Phân tích 9 câu đầu Đất nước của Nguyễn Khoa Điềm tổng hợp 26 mẫu cực hay kèm theo gợi ý cách viết và sơ đồ tư duy, được biên soạn nhằm giúp cho các em học sinh có thể tự học để mở rộng, nâng cao kiến thức, rèn luyện kĩ năng viết văn ngày một tiến bộ hơn.
TOP 26 mẫu phân tích 9 câu đầu của bài thơ Đất nước siêu hay dưới đây sẽ là người bạn đồng hành hỗ trợ cho các em trau dồi vốn kiến thức của mình và hoàn thiện bài khi ôn tập, rèn luyện và làm các bài kiểm tra. Ngoài ra các bạn xem thêm phân tích nét mới trong cảm nhận về Đất nước của Nguyễn Khoa Điềm, phân tích bài thơ Đất nước và rất nhiều bài văn khác tại chuyên mục Văn 12.
Đánh giá 9 câu đầu Đất nước độc đáo nhất
- Dàn ý phân tích 9 câu đầu bài Đất Nước
- Sơ đồ tư duy 9 câu đầu Đất nước
- Phân tích Đất nước 9 câu đầu - Mẫu 1
- Phân tích 9 câu đầu Đất nước học sinh giỏi - Mẫu 2
- Phân tích 9 câu đầu của bài thơ Đất nước - Mẫu 3
- Phân tích 9 câu đầu bài thơ Đất nước - Mẫu 4
- Phân tích Đất nước 9 câu đầu - Mẫu 5
- Phân tích Đất nước, nguyễn khoa điềm đoạn 1 - Mẫu 6
- Phân tích 9 câu thơ đầu bài Đất nước - Mẫu 7
- 9 Câu đầu Đất nước - Mẫu 8
- Phân tích 9 câu đầu Đất nước - Mẫu 9
- Phân tích 9 câu đầu đoạn trích Đất nước - Mẫu 10
Phân tích cấu trúc 9 câu đầu bài Đất Nước
I. Mở đầu
- Giới thiệu về tác giả và tác phẩm
- Giới thiệu về đoạn trích
II. Nội dung chính:
a. Quan điểm 1: Đất nước ra đời từ khi nào?
- Câu thơ đầu tiên là câu trả lời cho câu hỏi này:
“Khi ta trưởng thành, Đất Nước đã hiện hữu”
Đất Nước là cái gì đó gần gũi, thân thuộc, kết nối với mỗi con người từ khi còn trong bụng mẹ. Nó thể hiện tư tưởng “Đất Nước của Nhân Dân”
- Tác giả cảm nhận về đất nước qua chiều sâu văn hóa – lịch sử và cuộc sống hàng ngày của mỗi người qua cụm từ “ngày xưa kia” để tạo ra những bài học về đạo đức và nhân văn qua các câu chuyện cổ tích sâu sắc.
b. Quan điểm 2: Quá trình hình thành của đất nước như thế nào?
- Bắt đầu với tập quán ăn trầu, gợi nhớ về hình ảnh người bà quen thuộc, kể về truyền thuyết trầu cau, truyền đạt tình anh em mật thiết, tình thâm nhân nghĩa vợ chồng.
- Hình ảnh của “cây tre” còn gợi lên hình ảnh của người Việt Nam, làm việc siêng năng, cần cù, chịu khó, biết quý trọng. “Lớn lên” không chỉ nói về quá trình trưởng thành của đất nước, mà còn nói về truyền thống kiên cường, bền bỉ trong chiến tranh.
- Tập quán bới tóc sau đầu để tập trung vào công việc, gợi nhớ câu ca dao bình dị đầy nỗi nhớ nhung. Nhắc nhở về tình cảm sâu đậm của vợ chồng qua hình ảnh: “gừng cay”, “muối mặn”.
- Tái hiện nền văn hóa của dân tộc thông qua một câu thơ đơn giản nhưng ý nghĩa: “Hạt gạo phải trải qua một nắng hai sương, giã, giần, sàng”. Nghệ thuật liệt kê và cách ngắt nhịp liên tục thể hiện truyền thống lao động cần cù, cách ăn ở của dân tộc trong cuộc sống hàng ngày.
- Nguyễn Khoa Điềm tóm gọn mọi thứ trong một tư duy duy nhất: “Đất Nước tồn tại từ thời điểm đó…”. Dấu chấm cuối câu là biện pháp từ ngữ im lặng, nói hết điều nhưng ý vẫn còn đọng, vẫn nồng cháy và sống động.
=> Đất nước được hình thành chặt chẽ với văn hóa, phong tục, lối sống của người Việt Nam, liên kết với cuộc sống hàng ngày của mỗi gia đình. Những yếu tố tạo nên Đất Nước đã tạo nên tinh thần đoàn kết dân tộc. Đất Nước nên được tôn trọng, thiêng liêng và gần gũi đậm đà.
III. Tổng kết:
- Tóm lược vấn đề
Sơ đồ tư duy về 9 câu đầu của Đất Nước
Mẫu 1
Mẫu 2
Phân tích 9 câu đầu của Đất Nước - Mẫu 1
“Quê hương là gì hở mẹ
Mà cô giáo dạy phải yêu
Quê hương là gì hở mẹ
Mà ai đi xa cũng nhớ nhiều”
Quê Hương, Đất Nước, hai từ đơn giản nhưng luôn chạm vào trái tim mỗi khi nhắc đến. Mỗi câu thơ ca ngợi đất nước - quê hương đều khiến lòng ta rung động, tự hào. Đó là một đất nước như 'tia chớp' trong thơ Trần Mạnh Hảo, một Đất nước kiên cường 'rũ bùn đứng dậy sáng lòa' trong thơ Nguyễn Đình Thi, một đất nước 'sống vững chãi bốn ngàn năm sừng sững - lưng đeo gươm tay mềm mại bút hoa' trong cái nhìn của Huy Cận. Viết về Đất nước không chỉ là viết về vẻ đẹp của thiên nhiên, mà còn là về tình yêu chân thực, ý thức dân tộc, gắn bó với vận mệnh của dân tộc. Trong đoạn thơ 'Đất Nước' (trích trong chương V của trường ca 'Mặt đường khát vọng'), Nguyễn Khoa Điềm đã chọn cách lí giải mới, độc đáo về đất nước, mang lại cho người đọc những trải nghiệm đặc biệt.
“Khi chúng ta trưởng thành, đất nước đã có từ lâu rồi
…
Đất Nước đã tồn tại từ ngày đó…”
Tác phẩm này được trích từ Trường ca “Mặt đường khát vọng” viết năm 1971 tại chiến khu Trị - Thiên trong thời kỳ kháng chiến chống Mỹ cứu nước, giai đoạn đầy cam go, ác liệt nhất. Với giọng thơ ngọt ngào nhưng sâu lắng, thi sĩ đã diễn đạt về Đất Nước một cách giản dị, gần gũi và thú vị, đầy bất ngờ. Mỗi dòng thơ như làm thức tỉnh ý thức trách nhiệm của thế hệ trẻ về tình yêu nước, sẵn sàng đứng lên bảo vệ tổ quốc.
Nếu từ “quê hương” gợi nhớ những cảm xúc dịu dàng, những kỷ niệm về quê hương với hình ảnh thân quen của làng quê như những câu thơ nồng nàn của Đỗ Trung Quân: Quê hương là khóm khế chín, Quê hương là vàng hoa bí/ Là hồng tím giữa cánh đồng... thì từ “Đất Nước” lại đem lại một cảm giác trang trọng, lịch lãm, và hùng vĩ trong lòng người. Nhưng đáng lạ khi gặp những vần thơ trong bài “Đất Nước” của Nguyễn Khoa Điềm, cảm giác gần gũi, thân quen như mùi rơm, màu áo của người nông dân, bờ tre ven giếng nước quê hương đầy ấm áp và dịu dàng.
Bằng giọng thơ thân mật, như một cuộc trò chuyện giữa người anh đi trước và người em, Nguyễn Khoa Điềm đã khéo léo “khai sáng” cho thế hệ trẻ về ý thức trách nhiệm với Đất Nước. Mỗi lời giải thích nhẹ nhàng tự nhiên như những lời nói hàng ngày, nhưng ẩn chứa nhiều suy tư sâu xa. Chắc chắn người nghe sẽ không cảm thấy nặng nề, khó hiểu:
“Khi chúng ta trưởng thành, đất nước đã tồn tại từ lâu rồi”
Có thể em chưa thấu hiểu rằng đất nước đã tồn tại từ lâu đời, hoặc có thể câu hỏi đó là điểm bắt đầu mà Nguyễn Khoa Điềm lựa chọn để khởi đầu cho một câu chuyện dài về Đất Nước.
Đất Nước tồn tại từ những ngày xưa xa xưa mà mẹ thường kể, và bắt đầu phát triển từ khi người dân biết trồng tre và chống giặc.
Các giai đoạn quan trọng trong lịch sử hình thành Đất Nước được nhà thơ tái hiện qua những hình ảnh gần gũi và thân quen.
Đất Nước từng trải qua những giai đoạn phát triển bình dị và tự nhiên, nhưng vẫn giữ được những giá trị văn hóa lâu dài.
Việc nói Đất Nước 'lớn lên' như một cơ thể sống, được nuôi dưỡng bởi nền văn hóa phong phú và đương đại, là sự thể hiện cho tinh thần đồng lòng chống giặc của dân tộc.
Một ai đó đã nói rằng “Quê hương là nơi chúng ta có thể ra đi, nhưng trái tim vẫn thuộc về đó”. Đó thực sự là sự thật, vì quê hương là nơi nuôi dưỡng tâm hồn ta, gợi nhớ về nguồn gốc và dòng họ. Ở đó, có bố mẹ ta, có những kỷ niệm ngọt ngào từ tuổi thơ:
“Tóc mẹ thì búi sau đầu
Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay và muối mặn
Cái kèo, cái cột đều có tên”
Chẳng có gì thân thuộc và cảm xúc hơn hình ảnh của người mẹ trong lòng chúng ta. Vẻ đẹp giản dị của cuộc sống quê hương, không cần trang điểm, không cần những bộ váy lộng lẫy, mà chỉ đơn giản trong chiếc áo ba ba đã cũ, ống quần luôn gấp lên, và mái tóc luôn buộc gọn sau đầu khi làm việc... Hình ảnh ấy, dù giản dị, nhưng lại trở thành biểu tượng của văn hóa Việt Nam, nét đẹp Việt Nam, khiến lòng chúng ta đầy ắp tình thương.
Nét đẹp dịu dàng và lòng trung thành của người phụ nữ Việt Nam đã tạo nên vẻ đẹp đặc biệt. Nguyễn Khoa Điềm đã khéo léo tôn vinh vẻ đẹp ấy chỉ qua vài nét vẽ, một cách lựa chọn tỉ mỉ và tinh tế, với một giọng thơ vừa khẳng định, vừa tự hào. Câu thơ đưa ta về vùng đất Kinh Bắc xưa, với những câu ca đậm tình thân và tình người như thế:
“Tay cầm đĩa muối chén gừng
Gừng cay muối mặn, xin đừng quên nhau”
Câu thơ:
“Muối đã ba năm vẫn còn mặn
Gừng đã chín tháng vẫn còn cay
Tình ta nặng nghĩa ta đầy
Dù ba vạn sáu ngàn ngày vẫn không xa”
Thành ngữ “gừng cay muối mặn” được áp dụng một cách đặc biệt trong câu thơ nhẹ nhàng, thấm đẫm tình thương. Nó thể hiện sự trung thành của tình bạn. Quy luật tự nhiên là gừng càng già càng cay, muối càng lâu năm càng mặn. Quy luật trong tình bạn là khi người ta sống bên nhau lâu dài, tình bạn càng phát triển.
Từ tình thương cha mẹ mới tới “Cái kèo cái cột thành tên”. Câu thơ nhắc nhở độc giả về phong tục xây nhà của người Việt xưa. Đó là phương pháp xây dựng nhà bằng cách sử dụng kèo cột ghép vào nhau làm cho ngôi nhà vững chãi, bền vững trước mưa gió, thú dữ. Cái kèo, cái cột trở nên quen thuộc và gắn bó với từng thành viên trong gia đình, thậm chí, chúng còn trở thành những biểu tượng giản dị đi suốt cuộc đời của mỗi người.
Không chỉ có tình thương gia đình đậm đà, người dân còn mang trong mình những nét đẹp tuyệt vời trong lao động và sản xuất:
“Hạt gạo cũng cần một nắng hai sương để xay, giã, dần, sàng…”
Câu thơ này sử dụng nhiều động từ miêu tả hoạt động lao động để tạo ra hạt lúa của người nông dân: « xay, giã, dần, sàng », kết hợp với thành ngữ « một nắng hai sương » để thể hiện sự cần cù của cha ông trong thời kỳ đầu của nền nông nghiệp, khi công việc nông nghiệp còn rất gian nan, khó khăn.
“Đất Nước tồn tại suốt bốn ngàn năm/ Với những khó khăn và gian lao” đã được thể hiện trong thơ của Nguyễn Khoa Điềm một cách đơn giản, dễ hiểu. Cách kết thúc câu thơ giải thích rằng Đất Nước đã tồn tại từ lâu:
“Đất Nước đã tồn tại từ ngày ấy…”
“Ngày ấy” có thể không rõ ngày nào, nhưng chắc chắn đó là ngày bắt đầu của nhiều truyền thống, phong tục, và văn hóa quê hương... Câu thơ ngắn gọn này tóm gọn lại lịch sử và dòng cảm xúc sâu sắc, gợi lại suy tư về quá khứ của mỗi người đọc!
Trong 9 dòng thơ đầu, tác giả đã linh hoạt sử dụng các chất liệu dân gian như ca dao, tục ngữ, truyền thuyết, cổ tích... không chỉ tạo cảm giác gần gũi mà còn thể hiện ý thức tự tôn dân tộc. Việc lặp lại từ “Đất Nước” năm lần với chữ in hoa thể hiện sự trân trọng của nhà thơ. Với từ ngữ giản dị, không pha trộn, Nguyễn Khoa Điềm đã tạo ra những dòng thơ tự do đầy cảm xúc, kết hợp với âm điệu nhẹ nhàng như điệu ru dễ thấm vào lòng người. Tuy nhiên, bên cạnh cảm xúc, còn có lối lập luận chặt chẽ: tổng - phân - hợp. Sự kết hợp hài hòa giữa lý luận và cảm xúc đã tạo nên phong cách thơ độc đáo của Nguyễn Khoa Điềm.
Tóm lại, qua những dòng thơ đầy tâm trạng và suy tư về khái niệm Đất Nước, Nguyễn Khoa Điềm đã khám phá một góc nhìn mới, sâu sắc: Đất Nước không chỉ là một khái niệm trừu tượng mà còn hiện hữu trong tinh thần của người Việt, trong sinh hoạt hàng ngày từ xa xưa. Đất Nước hiện ra qua phong tục tập quán, lối sống, và qua văn học dân gian, văn hoá... Đó không chỉ là một khái niệm trừu tượng mà còn mang trong mình mơ ước, khát vọng, và ý niệm về vẻ đẹp tinh thần của dân tộc. Đọc những dòng thơ này, ta cảm nhận được cảm xúc sâu lắng, sự thấm vào từng tấc mạch của dân tộc, từng giọt máu của chúng ta, và từ đó, ta càng yêu quý hơn quê hương Tổ quốc.
Phân tích 9 dòng thơ đầu của bài thơ Đất nước học sinh giỏi - Mẫu 2
Đất Nước luôn là một đề tài quan trọng trong văn chương, đặc biệt là trong thời kỳ kháng chiến. Chúng ta không thể quên hình ảnh Đất Nước trong những tác phẩm như “mảnh hồn quê Kinh Bắc” của Hoàng Cầm, hoặc những hình ảnh về sự hy sinh anh dũng trong thơ của Nguyễn Đình Thi. Trong bài thơ của Nguyễn Khoa Điềm, chúng ta lại được khám phá một góc nhìn mới về Đất Nước thông qua những truyền thống dân gian, truyền thuyết, như trong đoạn trích nằm trong bản trường ca Mặt đường khát vọng. Với việc tạo ra hình ảnh trung tâm là Đất Nước, Nguyễn Khoa Điềm đã mở ra một cửa sổ mới để người đọc có thể hiểu rõ hơn về cội nguồn, văn hóa của đất nước, đặc biệt là qua 9 dòng thơ đầu:
Khi ta lớn lên Đất Nước đã có sẵn
Đất Nước tồn tại trong những câu “ngày xưa” mẹ thường kể
Đất Nước bắt đầu với miếng trầu bà ăn
Đất Nước phát triển khi dân ta biết trồng tre và đánh giặc
Tóc mẹ thì bới sau đầu
Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn
Cái kèo, cái cột trở thành tên
Hạt gạo phải trải qua nắng sương để xay, giã, dần, sàng
Đất Nước tồn tại từ ngày ấy…
Đất nước luôn là nguồn cảm hứng bất tận cho thơ ca, với hình tượng của nó luôn được coi là cao quý và đẹp nhất trong văn chương. Như Macxen Prust đã nói: “Cuộc phiêu lưu không phải là việc tìm kiếm một vùng đất mới mà là việc mở mang tầm nhìn”. Vì vậy, với mỗi góc nhìn khác nhau, đất nước sẽ hiện lên với vẻ đẹp và hình dáng độc đáo riêng, thể hiện sự đa dạng và phong phú của nó trong mắt của nhà thơ. Nếu các nhà thơ cùng thời như Nguyễn Trãi, Nguyễn Du, Nguyễn Huệ, Hưng Đạo thường chọn lấy cảm hứng từ lịch sử và những sự kiện lịch sử như:
Khi Nguyễn Trãi viết thơ và chiến đấu
Nguyễn Du sáng tác Kiều gói gọn tâm hồn dân tộc
Khi Nguyễn Huệ dẫn quân đánh giặc ở cửa Bắc
Hưng Đạo đánh bại quân Nguyên trên dòng sông Bạch Đằng
Hoặc những hình ảnh tuyệt vời, lãng mạn:
Tổ quốc của chúng ta thật là xinh đẹp
Rừng cọ, đồi chè, đồng ruộng mênh mông xanh mướt
Nắng sáng lung linh trên dòng sông Lô, tiếng hát vang vọng
Chuyến phà trên dòng sông Bình Ca êm đềm
Tuy nhiên, Nguyễn Khoa Điềm đã chọn cho mình một góc nhìn mới mẻ, bình dị và thân quen, và qua đó, đất nước hiện lên với vẻ đẹp tươi mới không kém phần quyến rũ.
Bằng cách sử dụng cấu trúc tổng phân hợp và phong cách chính luận, Nguyễn Khoa Điềm đã thể hiện những suy tư sâu sắc cùng với những cảm xúc mãnh liệt về đất nước và trách nhiệm của mỗi người đối với quê hương và tổ quốc.
Khi bắt đầu bài thơ, Nguyễn Khoa Điềm đưa chúng ta vào hành trình khám phá về sự hình thành của Đất nước, và qua đó là sự quen thuộc và gần gũi của nó.
Khi ta lớn lên Đất Nước đã có sẵn
Đất nước tồn tại trong những câu chuyện “ngày xửa ngày xưa…” mà mẹ thường kể
Đất Nước khởi đầu từ miếng trầu bà đang nhai
Đất Nước phát triển khi nhân dân biết cách trồng tre để đánh đuổi kẻ thù
Câu thơ khởi đầu tự nhiên như một câu chuyện, nhà thơ sử dụng kí ức tuổi thơ để miêu tả sự tồn tại của Đất nước trong nhận thức của con người. Đất nước đã hiện hữu từ lâu, từ khi 'ta' ra đời, lớn lên, Đất nước đã luôn ở đó và tồn tại cùng với 'ta'. 'Ta' có thể là chúng ta, là những người sống hay đã ra đi, là quá khứ hay tương lai, là sự đại diện cho dân tộc. Câu 'Đất Nước đã có rồi' vang lên với sự tự hào, như một lời khẳng định về sự kiên trì của đất nước qua hàng nghìn năm lịch sử, đã xây dựng và bảo vệ bởi dân tộc ta, như Nguyễn Trãi đã mô tả:
Như nước Đại Việt ta từ xưa
Đã được biết đến là nền văn hiến từ lâu.
Trong hai câu tiếp theo, Nguyễn Khoa Điềm mô tả cụ thể quá trình hình thành của Đất nước:
Đất Nước hiện lên trong những câu chuyện “ngày xửa ngày xưa…” mà mẹ thường kể.
Đất Nước bắt đầu từ miếng trầu mà bà đang nhai
Tìm kiếm nguồn gốc của đất nước, không ai có thể nói chắc chắn, nhưng đối với Nguyễn Khoa Điềm, Đất nước cũng được hình thành từ những điều giản dị nhất của người mẹ và bà. Sau từ 'ngày xưa', người đọc hình dung ra hàng loạt kỷ niệm về tuổi thơ cùng với những nhân vật như ông bà, bà tiên, cô bé Tấm, Thánh Gióng... Từ những câu chuyện đó, hình ảnh của Đất nước hiện ra với vẻ đẹp tinh tế, lãng mạn. Miếng trầu bà nhai gợi nhớ đến truyền thống đẹp của dân tộc, khi miếng trầu được liên kết với nét đẹp của phụ nữ Việt xưa. Từ hình ảnh đó, Nguyễn Khoa Điềm giải thích ý nghĩa của việc “bắt đầu” của Đất nước. Trong các nghi lễ, 'miếng trầu quả cau' biểu tượng cho lòng thành của con cháu dành cho tổ tiên. 'Miếng trầu' cũng là biểu tượng của lòng trung thành trong tâm hồn con người Việt Nam, và hình ảnh 'miếng trầu' còn gợi lên một câu chuyện huyền thoại về tình yêu. Từ 'lớn lên' biểu thị cho sự phát triển của đất nước thông qua cuộc chiến đấu để xây dựng và bảo vệ của dân tộc. Đối với Nguyễn Khoa Điềm và các nhà thơ khác, đất nước không chỉ là một khái niệm trừu tượng mà nó có hình dáng, có linh hồn, có vẻ đẹp mê hồn trong mắt nghệ thuật. Hình ảnh 'trồng tre mà đánh giặc' gợi nhớ về truyền thuyết về Thánh Gióng, một biểu tượng của sự kiên cường, quyết định và mạnh mẽ trong cuộc chiến chống lại cái ác. Hình tượng đó đã được nhà thơ Tố Hữu lồng vào thơ của mình:
Chúng ta như thần Phù Đổng ngày xưa
Vùng lên đuổi giặc Ân khỏi đất nước
Đời sống dân chúng mãnh liệt như ngựa thép
Chúng ta rèn chí căm thù thành vũ khí bất khuất
Ngọn lửa chiến đấu được dấy lên để đối đầu mặt đối mặt
Chúng ta đánh bại bọn thù ác, bảo vệ đất nước và bảo vệ dòng dõi
Hình ảnh của cây tre tượng trưng cho tính cách kiên cường không khuất phục của người Việt Nam:
Cây tre xanh tươi mãi từ thời xa xưa
Câu chuyện cổ đã kể về bờ tre xanh
Thân gầy guộc, lá mảnh mai
Nhưng lại kiên cường phát triển thành cột tre vững chãi
Nguyễn Khoa Điềm cũng đã kết hợp hình ảnh của cây tre và Thánh Gióng với nhau. Đó là sự đồng hiện trong tinh thần, một phẩm chất của người Việt Nam như trung thực, kiên định, hiếu khách, và dũng mãnh, yêu hoà bình nhưng không khuất phục trong trận chiến.
Tiếp theo, bốn câu thơ khen ngợi những truyền thống và vẻ đẹp truyền thống của người Việt:
Tóc mẹ gọn sau đầu
Cha mẹ yêu thương nhau bằng gừng cay muối mặn
Cái kèo, cái cột thành lớn lên
Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn
Hình ảnh người mẹ và người phụ nữ với mái tóc gọn sau đầu đã làm nổi bật sự kín đáo, dịu dàng và chân chất trong phong cách ăn mặc của người Việt Nam. Vẻ đẹp của họ gợi nhớ đến câu thơ:
Tóc thả dài nhẹ bóng mượt
Làm tim ai đó rối bời nỗi niềm
Vẻ đẹp của người Việt còn nằm ở phẩm chất thuỷ chung trong bản tính. Cụm từ 'gừng cay muối mặn' được áp dụng một cách độc đáo và sâu sắc trong câu thơ. Gừng phải cay, muối phải mặn, đó là quy luật tự nhiên cũng như của tình yêu của người vợ chồng luôn duy trì và không biến đổi. Điều này gợi nhớ về tình yêu thương chung thủy giữa người với người như: 'Gừng càng già càng cay, muối càng lâu càng mặn', khi tình cảm giữa họ càng lâu thì càng đậm đà. Ý của câu thơ được lấy từ ca dao:
Tay nắm đĩa muối, bát gừng
Gừng cay muối mặn, hãy nhớ về nhau
“Cái kèo, cái cột thành tên” nhắc nhở về phong tục xưa của người Việt trong xây dựng nhà cửa. Ngôi nhà là nơi mọi người trong gia đình sum họp, mang lại sự ấm áp và hạnh phúc. Tục đặt tên cho con là “kèo”, là “cột” được tạo ra để gần gũi và tránh xa sự ám ảnh của ma quỷ theo quan niệm cũ.
Ngoài ra, người Việt Nam còn tự hào với phẩm chất cần cù và chăm chỉ. Thành ngữ “một nắng hai sương” thể hiện lòng chịu khó của ông bà trong lao động. Các công việc như “xay”, “giã”, “dần”, “sàng” trong việc sản xuất gạo cho thấy sự đề cao giá trị của công việc nông nghiệp và tôn trọng lao động của người nông dân:
Xin người bưng bát cơm tròn
Thơm ngon nhưng chứa một chút đắng cay của lao động
Câu thơ cuối cùng là sự khẳng định vững chắc của Nguyễn Khoa Điềm về nguồn gốc của Đất nước:
Đất Nước tồn tại từ thời xa xưa…
“Ngày ấy” là thời điểm mà chúng ta đã có nền văn hoá, có truyền thống. Vậy nên, để yêu nước, ta phải trước hết yêu văn hoá, trân trọng truyền thống của dân tộc mình. Lời thơ của Nguyễn Khoa Điềm là một biểu hiện đáng trân trọng, là điều cần phải nâng niu vì sự đẹp đẽ, nhẹ nhàng và chân thành mà nó mang lại.
Thành công của đoạn thơ đến từ việc sử dụng tinh tế và khéo léo các yếu tố dân gian, cùng với những phong tục, truyền thống, thành ngữ, cách viết hoa chữ Đất nước để thể hiện lòng kính trọng, tôn trọng sâu sắc. Tất cả tạo nên một đoạn thơ sâu sắc với nền văn hoá Việt và lòng thành kính với quê hương. Ngôn ngữ giản dị, mộc mạc, cùng với lời thơ nhẹ nhàng, thấm đẫm tâm trạng nhưng vẫn mang trong đó tinh thần triết học.
Đoạn trích trên đã thể hiện những suy tư và cảm xúc sâu sắc của tác giả về quê hương và đất nước. Đồng thời, Nguyễn Khoa Điềm cũng nhấn mạnh trách nhiệm của từng cá nhân đối với tổ quốc. Ông Pautopxki từng nói: “Niềm vui của nhà thơ chính là niềm vui của người dẫn dắt đến với cái đẹp.” Và có lẽ Nguyễn Khoa Điềm đã tìm thấy con đường riêng của mình khi thể hiện tình yêu với đất nước. Thông qua đoạn trích này, chúng ta khám phá một vẻ đẹp mới của quê hương, từ đó nâng cao tinh thần yêu nước, yêu tổ quốc và nhận thức về trách nhiệm của mỗi người không chỉ là học tập mà còn là gìn giữ truyền thống, bảo vệ đất nước, và đóng góp vào sự giàu đẹp của nó.
Phân tích 9 câu đầu của bài thơ Đất nước - Mẫu 3
Niềm cảm hứng về đất nước, về vẻ đẹp đáng tự hào của nó là một nguồn cảm hứng phổ biến trong thơ ca hiện đại từ năm 1945 đến năm 1975. Từ sau Cách mạng tháng Tám, quê hương cùng tổ quốc đã thực sự mạnh mẽ như Thánh Gióng. Đó là sự thật, là cơ sở vững chắc cho những cảm xúc trân trọng về vẻ đẹp của con người Việt Nam, về đất nước Việt Nam. Trong thời kỳ chống Mỹ cứu nước, nhà thơ trẻ Nguyễn Khoa Điềm đã góp phần vào sự thức tỉnh này. Với 9 câu thơ đầu tiên của bài thơ “Đất nước”, ông đã đưa ra góc nhìn mới về đất nước.
Một điểm đặc biệt của tác phẩm của Nguyễn Khoa Điềm là việc thảo luận một đề tài rất tổng quát, thậm chí có thể gọi là trừu tượng, đó là đất nước, thông qua những hình ảnh thơ, vật liệu cụ để xây dựng tầm vóc đó lại rất cụ thể và gần gũi. Trong phần mở đầu, ông tập trung sử dụng rất nhiều hình ảnh cụ thể, gần gũi và đầy thân thuộc nhưng vẫn mang lại sức mạnh liên tưởng mạnh mẽ và tính trừu tượng cao. Ông đã kết hợp những hình ảnh không liên quan để tạo ra một dòng thơ nói về sự tồn tại của đất nước, với sự kết hợp giữa truyền thống và tình cảm sâu sắc của đất nước như một đặc điểm không thể pha trộn. Hãy lắng nghe nhà thơ thể hiện suy nghĩ của mình.
Khi trưởng thành, chúng ta nhận ra sự tồn tại của Đất Nước qua những ký ức ngày xưa mà mẹ thường kể. Nó bắt đầu từ những thói quen nhỏ nhặt, như khi bà ăn miếng trầu. Đất Nước lớn lên qua việc dân ta biết trồng tre và chống giặc. Từ các biểu hiện hàng ngày như tóc mẹ hay sự yêu thương giữa cha mẹ, đến những hành động như xay, giã, dần, sàng gạo, tất cả đều làm nên Đất Nước.
Khi đọc đoạn thơ, ta không thể không chú ý đến những hình ảnh đầy sức sáng tạo của tác giả về sự tồn tại của mỗi đất nước. Mỗi hình ảnh đều nhấn mạnh một phần riêng biệt của sự tồn tại, đặc biệt qua từng chi tiết đời sống hàng ngày. Có những ý tưởng sáng tạo về phong tục, tập quán và bản sắc dân tộc được thể hiện một cách rõ ràng.
Tóc mẹ bèo sau đầu, cha mẹ yêu thương nhau qua những hành động như gừng cay và muối mặn. Ở đó, có những bàn tay chăm chỉ và những trái tim biết yêu thương, cống hiến mỗi ngày. Sự tồn tại của Đất Nước không chỉ là sự hy sinh và nỗ lực của một dân tộc mà còn là sự hiểu biết và tôn trọng giữa con người với nhau.
Đó là một sự tồn tại đầy ý nghĩa, có những lúc phải trải qua những thử thách đầy khó khăn. Đất Nước không chỉ được xây dựng từ máu và mồ hôi của dân tộc mà còn từ sự hiểu biết và lòng tin của mỗi người.
Hạt gạo chỉ có thể được chế biến từng bước một, từ việc xay, giã, dần đều phải trải qua một nắng và hai sương. Đất nước đã tồn tại từ thời điểm đó...
Trong đoạn thơ này, việc sử dụng các từ xưng hô như 'mẹ', 'cha', 'dân' tạo ra một mối quan hệ tình cảm sâu sắc của người Việt. Các từ này tạo ra một bầu không khí của sự thân thiết và đoàn kết trong cộng đồng.
Khả năng sử dụng nhiều hình ảnh phong phú và đa dạng làm cho đoạn thơ trở nên mạnh mẽ. Thông qua những từ ngữ và hình ảnh, tác giả tạo ra một bức tranh toàn diện về Đất Nước, với chiều sâu lịch sử và tương lai.
Đất Nước đã tồn tại từ khi mẹ kể chuyện cổ tích, từ khi dân ta biết canh tác và đánh giặc, biết trồng cây lúa và khoai, biết ăn trầu và tạo kiểu tóc, biết sống yêu thương và trung thành. Lịch sử của Đất Nước là một câu chuyện đầy cảm xúc, gần gũi nhưng cũng linh thiêng.
Trích đoạn thơ 'Đất Nước' từ trường ca 'Mặt đường khát vọng' là một bản sắc về quê hương và dân tộc Việt Nam, một câu chuyện lịch sử hoành tráng và đầy cảm xúc.
Phân tích 9 câu đầu của bài thơ Đất nước - Mẫu 4
Đất nước luôn là một đề tài vô cùng phong phú trong thơ ca và nghệ thuật. Cách nhìn nhận về đất nước có thể đa dạng từ nhiều góc độ khác nhau. Tác giả Tố Hữu thấy đất nước qua những hình ảnh của anh hùng và người mẹ; Chế Lan Viên tìm hình ảnh của nước trong vị cha già yêu quý Hồ Chí Minh; Nguyễn Trãi tự hào về các triều đại xây dựng nền độc lập. Đối với Nguyễn Khoa Điềm, vẻ đẹp của đất nước nằm ở chiều sâu văn hóa, phong tục mang đậm tinh thần 'Đất Nước của nhân dân'.
Câu mở đầu của bài thơ đáp lại câu hỏi 'Đất Nước có từ khi nào?' bằng việc khẳng định: 'Khi ta lớn lên, đất nước đã tồn tại'.
Câu thơ đầu tiên của bài thơ đã trả lời câu hỏi 'Đất Nước có từ bao giờ?' bằng cách khẳng định:
'Khi ta lớn lên đất nước đã tồn tại rồi'
Đất nước tồn tại từ khi nào? Điều này vẫn là một ẩn số lớn thách thức cho các nhà khoa học, lịch sử học, khảo cổ học. Chúng ta không biết chắc chắn đất nước đã tồn tại từ bao giờ hoặc ai đã khởi đầu nó. Nhưng luôn rõ ràng rằng: khi ta trưởng thành, 'đất nước đã có sẵn'.
Nhà thơ sử dụng ba từ 'đã có rồi' để mô tả sự hình thành của đất nước, tạo nên hình ảnh vững chắc, mạnh mẽ. Theo Nguyễn Khoa Điềm, đất nước là một giá trị vĩnh hằng, được hình thành và truyền lại qua nhiều thế hệ. Đất nước là nguồn gốc thiêng liêng, là máu thịt của mỗi con người.
Hai từ 'Đất Nước' được nhấn mạnh trong bài thơ đầy tinh tế, trìu mến. Đất nước không chỉ là một vùng đất mà còn là một thực thể sống có linh hồn. Bằng cách này, nhà thơ thể hiện sự tôn trọng sâu sắc đối với đất nước.
Nhà thơ sử dụng từ 'ta' để diễn đạt ý thơ trữ tình, đồng thời kết nối với cả dân tộc Việt Nam. Cách sử dụng từ này khiến vấn đề trở nên gần gũi và thân thuộc hơn với mọi người.
Ba câu thơ tiếp theo miêu tả vẻ đẹp của đất nước trong các khía cạnh văn hóa, phong tục, và truyền thống.
Đất Nước tồn tại trong những câu chuyện “ngày xửa ngày xưa…” mà mẹ thường kể
Đất Nước bắt đầu từ lúc bà ăn miếng trầu ngày nay
Đất Nước trưởng thành khi dân ta biết trồng tre để đánh giặc
Từ ngữ “Đất Nước” được lặp lại trong ba dòng thơ, vừa trang nghiêm vừa tôn trọng, tạo nên giai điệu đầy chính luận và tình cảm trọn vẹn. Từ này giúp tác giả mở ra chiều sâu văn hóa, phong tục và truyền thống.
Nhà thơ sử dụng vật liệu dân gian để diễn tả sự xuất hiện của đất nước: đất nước xuất hiện trong truyện cổ.
Cụm từ “ngày xửa ngày xưa” như một lá thư mở cửa, như chiếc thuyền đưa chúng ta trở về tuổi thơ, hồi tưởng những kỷ niệm đẹp. Nơi đó có cô Tấm hiền hậu, chàng Thạch Sanh gan dạ, những ông bà tiên với sức mạnh phi thường sẵn lòng giúp đỡ những người tốt,... Những câu chuyện đó như dòng suối ngọt lành nuôi dưỡng tinh thần chúng ta, hướng về những giá trị đẹp “nhân - hậu - mỹ” quý báu, để chúng ta tin vào điều tốt lành và yêu quý quê hương đất nước. Vì truyện cổ nước ta thật sự phong phú, nhân hậu mà nhà thơ Lâm Thị Mỹ Dạ đã viết thành những câu thơ tuyệt vời:
“Tôi yêu những câu chuyện cổ của quê hương mình
Đậm chất nhân hậu và đẹp đẽ sâu xa
Yêu nhân loại, rồi sẽ được yêu thương
Yêu quê hương, dù ở xa nhưng vẫn tìm về”
Nhắc đến “ngày xửa ngày xưa” là nhắc đến cách mà nhân dân giải thích về sự hình thành và phát triển của đất nước, về quá trình xây dựng và bảo vệ nước nhà. Vì “ngày xửa ngày xưa” chỉ thời gian không rõ ràng, không ai biết đó là khi nào, là năm nào, điều duy nhất mà chúng ta biết là nó đã tồn tại từ lâu. Và đất nước đã xuất hiện trong những câu chuyện xa xưa ấy, điều này có nghĩa là đất nước đã tồn tại từ rất lâu. Từ đó, nhà thơ thể hiện lòng tự hào mạnh mẽ về truyền thống của ông cha, về lịch sử phong phú, về văn hóa dân gian đặc sắc.
Không chỉ trong “ngày xưa kia”, Đất Nước trong tác phẩm của Nguyễn Khoa Điềm còn được mô tả qua phong cách sống giản dị nhưng đậm chất dân tộc của những bà, những mẹ với nghi lễ ăn trầu:
Đất Nước bắt đầu từ miếng trầu bà ăn ngày nay
Hình ảnh của đất nước to lớn, trái ngược với hình ảnh nhỏ bé của miếng trầu. Dù câu thơ có vẻ không hợp lý nhưng lại rất đúng đắn khi xuất phát từ sự thật: “Những điều lớn lao thường xuất phát từ những điều nhỏ bé”. Hình ảnh “miếng trầu” gợi lên “Sự tích trầu cau” – một câu chuyện nhân văn về tình yêu và lòng anh em, được coi là câu chuyện cổ xưa nhất trong truyền thuyết. Phong tục ăn trầu của người Việt cũng bắt nguồn từ câu chuyện này. Điều này cho thấy miếng trầu nhỏ bé chứa đựng trong mình cả 4000 năm lịch sử, 4000 năm phong tục và truyền thống hiếu khách: “Miếng trầu là khởi đầu của câu chuyện”. Hai chữ “bây giờ’ chỉ thời điểm hiện tại, cũng là một giải thích rất bình dị: Lịch sử, văn hóa, phong tục, truyền thống không chỉ tồn tại trong quá khứ mà cho đến bây giờ vẫn còn “miếng trầu bây giờ bà ăn”.
Qua bao năm tháng dài dằng dặc, miếng trầu không chỉ có ý nghĩa vật chất mà còn trở thành biểu tượng thiêng liêng trong tâm hồn của người Việt. Đối với thanh niên miếng trầu là biểu tượng của tình yêu: qua việc ăn trầu họ thể hiện tình yêu, qua việc ăn trầu cưới họ thể hiện tình duyên ... Đối với người cao tuổi, miếng trầu là biểu tượng của lòng hiếu thảo. Hơn nữa, miếng trầu còn là cầu nối tình cảm giữa thế hệ trẻ và người già, là biểu tượng tâm linh để con cháu thể hiện lòng kính trọng với ông bà. Và từ đó, hình ảnh này trở nên rất quen thuộc trong thơ ca:
“Những cô gái với nụ cười xinh đẹp
Long lanh như ánh nắng mùa thu”
(Hoàng Cầm)
Ngoài những phong tục tập quán tốt là nguồn gốc cho sự phát triển của đất nước, Nguyễn Khoa Điềm còn nhấn mạnh vào quá trình trưởng thành của đất nước đồng thời đi cùng với truyền thống đánh giặc bảo vệ nước suốt 4000 năm của dân tộc:
Đất Nước trở lên vĩ đại khi dân tộc biết trồng cây tre và đánh bại kẻ thù
Một đất nước không thể thiếu những truyền thống, trong đó một trong những truyền thống quý báu nhất của dân tộc ta là truyền thống chống giặc giữ nước, như Bác đã khẳng định: “Dân ta có tinh thần yêu nước sâu sắc. Đó là truyền thống quý báu của dân tộc ta. Từ lâu, mỗi khi nước nhà bị xâm lược, tinh thần ấy lại bùng nổ, tạo nên một làn sóng mạnh mẽ, to lớn, vượt qua mọi nguy hiểm, thách thức, đánh bại mọi kẻ phản bội và thù địch.” Trong thơ của Nguyễn Khoa Điềm, truyền thống đó được tái hiện qua hình ảnh cây tre và truyền thuyết về Thánh Gióng. Suốt nhiều thế hệ, cây tre không còn là điều xa lạ trong đời sống của người Việt Nam. Nó đã trở thành biểu tượng cho phẩm cách của con người Việt Nam trong những tác phẩm thơ, ca, nhạc, hội họa với những đặc điểm đặc trưng như:
“Cây tre xanh mướt
Xanh mãi từ thời xa xưa?
Câu chuyện ngày xưa... nơi có bờ tre xanh mát
Thân tre mảnh mai, lá mềm mại
Làm sao mà trở thành vững chãi như vậy?
Ở mọi nơi, cây tre vẫn xanh tươi
Cho dù trên đất sỏi, đất vôi hay đất bạc màu”
(Nguyễn Duy)
Hình ảnh cây tre đi kèm với dân tộc Việt Nam qua thời gian, từng chia sẻ nỗi buồn và niềm vui. Dân tộc Việt Nam tự hào với những phẩm chất tốt của cây tre: sống mãnh liệt, chân thành, giản dị, kiên cường, trung thành,... Cây tre đã trở thành biểu tượng của sức mạnh và lòng dũng cảm của dân tộc Việt Nam, cũng như hình ảnh của Thánh Gióng – cậu bé phép thuật trở thành anh hùng, cầm cây tre đánh đuổi quân giặc Ân rời bỏ đất nước:
“Chúng ta như thần Phù Đổng huyền thoại
Phát triển mạnh mẽ để chống lại quân giặc Ân”
(Tố Hữu)
Với hình ảnh của Thánh Gióng, tuổi trẻ Việt Nam được tôn vinh với sức mạnh, sự kiên cường và bất khuất. Truyền thống vĩ đại ấy đã đi cùng với dân tộc qua mọi gian nan trong lịch sử. Trong cuộc chiến chống Mỹ, hàng ngàn người con gái và con trai đã hy sinh vì tổ quốc. Tình yêu nước luôn là nguồn cảm hứng lớn lao trong lòng mỗi người con dân Việt. Hai chữ “lớn lên” gợi lên hình ảnh của đất nước và Thánh Gióng, biểu tượng của sức mạnh dân tộc. Hình ảnh của đất nước, vĩ đại và hùng vĩ, được tái hiện một cách sống động qua những dòng văn của tác giả!
Nguyễn Khoa Điềm tiếp tục khám phá những nét đẹp truyền thống của dân tộc Việt Nam, bên cạnh truyền thống đánh đuổi kẻ thù ngoại xâm:
Tóc búi phía sau đầu mẹ
Cha mẹ chia sẻ nhau bằng gừng cay và muối mặn
Cây kèo, cột dựng thành bậc tên
Hạt gạo trải qua một nắng hai sương, xay, giã, và sàng lọc
Nhấn mạnh vào cuộc sống giản dị của phụ nữ Việt Nam với phong tục búi tóc phía sau đầu
Tóc mẹ buộc phía sau đầu
Nguồn gốc của phong tục này xuất phát từ việc trồng lúa nước, khi phụ nữ phải búi tóc cao sau gáy để thuận tiện khi lội ruộng. Qua thời gian, phong tục này trở thành một nét đẹp truyền thống của phụ nữ Việt Nam. Tóc cuộn cao sau gáy tạo nên vẻ đẹp mộc mạc, nữ tính, và thuần hậu. Nét đẹp này khiến chúng ta nhớ đến câu ca dao:
“Tóc buông dài tựa vai em
Để anh chìm đắm trong say mê”
Nguyễn Khoa Điềm cũng thấu hiểu về đất nước qua cách sống và tình cảm gia đình, tình yêu sắt son giữa vợ chồng:
Bằng gừng cay và muối mặn, cha mẹ thể hiện tình yêu thương
Sống theo lòng hiếu thảo, sống với lòng biết ơn và tình cảm trung thành là vẻ đẹp truyền thống của dân tộc Việt Nam. Trong truyền thống, câu ca dao đã nói:
“Đĩa gừng, chén muối tay bưng
Gừng cay, muối mặn, tình chưa từng phai”
Thành ngữ “gừng cay muối mặn” được áp dụng tinh tế trong câu thơ, thể hiện sự ấm áp của tình thân. Gừng càng già càng cay, muối càng để lâu càng mặn, tượng trưng cho tình yêu thương vợ chồng ngày càng sâu đậm qua thời gian. Câu thơ gợi lên hình ảnh của các địa danh như “Hòn Trống Mái”, “núi Vọng Phu” để khắng định tình yêu bền vững, là nguồn cảm hứng vô tận cho thế hệ sau này.
Cây cột, cái kèo mang tên
Ngày nắng hai sương, lúa vẫn tròn đầy”
Câu thơ gợi nhớ về truyền thống xây dựng nhà “kèo cột”, biểu tượng của văn hóa Việt. Cây cột và kèo được kết nối để tạo nên sự vững chãi, bền vững cho ngôi nhà. Tên gọi của chúng cũng là biểu hiện của sự gần gũi, gắn kết trong xã hội. Những quan niệm này đóng vai trò quan trọng trong việc hình thành văn hóa và tình cảm quê hương trong lòng người Việt.
Nguyễn Khoa Điềm cảm nhận về truyền thống lao động, gắn bó với văn minh nông nghiệp của dân tộc Việt Nam. Thông qua thành ngữ “một nắng hai sương” kết hợp với các hành động của người nông dân, ông miêu tả sự vất vả, cực nhọc trong công việc trồng trọt. Điều này làm nổi bật sự kiên trì và quyết tâm của dân tộc trong việc xây dựng và phát triển đất nước.
“Ai ơi, dẫu đầy bát cơm
Chứa đựng đắng cay muôn phần thơm ngát.”
Thành ngữ “một nắng hai sương” đậm chất lao động, chứng tỏ lòng kiên nhẫn, sự chăm chỉ của dân tộc trong việc làm giàu đất nước. Hình ảnh hạt gạo thấm đẫm mồ hôi và nước mắt của người nông dân góp phần tạo nên nền văn minh lúa nước của dân tộc.
Và tác giả một lần nữa khẳng định nguồn gốc văn hóa, truyền thống của đất nước:
Đất Nước có từ ngày ấy
“Ngày ấy” là biểu tượng cho sự huyền bí của quá khứ, thể hiện sự giàu có và bền vững của văn hóa truyền thống. Đó là thời điểm bắt đầu của những nét đẹp văn hóa đặc trưng của dân tộc, là biểu tượng của sức sống và lòng kiêng kỵ vững mạnh của một quốc gia. Thơ Nguyễn Khoa Điềm thể hiện sự trường tồn và sức mạnh của văn hóa Việt Nam qua các biểu hiện truyền thống trong đời sống hàng ngày.
“Đất Nước” là phần hay nhất trong tác phẩm “Mặt đường khát vọng” của Nguyễn Khoa Điềm, với sức mạnh gợi lên tình yêu sâu đậm của người dân yêu nước.
Phân tích Đất Nước 9 câu đầu - Mẫu 5
Đất Nước - từ đơn giản ấy đã chứa đựng nhiều tình cảm, là nguồn cảm hứng không ngừng cho văn học và nghệ thuật. Nguyễn Khoa Điềm chọn góc nhìn gần gũi, bình dị để miêu tả về Đất Nước, với những hình ảnh sinh động, phản ánh nét đẹp văn hóa và truyền thống của dân tộc.
Khi ta trưởng thành, Đất Nước đã có từ xa xưa
Đất Nước hiện diện trong những câu chuyện xưa kể từ bao đời
Đất Nước bắt đầu từ những miếng trầu ngày xưa mẹ hay kể
Đất Nước trưởng thành khi dân ta biết trồng tre và đánh giặc
Tóc mẹ buội sau đầu
Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn
Cái kèo, cái cột gắn liền với tên
Hạt gạo phải một nắng hai sương xay, giã, giần, sàng
Đất Nước đã có từ ngày ấy…
Nguyễn Khoa Điềm, một nhà thơ và nhà chính trị Việt Nam, đã gợi lên tinh thần yêu nước và truyền thống văn hóa sâu sắc của dân tộc thông qua tác phẩm của mình.
Ngay từ những câu thơ đầu, Nguyễn Khoa Điềm đã sâu lắng suy tư về nguồn gốc, quá trình hình thành của Đất Nước với lời diễn đạt nhẹ nhàng như chuyện cổ tích.
Khi chúng ta lớn lên, Đất Nước đã tồn tại từ xa xưa
Đất Nước hiện diện trong những câu chuyện dân gian mẹ thường kể
Mở đầu bằng lời khẳng định mạnh mẽ 'Khi ta lớn lên, Đất Nước đã tồn tại', Nguyễn Khoa Điềm khẳng định sự bền vững của đất nước qua hàng nghìn năm lịch sử. Cụm từ 'ngày xưa xưa kia' là thời gian xa xưa, mơ hồ, là quãng thời gian huyền diệu mở đầu cho những câu chuyện cổ tích. Đối với Nguyễn Khoa Điềm, Đất Nước đã tồn tại từ xa xưa, trong quá khứ sâu thẳm, trong ký ức trong sáng của mỗi người dân.
Đất Nước bắt đầu từ miếng trầu mà bà đang ăn
Đất Nước trưởng thành khi dân ta biết trồng tre và chống giặc
Miếng trầu kể lại câu chuyện cổ tích về sự tích trầu cau từ thời vua Hùng, ca ngợi tình nghĩa vợ chồng, anh em thân thiết và lòng thủy chung. Đó cũng là truyền thuyết về Thánh Gióng, nhân vật hùng hậu của dân tộc, gợi lên hình ảnh mạnh mẽ của tuổi trẻ Việt Nam. Với cái nhìn độc đáo của Nguyễn Khoa Điềm, Đất Nước nằm sâu trong tâm hồn mỗi người dân Việt Nam.
Tác giả cũng nhắc đến truyền thống văn hóa của người Việt, câu ca dao 'Tay bưng chén muối đĩa gừng/Gừng cay muối mặn xin đừng quên nhau' đã được thể hiện qua từng dòng thơ của Nguyễn Khoa Điềm:
Tóc mẹ thì cuốn sau gáy
Cha mẹ yêu thương bằng gừng cay muối mặn
Đất Nước còn là truyền thống búi tóc cuộn sau gáy quen thuộc của phụ nữ Việt Nam từ ngàn xưa. Đó là vẻ đẹp đơn giản nhưng mang một nét đẹp đặc biệt không thể nhầm lẫn với bất kỳ nền văn hóa nào khác. Nguyễn Khoa Điềm tiếp tục nêu bật hình ảnh con người Việt Nam đang sinh sống, lao động, chiến đấu trên mảnh đất thân yêu. Đó là nơi mà tinh thần đạo đức ân nghĩa thủy chung đã trở thành truyền thống văn hóa của dân tộc: 'Cha mẹ yêu thương bằng gừng cay muối mặn'. Gừng càng già càng cay, muối càng lâu càng mặn, biểu hiện cho tình cảm sâu sắc trong mối quan hệ gia đình.
Đất nước gắn bó chặt chẽ như huyết thống và nhiều công việc lao động khác:
Cái kèo, cái cột mang tên gọi
Hạt gạo trải qua nắng sương, xay xát, giã nhỏ, sàng lọc
Cha ông ta xưa thường đặt tên cho con bằng những cái tên đơn giản, dân dã, thể hiện sự gắn kết với miền quê thuần phác của nền nông nghiệp thóc gạo, thường lấy những bộ phận của ngôi nhà tre gỗ làm tên cho con như 'cái kèo', 'cái cột'. Đối với người Việt Nam, hạt gạo không chỉ là một phần thiết yếu trong cuộc sống mà còn là biểu tượng của sự lao động, mồ hôi và tình thương gia đình:
Câu cuối cùng của đoạn thơ khẳng định một điều mà ta tự hào: 'Đất Nước có từ ngày đó...' “Ngày đó” có thể không rõ nhưng chắc chắn là ngày mà chúng ta có truyền thống, văn hóa và đất nước.
Trong đoạn thơ trên, tác giả thông qua các cấu trúc thơ 'Đất Nước đã có', 'Đất Nước bắt đầu', 'Đất Nước lớn lên', 'Đất Nước có từ' đã minh họa cho quá trình hình thành và phát triển của đất nước qua các giai đoạn lịch sử, đi sâu vào tâm trí của người Việt qua thời gian. Đó là những phần bình dị nhất, gần gũi và thân thuộc nhất trong cuộc sống hàng ngày của mỗi người Việt Nam: câu chuyện cổ tích, miếng trầu, gừng cay, muối mặn, hạt gạo...
Phân tích Đất nước, nguyễn khoa điềm đoạn 1 - Mẫu 6
Đất nước đã từ lâu trở thành điểm hẹn tâm hồn của nhiều nghệ sĩ. Từ chủ đề quen thuộc đó, nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm đã sáng tạo ra một lối đi riêng. Đoạn thơ 'Đất Nước' là kết quả của sự sáng tạo độc đáo, mới mẻ của ông. Với 9 câu thơ mở đầu, ông đã đưa người đọc trở về với lịch sử dân tộc để trả lời cho câu hỏi về nguồn gốc của đất nước:
'Khi ta trưởng thành, Đất Nước đã có từ lâu': lời thơ khẳng định nguồn gốc lịch sử của đất nước, một phần của câu chuyện 'ngày xửa ngày xưa...' mà mẹ thường kể, và sự khởi đầu của đất nước từ những thói quen hàng ngày như việc ăn miếng trầu, một biểu tượng của tình thân gia đình:
Muốn hiểu về Đất Nước, ta phải nhớ rằng nó đã tồn tại từ rất lâu, trong hàng nghìn năm lịch sử. Câu thơ cũng đề cập đến khó khăn trong việc hiểu sâu hơn về đất nước, một phần của cuộc sống hàng ngày qua các câu chuyện cổ tích mà mẹ thường kể.
'Đất Nước bắt đầu với miếng trầu bà ăn': câu thơ này gợi nhớ đến câu chuyện của 'Sự tích trầu cau', một câu chuyện về tình thân gia đình, và sự bắt đầu của một cuộc sống mới, của một đất nước.
Hình ảnh cây tre trong câu thơ 'Đất Nước lớn lên khi dân mình biết trồng tre mà đánh giặc' liên kết với 'Sự tích Thánh Gióng', một biểu tượng của sự đấu tranh bất khuất của dân tộc. Cây tre cũng là biểu tượng của sự bền bỉ và sức mạnh trong cuộc sống hàng ngày.
'Tóc mẹ thì bới sau đầu': một hình ảnh đẹp về phong tục truyền thống của dân tộc, một phần của đất nước mà chúng ta vẫn giữ nguyên cho đến ngày nay, bất chấp thời gian và sự thay đổi của xã hội.
Tận hưởng sự ân ái của gia đình, hòa mình vào tình thương vững bền của cha mẹ, ta nhận ra giá trị sâu sắc của câu ca dao 'Gừng cay muối mặn xin đừng bỏ nhau', một lời nhắn nhủ quý báu. Với Nguyễn Khoa Điềm, 'cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn' là để con được trải nghiệm hạnh phúc toàn diện, để con hiểu thêm về nét đẹp văn hóa dân tộc là tình thương luôn trung thành, vững bền.
Từ ngôi nhà mà ta sinh sống, nơi 'cái kèo, cái cột thành tên', đến những hạt gạo mà ta ăn phải trải qua bao lao động, bao cực nhọc, ta hiểu được sự hy sinh và cống hiến của cha mẹ qua bao thế hệ, nhằm xây dựng cuộc sống cho con cái và góp phần xây dựng đất nước. Tất cả đều là vì đất nước. Đất nước không chỉ là một khái niệm vô hình, mà còn là những vật dụng, hình ảnh hàng ngày quen thuộc, từ thời thơ ấu khi bên cạnh có bà, có mẹ, có cha. Nhưng chính những câu chuyện cổ tích mẹ kể, chính những lời ru ca dao đã đưa ta vào thế giới sâu sắc của tình thương đất nước với bao truyền thống, tập quán tốt lành.
Từ những hình ảnh quen thuộc nhưng ẩn chứa sâu thẳm tri thức văn hóa dân gian, cùng với âm điệu thơ ngọt ngào như lời kể chuyện tâm tình, Nguyễn Khoa Điềm đã biến đất nước thành cổ tích, ca dao, trong cuộc sống hàng ngày. Tác giả đã có góc nhìn mới, quen thuộc nhưng đầy sáng tạo, vừa cụ thể vừa trừu tượng, vừa gần gũi vừa trang trọng... tạo nên những cảm xúc sâu sắc. Điều này thể hiện sự thành công của tác phẩm và đóng góp của Nguyễn Khoa Điềm cho văn học Việt Nam.
Phân tích 9 câu thơ đầu trong bài 'Đất nước - Mẫu 7'.
Đất nước là một đề tài phong phú trong thơ ca, mỗi giai đoạn lịch sử nhìn nhận đất nước qua góc nhìn khác nhau. Đọc giả không thể không cảm nhận được tình cảm chân thành, sâu sắc của nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm khi viết về đất nước. Chúng ta tự hào là con người của một đất nước anh hùng, đã đóng góp và bảo vệ tổ quốc.
Trường ca mặt đường, một khát vọng được Nguyễn Khoa Điềm khơi dậy trong chiến khu trị thiên năm 1971, được xuất bản lần đầu vào năm 1974, thời điểm miền Nam đang chịu sự chiếm đóng tạm thời của đế quốc Mỹ và bọn phản động ra sức phỉ báng về Đảng Cộng sản, về cuộc cách mạng, nhằm mục đích lôi kéo, mua chuộc thanh niên vào thế giới xa hoa và lãng phí, làm hỏng ý thức trách nhiệm của họ đối với đất nước. Bài trường ca đã thức tỉnh tinh thần trách nhiệm và giúp thế hệ trẻ nhận thức rõ hơn về vai trò và trách nhiệm của mình đối với đất nước.
Khác biệt với những nhà thơ cùng thời viết về đất nước, Nguyễn Khoa Điềm đã tìm kiếm và sáng tạo bài thơ “Đất nước” từ nhiều góc độ. Đầu tiên, ông đề cập đến nguồn gốc của đất nước bằng cách sử dụng những hình ảnh, chi tiết gần gũi, thân thuộc nhất với con người.
“Khi ta lớn lên, đất nước đã có từ lâu. Đất nước tồn tại trong những ngày xưa mẹ thường kể.”
Với dòng văn tâm trạng như kể chuyện cổ tích, tác giả đã thể hiện những suy tư, cảm xúc của mình về đất nước. Đất nước được đặt vào bối cảnh của những câu chuyện cổ tích được kể lại bởi mẹ. Cha ông đã lao động, xây dựng đất nước cho thế hệ sau. Không ai trong chúng ta biết đất nước đã tồn tại từ bao giờ, chỉ biết rằng nó đã có từ khi có miếng trầu bà ăn, khi nhân dân trồng cây đánh đuổi giặc, đất nước đã có từ đó.
Nguyễn Khoa Điềm không sử dụng các con số, triều đại để nói về nguồn gốc của đất nước, mà chọn cách kể dưới hình thức dân gian, giản dị, gần gũi, như những gì tồn tại xung quanh chúng ta, như gia đình, cha mẹ, ông bà, như những phong tục tập quán ngày xưa.
“Đất nước bắt đầu từ khi có miếng trầu mà bà ăn. Đất nước phát triển khi nhân dân biết cách trồng tre để đánh đuổi giặc.”
Những hình ảnh thơ gợi lại cho chúng ta nhớ về truyền thống của dòng họ, từ thời Hùng Vương với tình cảm anh em và tình yêu vợ chồng sâu đậm. Tác giả đưa ta về với thời kỳ huyền thoại của Thánh Gióng, làm chúng ta tự hào về truyền thống yêu nước từ xa xưa, từ thời Vua Hùng.
Đất nước lớn lên cùng với phong tục tập quán:
“Mẹ bày tóc sau đầu. Cha mẹ thể hiện tình thương bằng gừng cay và muối mặn.”
Tác giả nhìn nhận lịch sử lâu dài của đất nước qua ống kính của văn hóa và văn học dân gian. Đó là hình ảnh quen thuộc của việc buội tóc gọn gàng phía sau cổ, là tình yêu thương vợ chồng trọn vẹn trong câu ca dao:
“Tay nắm chén muối, đĩa gừng. Gừng cay, muối mặn, đừng bao giờ quên nhau.”
Đất nước thường đặt tên con cái dựa trên những vật phẩm hàng ngày, mong muốn may mắn hay sức khỏe.
“Cột và kèo định tên nhà, hạt gạo phải trải qua cả nắng và sương, xay xát mới được sàng.”
Câu thơ về đất nước đã là hiện hữu, đất nước bắt đầu, và đất nước đã tồn tại từ khi... giúp chúng ta hình dung ra quá trình phát triển, trưởng thành của đất nước trong lịch sử, trong ý thức của người Việt qua nhiều thế hệ. Đất nước chặt chẽ với văn hóa nông nghiệp, mô tả những gương mặt lao động chăm chỉ, cần cù.
Nguyễn Khoa Điềm thông minh và sáng tạo khi sử dụng văn học dân gian như ca dao. Ông không chỉ trích dẫn một bài thơ cụ thể hay một dòng văn nào, mà chỉ sử dụng một số từ, chi tiết, hình ảnh đặc trưng. Điều này đủ để ông thể hiện một đất nước giản dị, gần gũi, phong phú văn hóa, và tự hào. Khác với Nguyễn Đình Thi, người tự hào về vẻ đẹp mênh mông của đất nước.
“Bầu trời xanh, đây là của chúng ta. Núi rừng, đây là của chúng ta. Những cánh đồng mát mẻ, những con đường rộng mở. Những dòng sông chảy nặng phù sa.”
Việc viết về đất nước thường được xem là một chủ đề khá chính trị và xã hội. Tuy nhiên, những câu thơ của tác giả không chỉ là những lời lẽ khô khan, mà chúng đậm chất cảm xúc, nồng nàn, sâu sắc, thể hiện lòng yêu mến văn hóa và văn học dân gian của dân tộc. Nguyễn Khoa Điềm đã biến những tình cảm này thành những tác phẩm đầy sức sống, mới mẻ, khiến người đọc cảm thấy gần gũi và bất ngờ.
Tình yêu quê hương, đất nước và văn hóa dân gian đã là nguồn cảm hứng cho Nguyễn Khoa Điềm khi sáng tác bài thơ này. Một đoạn thơ ngắn nhưng đầy ý nghĩa, khơi gợi kí ức tuổi thơ, tự hào về gia đình, dòng họ và tổ quốc của người Việt Nam. Đây là một bài học quý báu cho mọi thế hệ, dù ở bất kỳ hoàn cảnh lịch sử nào.
9 Câu đầu của bài thơ Đất Nước - Mẫu 8
Nguyễn Khoa Điềm, một nhà thơ lớn trong thời kỳ kháng chiến chống Mỹ, từng đảm nhận vị trí Bộ trưởng Bộ Văn hóa Thông tin trước khi nghỉ hưu. Các tác phẩm nổi tiếng của ông như Đất Ngoại Ô, Trường Ca Mặt Đường Khát Vọng. Bài thơ Đất Nước được trích từ chương V của Trường Ca “Mặt Đường Khát Vọng”, hoàn thành tại chiến trường Bình Trị Thiên năm 1971, miêu tả sự thức tỉnh của tuổi trẻ miền Nam, sẵn sàng tham gia vào cuộc kháng chiến dân tộc. Đặc biệt, bài thơ được chú ý qua 9 câu đầu tiên.
Nguyễn Khoa Điềm khác biệt với các nhà thơ đồng thời bằng cách tạo ra một cảm giác gần gũi khi mô tả đất nước, không sử dụng những từ ngữ hoa mỹ và kích động. Thay vào đó, ông chọn lựa những hình ảnh bình dị nhưng tươi đẹp để miêu tả vẻ đẹp và thiêng liêng của đất nước, gợi lên trong tâm trí chúng ta những hình ảnh về phong tục, tập quán, văn hóa và truyền thống của dân tộc.
Đối với Nguyễn Khoa Điềm, ý nghĩa của đất nước tồn tại ngay trong cuộc sống hàng ngày của mỗi gia đình, từ những câu chuyện của mẹ, miếng trầu của bà, đến những phong tục quen thuộc như búi tóc sau gáy, và tình cảm gia đình. Tất cả những điều này làm cho Đất nước trở nên gần gũi, thân thiết và bình dị trong cuộc sống hàng ngày của chúng ta.
Bài thơ mở đầu với câu khẳng định rằng: “Khi ta lớn lên Đất Nước đã có rồi”.
Theo giải thích của Nguyễn Khoa Điềm, 'Đất nước là một giá trị lâu dài, vĩnh cửu, được tạo dựng và bảo vệ qua nhiều thế hệ. 'Khi ta lớn lên đất nước đã có rồi!' thể hiện niềm tự hào về sự trường tồn của đất nước qua hàng ngàn năm lịch sử. Đất nước là thứ tự nhiên như trời đất, không biết từ bao giờ nhưng khi ta lớn lên, ta nhận ra Đất Nước của mình rồi, với những gì yêu thương nhất.
Hai câu thơ tiếp theo diễn tả vẻ đẹp của Đất Nước qua chiều sâu của văn hóa và phong tục. Những từ như 'có trong', 'bắt đầu' mô tả nhẹ nhàng về sự xuất hiện của Đất Nước.
Đất Nước tồn tại trong những câu chuyện 'ngày xưa kia' mà mẹ thường kể.
Đất Nước bắt đầu với miếng trầu bà đang ăn ngày nay
Tác giả sử dụng văn học dân gian để miêu tả về Đất Nước. Đối với trẻ thơ, Đất Nước thân thương qua lời kể 'Ngày xưa kia' của bà hoặc mẹ... Đó có nghĩa là Đất Nước đã tồn tại từ lâu đời. Đất Nước tồn tại trước cả khi những câu chuyện cổ tích ra đời, và khi những câu chuyện cổ tích hiện diện trong cuộc sống tinh thần của chúng ta, Đất Nước cũng hiện diện trong đó. Đó là Đất Nước của một nền văn học dân gian đặc sắc với những câu chuyện cổ tích, thần thoại và truyền thuyết. Những câu chuyện cổ và những bài hát ru từ thuở ấu thơ là nguồn gốc của tình yêu đất nước của con người. Về ý nghĩa của truyện cổ với cuộc sống tinh thần của con người, nhà thơ Lâm Thị Mỹ Dạ đã viết:
Tôi yêu truyện cổ của đất nước tôi
Vừa nhân hậu lại vô cùng sâu xa
Thương người mới thương được chính mình
Yêu nhau dù cách xa vẫn gần gũi
(Truyện cổ của đất nước tôi)
Không chỉ tồn tại 'trong những câu chuyện ngày xưa kia', Nguyễn Khoa Điềm còn xác định nguồn gốc ban đầu đó qua một nét đời sống giản dị nhưng đậm đà của người mẹ, người bà Việt Nam. Đó là phong tục ăn trầu: 'Đất Nước bắt đầu với miếng trầu bà đang ăn ngày nay'. Đất Nước lớn lao và kỳ vĩ, tại sao lại bắt đầu từ một miếng trầu bé nhỏ? Hình thức của câu thơ có vẻ không hợp lý nhưng lại hoàn toàn hợp lý vì tất cả những điều lớn lao đều xuất phát từ những điều nhỏ bé. Ví dụ, nếu không có những dòng suối nhỏ, làm sao có thể có dòng sông, tương tự như vậy, nếu không có những dòng sông, làm sao có thể có biển cả. Do đó, việc nhắc đến 'miếng trầu' có lẽ đang nhắc đến một sự thật sâu sắc. Câu thơ này gợi nhớ đến câu chuyện cổ tích 'Sự tích trầu cau', được coi là một trong những câu chuyện cổ tích cổ xưa nhất. Phong tục ăn trầu cũng xuất phát từ câu chuyện này. Do đó, thông qua miếng trầu đặc biệt đó, chúng ta thấy được sự kết nối với phong tục và truyền thống của dân tộc, đã được giữ gìn qua 4000 năm. Miếng trầu trở thành biểu tượng của tình yêu, là minh chứng cho sự kết nối tinh thần của người Việt. Từ phong tục ăn trầu, phong tục nhuộm răng đen đã ra đời. Hoàng Cầm trong bài thơ 'Bên kia sông Đuống' cũng đã đề cập đến điều này:
Những cô gái nhuộm răng đen
Mỉm cười như ánh nắng mùa thu
Một Đất Nước không thể thiếu truyền thống, và một trong những truyền thống quý báu của dân tộc chúng ta là truyền thống đánh giặc bảo vệ nước nhà: “Đất Nước trở nên lớn mạnh khi nhân dân biết trồng tre để đánh bại kẻ thù”.
Nhà thơ kết hợp ý tưởng về sức mạnh của đất nước qua dòng thơ “Đất Nước lớn lên…”. Từ “lớn lên” nhấn mạnh sự phát triển của Đất Nước. Câu thơ gợi nhớ đến truyền thuyết về Thánh Gióng, một đứa trẻ chỉ mới ba tuổi nhưng đã chiến đấu dũng mãnh. Thánh Gióng trở thành biểu tượng của sức mạnh tuổi trẻ Việt Nam, sẵn sàng chống lại kẻ thù ngoại xâm. Như Tố Hữu đã thể hiện trong bài thơ:
Chúng ta giống như thời xưa vị thần Phù Đổng
Lớn lên và chống lại quân thù Ân
Sức mạnh của nhân dân mạnh mẽ như ngựa sắt
Ý chí của chúng ta được rèn luyện thành thanh kiếm
Lửa chiến đấu chúng ta đốt cháy kẻ thù
Bọn xâm lược phải chịu trừng phạt vì đã tàn phá đất nước
(Tố Hữu)
Truyền thống vĩ đại đó đã đi theo chặng đường dài của lịch sử dân tộc, tiếp tục tồn tại đến ngày nay trong thời kỳ chống Mỹ, với những tấm gương anh dũng của tuổi trẻ chiến đấu để bảo vệ dòng họ. Đó có lẽ chính là vẻ đẹp của những chị em, anh em đã góp phần làm nên lịch sử Việt Nam với tư cách những người kiên cường và dũng cảm: Võ Thị Sáu, Trần Văn Ơn, Nguyễn Văn Trỗi...
Vẻ đẹp ấy đi đôi với hình ảnh của cây tre Việt Nam. Cây tre hiền hậu trong mỗi ngôi làng. Nó như là biểu tượng của những phẩm chất trong tâm hồn con người Việt Nam: chất phác, thật thà, đôn hậu, trung thành, yêu chuộng hòa bình nhưng đồng thời cũng kiên cường và bất khuất trong cuộc sống. Tre đứng thẳng, mạnh mẽ và không khuất phục, cùng với dân tộc “Một cây chông cũng đủ làm giặc Mỹ phải sợ”, bởi:
“Nòi tre không chịu mềm dẻo
Còn nhỏ đã chắc như chông cốt”.
Từ truyền thống chống lại kẻ thù ngoại xâm, Nguyễn Khoa Điềm tiếp tục khai thác nhiều yếu tố thú vị của văn hóa dân gian Việt Nam:
Tóc mẹ buộc sau đầu
Cha mẹ yêu nhau bằng gừng cay muối mặn
Cái kèo, cái cột trở thành biểu tượng
Hạt gạo chỉ có thể trải qua một mùa mưa hai mùa nắng mới được xay, giã, giữ và sàng
Đó chính là vẻ đẹp giản dị của phụ nữ Việt Nam, đặc biệt là những người mẹ với phong tục 'búi tóc sau đầu' (tóc cuộn thành búi phía sau gáy tạo nên vẻ đẹp nữ tính, thuần hậu đặc trưng). Nét đẹp này khiến người ta nhớ đến ca dao:
Tóc buông dài tựa lưng em bồi
Làm lòng anh bối rối không thôi
Nguyễn Khoa Điềm tiếp tục thảo luận về con người Việt Nam, những người đã lưu trú, lao động, và chiến đấu trên mảnh đất Việt để bảo vệ và tôn vinh nơi yêu dấu. Ở đó, lòng hiếu thảo và tình đoàn kết đã trở thành truyền thống bền vững của dân tộc: “Cha mẹ thương nhau như gừng cay muối mặn”. Ý thơ này được truyền đạt từ những câu ca dao đẹp:
“Tay cầm muối bên đĩa gừng
Muối cay gừng chẳng quên bao giờ”
Hoặc:
“Muối năm năm, vẫn còn mặn
Gừng chín tháng, vẫn còn cay
Tình nặng nghĩa đầy đặn
Cả vạn năm, vẫn gần bên nhau”
Thành ngữ “gừng cay muối mặn” được áp dụng một cách tinh tế trong câu thơ, nhấn mạnh sự tương đương giữa tự nhiên và tình cảm con người. Sự già dặn của gừng và mặn của muối chỉ ra rằng những mối quan hệ lâu dài thường mang lại sự đậm đà, chín chắn. Điều này cũng được thể hiện qua những biểu tượng vĩnh cửu như Hòn trống mái, núi Vọng Phu... đã đi vào lịch sử. Từ tình yêu thương của cha mẹ mới dẫn đến “Cái kèo cái cột thành tên”.
Câu thơ này nhắc nhở người đọc về phong tục xây nhà truyền thống của người Việt, một cách để tôn vinh sự đoàn kết và sự vững chắc. Từ đó, việc đặt tên cho con cái dựa trên Kèo và Cột đã trở thành một phần của văn hóa.
Dân tộc ta không chỉ có truyền thống lao động chăm chỉ mà còn biết ơn về công lao của nắng mưa: “Hạt gạo phải một nắng hai sương, xay, giã, và sàng”. Câu thơ này gợi lên hình ảnh cày cấy trong buổi trưa nắng nóng, với mồ hôi rơi xuống như mưa trên ruộng cày. Nó là một lời nhắc nhở về sự kiên nhẫn và sức lao động của người nông dân.
Cày đồng trưa hè nắng chói
Mồ hôi rơi ướt như mưa cày
Mang bát cơm ấm tay đầy
Ngọt bùi mỗi hạt gạo mài mòn ngày qua.
Thành ngữ “Một nắng hai sương” là biểu tượng cho sự cần cù, chăm chỉ của cha ông trong công việc nông nghiệp. Đây là truyền thống lao động kiên trì, chịu khó. Để sản xuất ra hạt gạo mỗi ngày, người nông dân phải làm việc vất vả dưới cái nắng chói chang, cùng với sương mù. Trong từng hạt gạo nhỏ bé ấy là mồ hôi mặn mà của những người nông dân qua bao thế hệ.
Câu thơ cuối cùng khẳng định rằng Đất Nước tồn tại từ ngày xa xưa. “Ngày xa xưa” có thể không rõ ngày nào, nhưng chắc chắn đó là khi có truyền thống, phong tục, văn hóa, và văn hóa là nền tảng của Đất Nước. Như Bác Hồ đã dặn “Yêu Tổ quốc phải yêu những bài hát dân ca”. Văn hóa dân gian, như ca dao, là đặc trưng của Việt Nam, và để yêu Đất Nước, ta cần yêu và trân trọng văn hóa dân tộc. Bởi văn hóa chính là Đất Nước. Điều này được thể hiện qua những bài thơ dễ thương, ngọt ngào của Nguyễn Khoa Điềm.
Đoạn thơ trên thành công nhờ vào việc sử dụng khéo léo các yếu tố văn hóa dân gian như phong tục ăn trầu, búi tóc, đánh giặc, và nông nghiệp. Nhà thơ sáng tạo thành ngữ dân gian, ca dao, thành ngữ... Tất cả tạo nên một đoạn thơ sâu sắc, đậm chất văn hóa Việt Nam. Ngôn từ giản dị, thơ nhẹ nhàng với tâm trạng chân thành, nhưng vẫn mang đậm triết lí thơ.
Nguyễn Khoa Điềm đã mang đến cho chúng ta một hình ảnh bình dị nhưng tươi đẹp của Đất Nước. Đọc đoạn thơ, ta cảm nhận được cội nguồn dân tộc, văn hóa thấm vào từng giọt máu, từng tia hồn của mình. Điều này khiến ta yêu quý hơn quê hương, Tổ quốc mình.
Phân tích 9 câu đầu Đất nước - Mẫu 9
“Tiếng đàn bầu vọng về xứ sở hằng mong
Mẹ ơi, nỗi lòng chứa chan như dòng sông”
(Tình yêu quê hương - Tạ Hữu Yên)
Đất Nước và mẹ luôn là nguồn cảm hứng thiêng liêng trong văn học, thể hiện sự yêu thương Tổ quốc. Với Nguyễn Khoa Điềm, Đất Nước được thể hiện qua lối thơ trữ tình, suy tưởng, đầy triết lý. Ông đã dành nhiều công sức để nói về Đất Nước trong tác phẩm Mặt đường khát vọng, qua nhiều khía cạnh lịch sử, địa lý, văn hoá dân gian, nhấn mạnh rằng Đất Nước này là của nhân dân. Ở dòng suy tưởng đó, cội nguồn của Đất Nước hiện ra ở 9 câu thơ đầu tiên.
“Khi trưởng thành, Đất Nước vẫn luôn ở đây
…
Đất Nước có từ ngày xưa..”
Trong thập niên 70, khi chiến tranh ở miền Nam leo thang, cần người sẵn sàng đấu tranh cho hoà bình. Nguyễn Khoa Điềm viết Mặt đường khát vọng, kêu gọi thế hệ trẻ tham gia cuộc đấu tranh. Ông viết với tình yêu quê hương, không sợ khó khăn, không sợ nguy hiểm. Mỗi câu thơ như một tia hy vọng, dù giữa tiếng bom và tiếng gào thét.
Trong trích đoạn, Đất Nước nổi bật và là chủ đề chính. Đất Nước là tình yêu sâu đậm của nhân dân dành cho những điều đơn giản, đời thường. Đất Nước là sự kết nối từ quá khứ đến hiện tại và về sau. Nguyễn Khoa Điềm sử dụng trí tuệ và cảm xúc để khám phá vẻ đẹp của Đất Nước qua cuộc trò chuyện giữa hai nhân vật “anh” và “em”. Tác giả thể hiện cảm xúc tự nhiên để Đất Nước hiện hữu trong cuộc sống hàng ngày.
Để giải thích về nguồn gốc của Đất Nước, nhà thơ tái hiện hình ảnh từ quá khứ thông qua góc nhìn hiện tại.
“Khi trưởng thành, Đất Nước vẫn ở đây”
Nhà thơ không chỉ nêu ra điều đã quen thuộc mà còn tạo ra những suy nghĩ mới mẻ. Đất Nước tồn tại từ lâu đời, và vai trò của mỗi người trong việc nhận thức Đất Nước là rất quan trọng.
Đất Nước xuất phát từ các câu chuyện cổ, văn hóa dân gian mà mỗi người đều biết đến.
“Đất Nước ẩn chứa trong những câu chuyện xa xưa… mẹ thường kể”
Giống như cánh cò trong bài hát ru đưa vào giấc ngủ của mỗi đứa trẻ, những câu chuyện cổ bắt đầu từ “ngày xưa kia”, kỷ niệm tuổi thơ đầy mơ mộng cũng bắt đầu từ đó. Giọng nói ấm áp của mẹ, chậm rãi của bà khi hóa thân thành nàng tiên, cô Tấm, như hương thơm dịu dàng của hoa Thị, quyến rũ của hương cây Cau. Mỗi câu chuyện là bức tranh dân tộc, là lời khuyên dạy, răn bảo để thế hệ sau nhớ về nguồn gốc của mình.
“Chỉ truyện cổ thiết tha
Để tôi hiểu ông bà của mình”
(Truyện cổ của quê hương – Lâm Thị Mỹ Dạ)
Đất Nước hiện hữu trong văn hoá truyền thống, qua những phong tục đời thường trở thành nét đẹp kích thích lòng tự hào.
“Đất Nước khởi đầu từ khi bà ăn miếng trầu ấy”
Miếng trầu cũng xuất phát từ truyền thống cổ tích, hình bóng của bà và mẹ cũng từ thuở ấy đã bước vào cuộc sống. Dây liên kết giữa văn hoá và phong tục cũng từ đó mà ra đời. Những thói quen như ăn trầu theo thời gian dần trở thành phong tục. Phong tục đó tạo nên văn hoá, và văn hoá trở thành máu thịt của chúng ta. Miếng trầu từ cổ tích đi vào cuộc sống, từ câu chuyện về tình thân anh em, tình vợ chồng mà trở thành một phần không thể thiếu trong ngày cưới của người Việt. Miếng trầu còn dạy cho con cháu bài học về lòng thành, sự tử tế, và lòng hiếu khách, lịch sự của dân tộc mình. “Miếng trầu là đầu câu chuyện”. Sử dụng chất liệu dân gian, Nguyễn Khoa Điềm thông qua câu thơ này đã hiện thực lại quá khứ một cách toàn diện ở hiện tại. Miếng trầu không chỉ tồn tại trong quá khứ, trong kí ức mà còn hiện hữu ở thời điểm “bây giờ”. Miếng trầu là biểu tượng cho văn hoá, cho lịch sử hàng nghìn năm, cũng là cho vẻ đẹp sâu sắc của dân tộc. Vẻ đẹp ấy có linh hồn, có sức sống vĩnh cửu. Câu thơ như một sự khẳng định mạnh mẽ trong hiện tại rằng quá khứ vẫn còn hiện hữu, và trong cuộc sống hôm nay vẫn hiện diện bóng dáng của quá khứ.
Câu thơ tiếp theo, nhà thơ đã tóm tắt quá trình phát triển của Đất Nước thông qua hình ảnh của một loài cây quen thuộc.
“Đất Nước trở nên lớn lên khi dân ta biết trồng tre để đánh giặc”
Không cần phải lấy những câu chuyện xa xôi, không cần phải tìm kiếm những hình ảnh hùng vĩ, to lớn như thơ xưa, Nguyễn Khoa Điềm đã sử dụng vật liệu thông thường trong cuộc sống nhưng vẫn chứa đựng những ý nghĩa sâu sắc. Tre từ lâu đã gắn liền với đời sống của người nông dân Việt Nam. “Tre giữ làng, giữ nước, giữ nhà tranh, giữ đồng lúa chín” (Thép Mới). Tre là biểu tượng của lao động, của anh hùng, là biểu tượng của những ký ức tuổi thơ không thể thay thế. Và tre xuất hiện trong truyền thuyết Tứ bất tử về anh hùng Thánh Gióng đánh đuổi giặc Ân. Nhà thơ thông qua sự kết hợp này đã khẳng định rằng quá trình lớn lên của Đất Nước chính là quá trình mà nhân dân ta đã cùng nhau bảo vệ từng mảnh đất, và vũ khí chính là cây tre.
Chuyện về Đất Nước không chỉ dừng lại ở văn hoá dân gian và truyền thống yêu nước chống giặc ngoại xâm, mà còn được phản ánh qua đời sống sinh hoạt hàng ngày, qua những thói quen hình thành từ lao động.
“Tóc mẹ bị sau đầu búi
Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay và muối mặn
Cái kèo, cái cột thành biểu tượng
Hạt gạo phải trải qua nắng và sương, xay, giã, giần, sàng”
Búi tóc là một nét đẹp truyền thống từ xa xưa. Ngoài việc thể hiện người phụ nữ đã lập gia đình, búi tóc sau đầu còn phản ánh điều kiện công việc và khí hậu nóng nực của vùng đất này. Việc để tóc dài và búi lên sau gáy trở thành một biểu tượng của vẻ đẹp giản dị, tự nhiên nhưng vẫn rất thanh thoát. Những nét đẹp bình dị như vậy là cầu nối tình yêu giữa cha mẹ qua hình ảnh “gừng cay và muối mặn”. Nguyễn Khoa Điềm thông qua việc lựa chọn thành ngữ dân gian đã thể hiện sự tinh tế trong mối quan hệ hôn nhân, biểu hiện sự chung thuỷ.
“Tay cầm chén muối, đĩa gừng
Gừng cay, muối mặn, nhớ không quên”
(Ca dao)
Tình thương và lòng trung thành trong hôn nhân, vượt qua mọi khó khăn, là nguồn động viên giúp ông bà, cha mẹ chúng ta vượt qua gian khó, xây dựng hạnh phúc gia đình trên nền tảng giản dị. Thái độ sống đó cũng truyền cho thế hệ con cháu niềm vui giản dị. “Cái kèo, cái cột thành tên” nhắc nhở về cách đặt tên con cháu của người xưa. Sự gắn kết bình dân với đời sống hàng ngày được thể hiện qua việc sử dụng những đồ vật quen thuộc như “cái kèo, cái cột” để đặt tên. Thất thiếu vật chất không làm mất đi tình cảm gắn bó của nhân dân với mỗi đồ vật và hình ảnh xuất hiện trong đời sống.
Khi nhắc đến lao động và cuộc sống của người nông dân, không thể không nhắc đến câu lúa và quá trình sản xuất lúa gạo. Cây lúa là biểu tượng của sự ấm no, hạnh phúc trong cuộc sống của người nông dân. Nhà thơ nhắc đến hạt gạo để tái hiện tập quán trồng lúa của nhân dân.
“Hạt gạo phải trải qua một nắng hai sương, xay, giã, giần, sàng”
Quá trình lao động được mô tả qua các bước “xay, giã, giần, sàng”. Sự chăm chỉ để tạo ra hạt gạo từ hạt thóc ban đầu không dễ dàng. Cũng không kể đến những ngày cày cấy, cuốc, bừa trên ruộng để trồng lúa. Những giọt mồ hôi từ cây lúa non đến cây lúa chín cũng là một phần của quá trình sản xuất gạo.
“Bưng bát cơm đầy
Cơm một hạt, đắng cay vô vàn”
(Ca Dao)
Khi nêu ra quá trình đó, nhà thơ như muốn tạo ra những khoảng trống và trọng lượng trên từng từ để truyền đạt sự nặng nề của công việc mà người nông dân phải trải qua. Sự mệt mỏi với chiếc cối xay trong tay, với chày giã gạo nện đều mỗi đêm và còn sự mệt mỏi khi hạt gạo hôm nay là ước mơ cho ngày mai tươi sáng. Thành ngữ “một nắng hai sương” chỉ sự khắc nghiệt của thời tiết, để nhấn mạnh rằng bất kỳ thành tựu nào cũng đều phải trải qua những khó khăn. Niềm vui của việc nắm trong tay hạt gạo thơm là cần phải trao đổi với bao nhiêu khó khăn, cực nhọc. Khi nói về lao động, nhà thơ cũng tinh tế gợi lên tình nghĩa của nhân dân hình thành trong nỗi khổ đau, gian khổ. Nhờ vào sự đoàn kết, chia sẻ và yêu thương mà công việc, dù có khó khăn đến đâu, cũng được hoàn thành cùng nhau.
Cuối cùng, để khẳng định sự ra đời của Đất Nước, Nguyễn Khoa Điềm đã sử dụng mốc thời gian không hình thức để nói về cái hiện hữu trong mỗi con người chúng ta.
“Đất Nước đã tồn tại từ ngày đó”. “Ngày đó” là một phép mà các mốc thời gian đã được nói ở phần trước. Đó là ngày mà câu chuyện cổ bắt đầu, ngày mà mẹ bói tóc sau đầu, cha mẹ thương nhau qua gừng cay muối mặn, cũng là ngày mà con cháu được đặt tên dân dã để tiếp tục truyền thống của ông bà nâng niu hạt lúa vàng. “Ngày đó” không phải là một mốc thời gian cụ thể, nhưng trong tâm trí của mỗi người Việt, đó là ngày mọi người biết yêu thương, trân trọng cuộc sống và sống vì nhau.
Câu chuyện lịch sử về sự hình thành một quốc gia, một dân tộc cần được nhớ lại thông qua từng câu thơ, từng bài hát. Nhà thơ đã sử dụng sự kết hợp giữa lý luận và tình cảm để tái hiện hình ảnh của Đất Nước với những ý nghĩa sâu sắc. Bằng cách sử dụng văn học dân gian, ông đã làm cho khái niệm trở nên gần gũi, mộc mạc như cuộc sống hàng ngày của người lao động.
Đoạn thơ này đem lại cái nhìn tổng quan về nguồn gốc của Đất Nước theo góc độ nhân dân của nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm. Thế hệ trẻ hiện nay nhận thức rằng Đất Nước tồn tại trong từng tâm hồn, hiện diện trong văn hóa, phong tục và tập quán của dân tộc. Đất Nước còn là biểu tượng của cuộc sống đấu tranh và lao động. Nó cũng là tiếng hát ca ngợi lòng nghĩa tình, sự đoàn kết của người Việt Nam.
Phân tích 9 câu đầu trong đoạn trích Đất Nước - Mẫu 10
Đất Nước đã trở thành đề tài quen thuộc với nhiều nhà văn, đặc biệt là trong thời kỳ kháng chiến. Chúng ta không thể quên hình ảnh của Đất Nước được miêu tả trong thơ của Hoàng Cầm hay Nguyễn Đình Thi. Với Đất Nước của Nguyễn Khoa Điềm, chúng ta được khám phá một góc nhìn mới về văn hóa dân gian và thần thoại.
Khi ta trưởng thành, Đất Nước đã tồn tại
Đất Nước hiện diện trong những câu chuyện cổ kể từ xưa
Đất Nước bắt đầu với miếng trầu bà đang ăn
Đất Nước trở nên lớn mạnh khi dân tộc biết đánh giặc
Tóc mẹ thì bài bản sau đầu
Cha mẹ thể hiện tình yêu bằng gừng cay và muối mặn
Cái kèo, cái cột gắn với tên của người
Hạt gạo chỉ xuất hiện sau quá trình lao động cực nhọc
Đất Nước tồn tại từ ngày ấy...
Đất Nước luôn là nguồn cảm hứng vô tận cho thơ ca, và hình ảnh của nó luôn được ca tụng là cao quý, đẹp đẽ nhất. Đối với mỗi cá nhân, đất nước có một vẻ đẹp riêng biệt. Nếu các nhà thơ cùng thời nhìn nhận đất nước qua lịch sử, thì với mỗi cá nhân, nó có một vẻ đẹp độc đáo khác nhau.
Khi Nguyễn Trãi sáng tác và đánh bại kẻ thù
Nguyễn Du viết Kiều, biến quê hương thành văn hào
Khi Nguyễn Huệ chiến thắng tại cửa Bắc
Hưng Đạo tiêu diệt quân Nguyên trên dòng sông Bạch Đằng
Hoặc những hình ảnh đẹp tuyệt vời về quê hương:
Quê hương của ta ơi, đẹp muôn màu
Rừng cọ, đồi chè, đồng xanh ngát mát
Nắng sông Lô âm nhạc như hát
Chuyến phà lướt nhẹ trên dòng Bình Ca
Với góc nhìn mới mẻ, đơn giản và thân thuộc, Nguyễn Khoa Điềm đã làm cho hình ảnh của đất nước trở nên rực rỡ không kém.
Với cấu trúc tổng-phân-hợp đặc trưng, Nguyễn Khoa Điềm đã thể hiện những suy tư sâu sắc và tình cảm mãnh liệt về quê hương, tổ quốc của mình.
Nguyễn Khoa Điềm mở đầu bài thơ bằng việc khám phá về sự hình thành của Đất Nước, từ những điều gần gũi, quen thuộc nhất.
Khi ta trưởng thành, Đất Nước đã có sẵn
Đất nước hiện diện trong những câu chuyện “ngày xửa ngày xưa...” mà mẹ thường kể
Đất Nước bắt đầu từ miếng trầu mà bà đang nhai ngay bây giờ
Đất Nước lớn lên khi dân chúng ta học cách trồng cây và chống lại kẻ thù
Câu thơ mở đầu tự nhiên như một câu chuyện, nhà thơ dùng kí ức tuổi thơ để miêu tả sự tồn tại của Đất nước trong nhận thức và tình cảm con người. Theo đó, “Đất Nước đã tồn tại từ rất lâu, từ khi mà “ta” bắt đầu khóc chào đời, lớn lên thì đất nước đã có và tồn tại cùng với “ta”. “Ta” ở đây có thể là anh, là chị, là những người còn sống hoặc đã khuất, là quá khứ hoặc tương lai, là đại diện cho dân tộc. Năm chữ “Đất Nước đã có rồi” vang lên đầy tự hào, như một khẳng định về sự bền vững của đất nước qua hàng nghìn năm lịch sử dựng nước và giữ nước của nhân dân ta đã được Nguyễn Trãi nhắc đến:
Như nước Đại Việt ta từ xưa
Ngày nay vẫn là nền văn minh uy nghi.
Tiếp theo, Nguyễn Khoa Điềm diễn tả cụ thể quá trình hình thành của Đất nước:
Đất Nước hiện diện trong những câu chuyện “ngày xưa...” mà mẹ thường kể
Đất Nước bắt đầu từ miếng trầu bây giờ bà đang nhai
Việc tìm kiếm cội nguồn của đất nước không dễ dàng, và Nguyễn Khoa Điềm cho rằng đất nước được hình thành từ những biểu tượng sống đơn giản nhất của người mẹ, người bà. Sau từ “ngày xưa”, người đọc có thể tưởng tượng về kỉ niệm tuổi thơ với các nhân vật như ông bụt, bà tiên, cô Tấm, Thánh Gióng... Từ những câu chuyện đó, hình ảnh Đất nước hiện lên rất đẹp, thơ mộng. Hình ảnh “miếng trầu bà đang nhai” gợi nhớ về truyền thống tốt đẹp của dân tộc. “Miếng trầu” kết nối với vẻ đẹp của phụ nữ Việt xưa. Từ vẻ đẹp đó, Nguyễn Khoa Điềm giải thích về sự “bắt đầu” của Đất nước. Trong lễ cúng, “miếng trầu quả cau” biểu tượng cho lòng thành của con cháu dành cho bậc cha ông. “Miếng trầu” cũng là biểu tượng của phẩm chất trung thực trong tâm hồn con người Việt Nam xưa và nay. Ngoài ra, hình ảnh “miếng trầu” cũng gợi lên một huyền thoại tình yêu “miếng trầu nên dâu nhà người”. Từ “lớn lên” biểu thị sự trưởng thành của đất nước qua quá trình đấu tranh xây dựng và bảo vệ đất nước của dân tộc ta. Với Nguyễn Khoa Điềm hay bất kỳ nhà thơ nào khác, đất nước không chỉ là một khái niệm trừu tượng mà còn là một thực thể, có hồn, có dáng, đẹp đến ngẩn ngơ trong ánh mắt nghệ thuật. Hình ảnh “trồng tre mà đánh giặc” đưa ta đến câu chuyện về Thánh Gióng, một cậu bé chỉ mới ba tuổi nhưng đã biết nói và đấu tranh vì quê hương, tổ quốc. Thánh Gióng là biểu tượng cho lòng dũng cảm, kiên cường của người Việt, sức mạnh trong cuộc chiến chống lại ác ôn. Hình tượng đó đã được Tố Hữu thể hiện trong thơ của mình:
Chúng ta từ xưa như anh hùng Phù Đổng
Đứng dậy đánh đuổi kẻ thù giặc Ân
Sức mạnh dân tộc vững như ngựa thép
Tinh thần quyết tâm được rèn từ sắt thép thành roi
Lửa chiến đấu được ném thẳng vào mặt
Bọn giặc xâm lược cướp nước, tàn phá hậu sản
Hình ảnh cây tre trở thành biểu tượng cho tính cách ngay thẳng, kiên cường của con người Việt Nam:
Cây tre xanh ngát từ lâu
Chuyện xưa đã ghi bằng bờ tre xanh
Thân gầy guộc, lá mong manh
Nhưng cuối cùng vẫn lũy thành cây tre vững chãi
Nguyễn Khoa Điềm kết hợp hình ảnh của cây tre và Thánh Gióng để tôn vinh tính cách, phẩm chất của người Việt Nam: thật thà, quả cảm, kiên cường, trung hiếu, yêu hòa bình nhưng đồng thời không kém phần mạnh mẽ trong cuộc chiến.
Với bốn câu thơ tiếp theo, Nguyễn Khoa Điềm ca ngợi những giá trị truyền thống, vẻ đẹp thuần phong mỹ tục của con người Việt Nam:
Tóc mẹ bên sau gáy
Cha mẹ yêu thương nhau bằng gừng cay muối mặn
Cảnh quan trường trạch vững vàng
Tình cha mẹ vẹn nguyên sắc hương
Hình ảnh người mẹ với mái tóc búi sau đầu đã phản ánh sự kín đáo, nhẹ nhàng và chân chất trong phong cách ăn mặc của người phụ nữ Việt Nam. Nét đẹp ấy gợi nhớ câu thơ:
Tóc dài buông phơi phới ngang lưng
Con tim bối rối trước nhớ nhung
Vẻ đẹp của người Việt còn ở trong phẩm chất thuỷ chung trong tính cách của họ. Cụm từ “gừng cay muối mặn” được áp dụng một cách độc đáo và thấm đẫm trong câu thơ. Gừng cay, muối mặn, đó là tự nhiên và cũng là biểu hiện của tình cảm của những người vợ chồng luôn đầy đặn và không thay đổi. Nó kích thích sự thuỷ chung giữa mọi người: “Gừng càng già càng cay, muối càng lâu càng mặn.” Khi sống cùng nhau lâu dài, tình cảm càng lớn. Ý câu thơ được lấy từ câu ca dao:
Tay đan mối muối dọn bày gừng
Gừng cay muối mặn, hãy nhớ nhau
“Cái cột, cái nơi làm nhà” gợi nhớ về phong tục xưa của người Việt. Ngôi nhà là nơi mọi người trong gia đình hội tụ, mang lại sự ấm áp, hạnh phúc. Việc đặt tên con là “cột”, là “kèo” có lẽ chính là để giản dị, gần gũi và tránh xa sự lạc hậu theo quan niệm xưa.
Không chỉ vậy, con người Việt Nam còn mang trong lòng phẩm chất cần cù, chăm chỉ. Thành ngữ “một nắng hai sương” biểu hiện sự chịu khó của ông bà trong công việc. Các công đoạn như “xay”, “giã”, “dần”, “sàng” là những bước làm ra hạt gạo. Như vậy, Nguyễn Khoa Điềm muốn nhấn mạnh việc trân trọng những hạt cơm chúng ta ăn hàng ngày vì chúng là trái ngọt của lao động của những người nông dân:
Bưng bát cơm đầy bát ra
Hương thơm một chút, vị đắng cay mười phần
Câu thơ cuối cùng là sự khẳng định của Nguyễn Khoa Điềm về nguồn gốc của Đất nước:
Đất Nước có từ ngày xưa...
“Hôm ấy” là ngày mà ta có truyền thống, có văn hoá. Do đó, muốn yêu nước thì trước hết ta phải yêu văn hoá, truyền thống của dân tộc mình. Điều đáng trân trọng, quý giá là những lời thơ dung dị, nhẹ nhàng mà chân thành, đằm thắm của Nguyễn Khoa Điềm.
Thành công của đoạn thơ trên là nhờ vào việc sử dụng tinh tế, khéo léo các tài liệu dân gian, những phong tục, truyền thống, thành ngữ, điệp từ và cách viết hoa chữ. Đất nước thể hiện sự kính trọng, thiêng liêng. Tất cả đã tạo nên một đoạn thơ sâu sắc về văn hoá người Việt và sự tôn kính đối với đất nước. Ngôn ngữ giản dị, lời thơ nhẹ nhàng, thể hiện tâm tình mà vẫn mang đậm tinh thần triết lý.
Đoạn trích trên thể hiện suy tư và cảm xúc mãnh liệt của tác giả về quê hương, đất nước. Nguyễn Khoa Điềm đã nói lên trách nhiệm của mỗi cá nhân đối với tổ quốc. Pautopxki đã nói: “Niềm vui của nhà thơ chân chính là niềm vui của người mở đường đến với cái đẹp.” Và có thể Nguyễn Khoa Điềm đã tìm thấy con đường của mình khi tiến đến đất nước, để rồi Đất nước hiện ra thật gần gũi, đẹp đẽ. Đọc đoạn trích Đất nước ta được khám phá một vẻ đẹp mới của đất nước, từ đó nâng cao tinh thần yêu đất nước, yêu tổ quốc và trách nhiệm của mỗi người không chỉ là học hành mà còn là bảo tồn truyền thống, bảo vệ đất nước, góp phần làm cho đất nước giàu đẹp hơn.
......................
Mời bạn tải File để xem thêm bài văn mẫu phân tích 9 câu đầu Đất nước