành viên thực tập sinh khác trong sự kiện 'Flying Get' quy mô toàn quốc. Lần biểu diễn đầu tiên của cô diễn ra vào ngày 26 tháng 11 khi đó chỉ mới 13 tuổi.
Vào ngày 4 tháng 3, Sakura được thăng cấp lên Team H cùng với 15 thành viên khác. Cô trở thành thành viên duy nhất của HKT48 được xếp hạng trong cuộc bình chọn Senbatsu Election năm 2012, đạt vị trí 47 (Next Girls). Sau đó, cô được chọn vào đội hình Senbatsu cho single thứ 28 của AKB48 'UZA'.
Sakura tiếp tục được chọn vào đội hình Senbatsu cho single thứ 31 của AKB48 'Sayonara Crawl'. Trong cuộc bình chọn Senbatsu Election năm 2013, cô đạt vị trí 26 (Under Girls) với tổng số phiếu là 25.760. Cô cũng là thành viên của Senbatsu cho single đầu tiên của HKT48 'Suki!Suki!Skip!' và single thứ 2 'Melon Juice'.
Vào ngày 11 tháng 1 năm 2014, tại sự kiện HKT48 Kyushu 7 Prefecture Tour tại Okita, Miyawaki Sakura được thông báo sẽ chuyển sang Team KIV, đội mới thành lập của HKT48 vào thời điểm đó. Sau đó tại sự kiện Đại Cải Tổ của AKB48, cô được thăng chức lên làm đội phó của Team KIV và là thành viên kiêm nhiệm của Team A thuộc AKB48. Cô tiếp tục được chọn vào đội hình Senbatsu cho single thứ 36 của AKB48 'Labrador Retriever'.
Trong năm 2014, cô đạt vị trí thứ 11 trong cuộc bình chọn Senbatsu Election với tổng số phiếu là 45.538. Cô được xem là thành viên trẻ nhất trong đội hình Senbatsu vào thời điểm đó.
Tại AKB48 Janken Taikai, cô được thông báo sẽ đảm nhận vai trò center cho single thứ 38 của AKB48 cùng với Watanabe Mayu, trở thành thành viên đầu tiên của HKT48 được chọn làm center cho single của AKB48.
2015–2017: Thành tựu cá nhân
Vào đầu năm 2015, Miyawaki Sakura được công bố sẽ đóng vai chính trong bộ phim truyền hình của AKB48 'Majisuka Gakuen 4' cùng với Shimazaki Haruka, phim được công chiếu vào ngày 19 tháng 1. Sau đó, cô đạt vị trí thứ 7 trong cuộc bình chọn Senbatsu Election cho single thứ 41 của AKB48 với tổng số phiếu là 81.422.
Miyawaki Sakura ra mắt bộ sách ảnh cá nhân đầu tiên mang tên 'Sakura'. Cùng năm đó, cô cũng thông báo sẽ tiếp tục đóng vai chính trong series Majisuka Gakuen 5.
Vào đầu năm 2016 tại sự kiện AKB48 Request Rour Setlist 2016, vào ngày cuối cùng đã được công bố rằng Miyawaki Sakura sẽ là trung tâm của single thứ 43 (single kỉ niệm 10 năm của AKB48), với sự tham gia của các cựu thành viên Maeda Atsuko, Oshima Yuko, Itano Tomomi, Shinoda Mariko. Trên thảm đỏ, Sakura đã được công nhận với vai trò đại sứ cho Tenmonkan Million Nation 2016 tại Kagoshima.
Ngày 18 tháng 6 tại cuộc bầu cử Senbatsu năm 2016, Sakura đạt vị trí thứ 6 với tổng số phiếu là 78,279 phiếu và đứng thứ 2 trong HKT48 sau Sashihara Rino. Cùng năm đó, cô và Watanabe Mayu được chọn để đóng vai chính trong bộ phim kinh dị 'CROW'S BLOOD' của đạo diễn Darren Lynn Bousman. Sakura cũng trở thành gương mặt đại diện cho CM Gas Saibu tại thành phố Fukuoka thuộc Kyushu. Cô đã bắt đầu sự nghiệp diễn xuất truyền hình với vai trò chính trong 'Doctor-Y'.
Vào năm 2017, Miyawaki Sakura đã có những thành công đáng kể trong lĩnh vực điện ảnh. Tại kì Janken Taikai hằng năm của AKB48, cô đã được thông báo sẽ là diễn viên chính trong bộ phim Cabasuka Gakuen, hay còn gọi là Majisuka Gakuen 6, với nội dung xoay quanh một trường học đối mặt với nguy cơ phá sản. Cô và nhóm bạn đã cùng nhau tìm cách cứu trường bằng cách làm việc tại một quán rượu, một phong cách văn hoá phổ biến ở Nhật Bản.
Sau khi Cabasuka Gakuen kết thúc, ngay trong sự kiện AKB48 Kouhaku Utagassen 2017 đã công bố một bộ phim hợp tác giữa AKB48 và đài TV Akahi mang tên 'Tofu Pro Wrestling', một bộ phim về đấu vật nữ. Miyawaki Sakura được lựa chọn đảm nhận vai trò chính trong phim này. Trong quá trình quay, Sakura đã học và rèn luyện kỹ năng đấu vật chuyên nghiệp. Cũng trong năm đó, khi Kojima Haruna tốt nghiệp, Sakura đã xuất hiện trong PV với vai trò trung tâm, với nội dung từ Tofu Pro Wrestling.
Tại sự kiện năm hằng năm của AKB48, Miyawaki Sakura được công bố sẽ đóng vai trò W-Center cùng với Matsui Jurina cho single 'Negaigoto no Mochigusare', trước khi bầu cử Senbatsu năm 2017 diễn ra.
Tại cuộc bầu cử Senbatsu năm 2017, Sakura đạt vị trí thứ 4 với tổng số phiếu là 82,803, xếp hạng trong top 5 cao nhất từ trước đến nay và là thành viên duy nhất của HKT48 đứng cao thứ hai sau Sashihara Rino.
Cuối năm 2017, Miyawaki Sakura thông báo sẽ phát hành photobook lần thứ hai qua đài radio ANN. Cô cũng đã xuất hiện trên nhiều tạp chí thời trang như Fine boys, B.L.T,... và đại diện cho KaTe CM kẻ mắt. Cô đã được mời sang Trung Quốc để chụp ảnh cho các tạp chí thời trang và tham gia vào một bộ phim trực tuyến của Trung Quốc. Sakura còn là MC của chương trình radio bayFM vào mỗi thứ Tư hàng tuần.
Miyawaki Sakura cũng được đề cử vào top 100 gương mặt đẹp nhất thế giới năm 2017.
Trong giai đoạn từ 2018 đến 2021, Sakura trải qua một bước ngoặt hoàn toàn mới thông qua chương trình Produce 48, trở thành thành viên của nhóm IZ*ONE, tốt nghiệp khỏi HKT48 và quay trở lại Hàn Quốc.

Vào tháng 5 năm 2018, Miyawaki Sakura bắt đầu hoạt động quảng bá Kpop khi tham gia vào chương trình thực tế sống còn Produce 48, và cô được chọn làm center cho ca khúc chủ đề 'Pick Me (내꺼야)' biểu diễn trên sân khấu M Countdown tập 570 vào ngày 10 tháng 5. Cô cũng là thực tập sinh của Produce 48 có số lượng fan Only đông đảo nhất.
Tại cuộc bầu cử Senbatsu năm 2018, Sakura đạt vị trí thứ 3 với tổng số phiếu là 141,106.
Vào ngày 31 tháng 8 năm 2018, khi tập cuối của Produce 48 được phát sóng, Miyawaki Sakura đã chính thức được công nhận với tài năng thanh nhạc xuất sắc của mình và giành vị trí thứ 2 chung cuộc. Cô đảm nhận vai trò Sub Vocal trong nhóm IZ*ONE từ cuộc thi này. Sau 2 năm 6 tháng hoạt động, IZ*ONE chính thức tan rã vào ngày 29 tháng 4 năm 2021 vì 'tài năng thiên bẩm của cô', và sau đó Sakura cùng Nako và Hitomi trở về Nhật Bản.
Vào ngày 15 tháng 5 năm 2021, tại nhà hát của nhóm, cô thông báo sẽ tốt nghiệp khỏi HKT48 và buổi hòa nhạc tốt nghiệp của cô sẽ được tổ chức vào ngày 19 tháng 6 năm 2021. Ngày 14 tháng 6, kênh YouTube của HKT48 đã phát hành bài hát tốt nghiệp của cô mang tên 'Omoide ni Suru ni wa Mada Haya Sugiru'. Sau khi tốt nghiệp HKT48, Sakura trở lại Hàn Quốc và ký hợp đồng với HYBE và Source Music cùng với Kim Chae-won để ra mắt trong nhóm nhạc nữ mới Le Sserafim.
2022 – hiện tại: Le Sserafim
Vào ngày 2 tháng 5 năm 2022, Miyawaki Sakura chính thức debut cùng nhóm nhạc nữ Le Sserafim với Kim Chae-won.
Ngày 13 tháng 4, Source Music thông báo Le Sserafim sẽ phát hành mini-album đầu tay mang tên Fearless vào ngày 2 tháng 5 năm 2022. Số lượng đặt trước của album vượt qua 270.000 bản sau 7 ngày và tăng lên hơn 380.000 bản sau 16 ngày. Trên thị trường, Fearless đã đạt doanh số hơn 175.000 bản chỉ trong một ngày từ khi phát hành. Ngày 10 tháng 5 năm 2022, chỉ sau 8 ngày debut, Le Sserafim đã giành chiến thắng đầu tiên trên chương trình âm nhạc hàng tuần SBS M The Show.
Le Sserafim phát hành mini-album thứ hai, Antifragile, vào ngày 17 tháng 10. Antifragile lọt vào top 14 của bảng xếp hạng Billboard 200, là thành viên nhanh nhất của nhóm nhạc nữ K-pop vào bảng xếp hạng này. Ngày 24 tháng 11, Hybe phát hành bộ webtoon Crimson Heart, lấy cảm hứng từ triết lý 'tiến lên không sợ hãi' của Le Sserafim qua nền tảng Webtoon.
Le Sserafim sẽ phát hành đĩa đơn tiếng Nhật đầu tiên vào ngày 25 tháng 1 năm 2023.
Thông tin cá nhân
Sakura được biết đến là fan hâm mộ trung thành của nhóm nhạc Red Velvet và đặc biệt là thành viên Irene.
Sakura là một người hâm mộ nhiệt thành của tựa game Fortnite.
Sakura có kênh YouTube cá nhân chuyên đăng tải các clip chơi game như Fortnite, Apex Legends, Little Nightmare 2, Resident Evil 8 Village,... Đây cũng là một phần ngoài sự nghiệp ca sĩ và diễn viên của cô.
Sự kiện tổng tuyển cử AKB48
Lần tổ chức | Năm | Thứ hạng | Số phiếu bầu | Vị trí | Single |
---|---|---|---|---|---|
4 | 2012 | 47 | 6,635 | Next Girls | Doremifa Onchi |
5 | 2013 | 26 | 25,760 | Undergirls | Ai no Imi o Kangaete Mita |
6 | 2014 | 11 | 45,538 | Senbatsu | Kokoro no Placard |
7 | 2015 | 7 | 81,422 | Halloween Night | |
8 | 2016 | 6 | 78,279 | Love Trip / Shiawase o Wakenasai | |
9 | 2017 | 4 | 82,803 | #Sukinanda | |
10 | 2018 | 3 | 141,106 | Sentimental Train |
Danh sách các album nhạc
Đĩa đơn với AKB48 (Nhật Bản)
Năm | No. | Tên | Vai trò | Chú thích |
---|---|---|---|---|
2012 | 27 | "Gingham Check" | B-side | Xếp hạng 47 trong cuộc Tổng tuyển cử 2012. Hát 'Do Re Mi Fa Onchi' cùng Next Girls. |
28 | "Uza" | A-side | ||
29 | "Eien Pressure" | B-side | Hát bài hát đầu tiên của HKT48, 'Hatsukoi Butterfly'. | |
2013 | 30 | "So Long!" | B-side | Hát 'Waiting Room' cùng Undergirls. |
31 | "Sayonara Crawl" | A-side | ||
32 | "Koi Suru Fortune Cookie" | B-side | Xếp hạng 26 trong cuộc Tổng tuyển cử 2013. Hát "Ai no Imi o Kangaete Mita" cùng Undergirls. | |
33 | "Heart Electric" | B-side | Hát 'Kaisoku to Doutai Shiryoku' cùng Undergirls. | |
34 | "Suzukake no Ki no Michi de..." | B-side | Hát 'Wink wa Sankai' cùng HKT48. | |
2014 | 35 | "Mae Shika Mukanee" | B-side | Hát 'Kinou Yori Motto Suki' với tư cách là thành viên của unit Smiling Lions. |
36 | "Labrador Retriever" | A-side | Hát 'Kimi wa Kimagure' với tư cách là thành viên của Team A. | |
37 | "Kokoro no Placard" | A-side | Xếp hạng 11 trong cuộc Tổng tuyển cử 2014. | |
38 | "Kibōteki Refrain" | A-side, Center | Làm center cùng Watanabe Mayu. Hát 'Juujun na Slave' với tư cách là thành viên của Team A. | |
2015 | 39 | "Green Flash" | A-side | Hát "Majisuka Fight" và "Otona Ressha" |
40 | "Bokutachi wa Tatakawanai" | A-side | ||
41 | "Halloween Night" | A-side | Xếp hạng 7 trong cuộc Tổng tuyển cử 2015. Hát "Ippome Ondo" "Yankee Machine Gun" và "Gunzou" | |
42 | "Kuchibiru ni Be My Baby" | A-side | Hát "365 Nichi no Kamihikōki", "Yasashii Place" và "Senaka Kotoba". | |
2016 | 43 | "Kimi wa Melody" | A-side, Center | Center solo lần đầu tiên. Đĩa đơn kỷ niệm 10 năm. Hát "Make noise" cùng HKT48, "Mazariau Mono" với tư cách là thành viên của NogizakaAKB và "M.T ni Sasagu" với tư cách là thành viên của Team A. |
44 | "Tsubasa wa Iranai" | A-side | Hát "Set me free" với tư cách là thành viên của Team A. | |
45 | "Love Trip / Shiawase wo Wakenasai" | A-side | Xếp hạng 6 trong cuộc Tổng tuyển cử 2016. Hát "Hikari to Kage no Hibi" và "Black Flower". | |
46 | "High Tension" | A-side | ||
2017 | 47 | "Shoot Sign" | A-side | Hát "Tomaranai Kanransha" cùng HKT48 và "Dare no Koto wo Ichiban Aishiteru?" với tư cách là thành viên của Sakamichi AKB. |
48 | "Negaigoto no Mochigusare" | A-side, Center | Center cùng Matsui Jurina. | |
49 | "#SukiNanda" | A-side | Xếp hạng 4 trong cuộc Tổng tuyển cử 2017. Hát "Give up wa Shinai" center cùng Matsui Jurina | |
50 | "11gatsu no Anklet" | A-side | ||
2018 | 51 | "Jabaja" | A-side | Hát "Buttaoreru Made" center cùng Sashihara Rino và "Kokkyo no Nai Jidai" |
52 | "Teacher Teacher" | A-side | ||
53 | "Sentimental Train" | A-side | Xếp hạng 3 trong cuộc Tổng tuyển cử 2018. | |
54 | "No Way Man" | A-side, Center |
Đĩa đơn với HKT48 (Nhật Bản)
Năm | No. | Tên | Vai trò | Chú thích |
---|---|---|---|---|
2013 | 1 | "Suki! Suki! Skip!" | A-side | Hát "Onegai Valentine", "Seifuku no Bambi" va center "Kataomoi no Karage " |
2 | "Melon Juice" | A-side | Hát "Soko de Nani o Kangaeru ka?", "Namioto no Orugoru " và center "Kibou no Kairyuu " | |
2014 | 3 | "Sakura, Minnade Tabeta" | A-side | Hát "Kimi wa Doushite?" và "Mukashi no Kareshi no Oniichan to Tsukiau to Iu Koto" |
4 | "Hikaeme I Love You!" | A-side | Hát "Natsu no Mae" cùng Team KIV | |
2015 | 5 | "12 Byō" | A-side, Center | Center cùng Kodama Haruka. |
6 | "Shekarashika!" | A-side | ||
2016 | 7 | "74 Okubun no 1 no Kimi e" | A-side | |
8 | "Saikō Kayo" | A-side | ||
2017 | 9 | "Bagutte Iijan" | A-side | |
10 | "Kiss wa Motsushikanai no Deshōka?" | A-side | Hát "Koisuru Ribbon!" | |
2018 | 11 | "Hayaokuri Calendar" | A-side | Hát "Kisetsu no Sei ni Shitaku wa nai" và center "Boku no Omoi ga Itsuka Niji ni Naru Made" |
Đĩa đơn với IZ*ONE (Hàn Quốc - Nhật Bản)
Năm | Tên | Vai trò | Chú thích |
---|---|---|---|
2018 | La Vie en Rose | Thành viên
IZ*ONE |
MV tiếng Hàn đầu tiên của Sakura |
2019 | Suki to Iwasetai | ||
Violeta | |||
Buenos Aires | |||
Vampire | |||
2020 | Fiesta | ||
Secret Story of the Swan | |||
Panorama |
Bài hát khác
Năm | Tên | Chú thích |
---|---|---|
2021 | Omoide ni Suru ni wa Mada Haya Sugiru | Bài hát tốt nghiệp |
Đĩa đơn với Le Sserafim (Hàn Quốc - Nhật Bản)
Năm | Tên | Vai trò | Chú thích |
---|---|---|---|
2022 | Fearless | Thành viên Le Sserafim | |
Antifragile | |||
2023 | Unforgiven |
Các đơn vị biểu diễn trên sân khấu
- Team H 1st Stage 'Te o Tsunaginara' (Chung tay cùng nhau)
- 'Mang tôi đến Wimbledon' (Take me to Wimbledon)
- Team H Waiting Stage 'Hakata Legend'
- 'Tình yêu như thủy tinh' (Glass-like I love you)
- 'Bambi trong đồng phục' (Bambi in Uniform)
- HKT48's Himawarigumi 1st Stage 'Pajama Drive'
- 'Pajama Drive'
- Team KIV 1st Stage 'Nữ thần sân khấu' (The Goddess of Theater)
- 'Kẹo'
- Team A 5th Stage 'Luật cấm tình yêu' (Revival) (Regulations of Forbbiding Love)
- 'Vi-rút hình tim' (Heart-shaped Virus)
Danh sách các chương trình truyền hình mà cô đã tham gia
Phim ảnh
Năm | Tên | Vai trò | Đạo diễn | Ghi chú | Ref. |
---|---|---|---|---|---|
2016 | Raison D'etre: Documentary of AKB48 | Chính cô | Shin Ishihara | Phim tài liệu của nhóm AKB48 | |
Documentary of HKT48: The Night Theatre Manager Ozaki Cried | Rino Sashihara | Phim tài liệu của nhóm HKT48 | |||
2019 | Diner | Nữ bồi bàn | Mika Ninagawa | Cameo | |
2020 | Eyes On Me: The Movie | Chính cô | N/A | Phim tài liệu của nhóm Iz*One | |
2022 | LE SSERAFIM Documentary: The World Is My Oyster | Chính cô | N/A | Phim tài liệu của nhóm Le Sserafim |
Chương trình truyền hình
Năm | Tên | Vai trò | Kênh | Chú thích | Nguồn |
---|---|---|---|---|---|
2012 | Ano Hito no Ano Hi | Imagawa Nazuna | NHK General TV | Television film | |
2013 | Himitsu | Mari | FBS | Phim truyền hình | |
2015 | Majisuka Gakuen 4 | Miyawaki Sakura | NTV | Vai chính | |
Majisuka Gakuen 5 | NTV, Hulu | Vai chính | |||
AKB Horror Night: Adrenaline's Night | Juri | TV Asahi | Tập 5: "Doppelgänger" | ||
Majisuka Gakuen 0 | Miyawaki Sakura | NTV, Hulu | Phim truyền hình; vai chính | ||
2016 | Crow's Blood | Togawa Maki | Hulu | Vai chính | |
AKB Love Night: Love Factory | Nao | TV Asahi | Tập 29: "Guruguru Curtain" | ||
Doctor-Y: Surgeon Hideki Kaji | Mifune Haruka | au VideoPass, TV Asahi douga | Webdrama | ||
The Hero Yoshihiko and the Seven Chosen Ones | Thành viên của School | TV Tokyo | Tập 9 | ||
2016–2017 | Cabasuka Gakuen | Miyawaki Sakura/Same | NTV | Vai chính | |
2017 | Tofu Pro-Wrestling | Sakura Miyawaki/Cherry Miyawaki | TV Asahi | Vai chính | |
2018 | Shanghai Love Map | Chính mình | iQiyi | Webdrama Trung Quốc; Tập 5 | |
Produce 48 | Thí sinh - Thành viên HKT48 | MNet | Truyền hình sống còn Hàn Quốc | ||
IZ*ONE Chu | Chính mình / Thành viên IZ*ONE | Truyền hình thực tế Hàn Quốc |
Danh sách các cuốn sách
Album ảnh cá nhân
# | Năm | Ngày phát hành | BXH | Nhà phát hành | |
---|---|---|---|---|---|
JP Oricon PB |
JP Oricon Books | ||||
1 | Sakura (宮脇咲良ファースト写真集「さくら」) |
tháng 7 năm 2015 | 1 | 3 | Shueisha |