TOP 7 bài thuyết minh về lễ hội Đền Hùng ấn tượng nhất, đem đến thông tin sâu sắc về lịch sử, văn hóa, và tín ngưỡng của khu di tích Đền Hùng, giúp học sinh lớp 9 viết văn thuyết minh một cách xuất sắc.
Lễ hội Đền Hùng diễn ra vào ngày mồng 10 tháng 3 âm lịch, để tưởng nhớ và tri ân công lao của các vị vua Hùng đã dựng nước và giữ nước. Đền Hùng nằm trên đỉnh núi Nghĩa Lĩnh, tại xã Hy Cương, Thành phố Việt Trì, tỉnh Phú Thọ. Hãy cùng theo dõi để hiểu rõ hơn về lễ hội quan trọng này qua một bài viết mẫu về văn thuyết minh.
Dàn ý văn thuyết minh về lễ hội Đền Hùng
Mở đầu: Giới thiệu về di tích lịch sử Đền Hùng.
Phần nội dung
Quá trình hình thành: Vua Hùng lựa chọn vị trí để xây đô.
Đặc điểm chính:
- Vị trí: Đặt trên đỉnh núi Nghĩa Lĩnh, giữa vùng đất Phong Châu, hiện nay thuộc xã Hy Cương, thành phố Việt Trì, tỉnh Phú Thọ.
- Bao gồm bốn đền chính: đền Hạ, đền Trung, đền Thượng và đền Giếng.
- Điểm xuất phát của Khu di tích là Đại Môn, xây dựng vào năm 1917 theo kiểu vòm cong.
- Đền Hạ: Xây dựng vào thế kỷ 17 - 18, có hình dạng chữ Nhị, được cho là nơi Âu Cơ sinh bốn trăm trứng, sau nở thành trăm người con.
- Chùa Thiên Quang: Nằm cạnh đền Hạ, xây dựng vào thời kỳ Trần.
- Đền Trung: Còn được biết đến với tên gọi Hùng Vương Tổ Miếu, tồn tại từ thời kỳ Lý - Trần, có cấu trúc đơn giản theo hình dạng chữ Nhất. Tại đây, Lang Liêu đã dâng vua cha bánh chưng trong ngày lễ tết.
- Đền Thượng: Đặt trên đỉnh núi Nghĩa Lĩnh, thờ Thánh Gióng và vua Hùng.
- Lăng vua Hùng: Là nơi an nghỉ của Hùng Vương thứ 6. Lăng được xây dựng theo dạng hình vuông với cột liền tường và hướng về phía đông nam. Bên trong lăng, có mộ của vua Hùng.
- Đền Giếng: Nằm ở phía Đông Nam chân núi Nghĩa Lĩnh. Đền được xây dựng vào thế kỷ 18, là nơi mà hai công chúa của vua là Tiên Dung và Ngọc Hoa thường ghé qua, nơi họ thường soi gương và chải tóc.
Ý nghĩa văn hóa, tín ngưỡng của di tích
- Thể hiện phong tục “uống nước nhớ nguồn, ăn quả nhớ người trồng cây” của dân tộc ta từ hàng nghìn năm qua.
- Là di sản có giá trị sâu sắc thể hiện lòng biết ơn sâu sắc đối với các thế hệ tiền bối, đặc biệt là với vua Hùng, người đã mở ra đất nước Việt Nam.
Kết luận: Khẳng định lại ý nghĩa của khu di tích Đền Hùng.
Thuyết minh về lễ hội Đền Hùng
Đền Hùng là biểu tượng của lịch sử dân tộc Việt Nam, khu di tích lịch sử Đền Hùng là nơi thờ phụng các vua Hùng - những người có công lớn trong việc xây dựng đất nước từ xa xưa. Ngày giỗ Tổ mồng 10 tháng 3 trở thành ngày lễ trọng đại của dân tộc.
Đền Hùng được xây dựng trên núi Nghĩa Lĩnh, hiện nay thuộc xã Hy Cương, thành phố Việt Trì, tỉnh Phú Thọ. Đây là nơi chứa đựng lăng tẩm, miếu thờ các vua Hùng. Nếu du khách bắt đầu từ chân núi, họ sẽ khám phá đền Hạ đầu tiên - nơi được cho là nơi mẹ Âu Cơ sinh ra bốn trăm trứng, một nửa của trứng này theo cha, nửa còn lại theo mẹ. Tiếp theo là đền Trung, thường tổ chức các cuộc họp quốc gia của vua Hùng trong quá khứ, và sau đó là đến đền Thượng, là nơi thờ vua Hùng thứ sáu, cũng là vị trí cao nhất trong khu di tích.
Hằng năm, ngày giỗ tổ Hùng Vương được tổ chức trang trọng theo nghi lễ quốc gia, sự kiện này bao gồm cả phần lễ và phần hội. Lễ Rước Kiệu diễn ra tại các đền, chùa trên núi, các nhà lãnh đạo của quốc gia dâng hương tại đền Thượng để tưởng nhớ vua Hùng. Các nghi thức và hoạt động dâng hương sẽ được tổ chức trang trọng và kính trọng, và sẽ được truyền thông đưa tin. Cả nước dân sẽ tham gia dâng lễ tại các đền, chùa, bày tỏ lòng thành kính và cầu chúc hòa bình, thành công trong cuộc sống.
Ngoài ra, không thể không nhắc đến lễ Dâng Hương tại các đền, chùa trên núi. Lễ hội cũng tạo cơ hội cho người dân tham gia các hoạt động văn hóa truyền thống. Mọi người có thể thưởng thức các trò chơi truyền thống như đấu vật, chọi gà, rước kiệu, đánh cờ người… Ngoài ra, có sẵn sân khấu cho các hoạt động nghệ thuật như chèo, kịch, hát quan họ,… Các nghệ sĩ từ nhiều nơi tới để biểu diễn những điệu hát truyền thống, tạo nên sự đặc sắc cho lễ hội Đền Hùng, góp phần làm nên bản sắc văn hóa của đất nước.
Những người tham dự không chỉ đến để thưởng ngoạn lễ hội mà còn để thể hiện lòng tôn kính, tâm linh với đất Tổ, nơi gốc rễ linh thiêng của dân tộc. Hàng năm, vào mùng 10 tháng 3, người dân và du khách tham gia vào lễ hội tại đền Hùng, một nét văn hóa truyền thống đậm chất Việt Nam. Lễ hội được tổ chức trang trọng, thể hiện lòng biết ơn đối với công lao của các vua Hùng trong việc xây dựng và bảo vệ đất nước.
Thuyết minh về lễ hội Đền Hùng - Mẫu 1
Là người Việt Nam, ai cũng quen thuộc với câu ca này:
“Cho dù ai đi ngược về xuôi
Hãy nhớ ngày Giỗ Tổ vào mồng mười tháng ba
Khắp miền truyền đi những câu ca
Vẫn là nước non, là nhà ngàn năm.”
Lễ hội đền Hùng giỗ tổ Hùng Vương (được tổ chức vào mồng mười tháng ba hàng năm) từ lâu đã trở thành một phong tục tâm linh quan trọng trong văn hoá Việt Nam, là biểu tượng của lòng yêu nước. Giỗ Tổ Hùng Vương đã trở thành một ngày lễ quan trọng của dân tộc. Dù ở bất kỳ nơi đâu, người Việt Nam đều nhớ ngày giỗ Tổ và hướng về Phú Thọ. Từ thời kỳ phong kiến, Đền Hùng đã là nơi tôn vinh công lao của các Vua Hùng, là biểu tượng của sự đoàn kết dân tộc.
Mỗi năm vào ngày mồng mười tháng ba, lễ hội đền Hùng vẫn được tổ chức theo truyền thống văn hoá dân tộc. Không chỉ để tưởng nhớ tổ tiên, lễ hội Đền Hùng còn nhằm ghi nhớ công lao của mười tám vị Vua Hùng đã xây dựng và bảo vệ đất nước.
Lễ hội đền Hùng diễn ra vào ngày mồng mười tháng ba:
“Dù ai đi ngược về phía nào
Hãy nhớ ngày giỗ Tổ vào mồng mười tháng ba”
Từ xa xưa, lễ hội Đền Hùng luôn được biết đến với đặc điểm riêng, phần lễ trọng hơn phần hội. Mọi người tham dự hội đều hướng về tổ tiên với lòng tôn kính và biết ơn sâu sắc (Uống nước nhớ nguồn). Phần hội chỉ là một phần nhỏ để tăng thêm sự vui tươi, hân hoan trong ngày này.
Phần lễ bao gồm lễ tế của triều đình sau đó là lễ của nhân dân. 41 làng trong tỉnh Phú Thọ mang kiệu từ đình làng của mình đến Đền Hùng. Các kiệu đều được trang trí đẹp mắt, được rước đi trong không khí trang nghiêm nhưng cũng rất vui vẻ với âm nhạc và tiếng hò reo. Phần hội có các trò chơi dân gian như đánh vật, ném bóng, cờ người, bắn cung nỏ... và đặc biệt là các buổi hát xoan, hát ghẹo - những điệu nhạc độc đáo của vùng Châu Phong.
Mỗi năm, vào những năm chẵn (mỗi 5 năm), lễ giỗ Tổ được tổ chức theo nghi lễ quốc gia, năm khác do tỉnh Phú Thọ tổ chức. Dù là năm chẵn hay năm lẻ, lễ hội Giỗ Tổ vẫn diễn ra rất trang trọng, bao gồm cả phần lễ và hội. Ngày 2 tháng 9 năm 1945, nước Việt Nam dân chủ cộng hòa ra đời, đánh dấu một bước ngoặt quan trọng trong lịch sử của dân tộc. Lễ giỗ Tổ Hùng Vương năm 1946 là một sự kiện đặc biệt, đáng nhớ. Cụ Huỳnh Thúc Kháng, Phó Chủ tịch nước thời điểm đó, đã thay mặt Chính phủ Việt Nam Dân chủ cộng hoà thực hiện lễ dâng hương tại Đền Hùng.
Trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã dặn dò cán bộ 'Các vua Hùng đã có công dựng nước, chúng ta phải cùng nhau giữ nước'. Lời dặn này như một lời hứa quyết tâm từ vị lãnh tụ cao nhất của đất nước.
Có lẽ không có một dân tộc nào trên thế giới có một ngày giỗ tổ như dân tộc ta. Từ truyền thuyết về Âu Cơ và Lạc Long Quân, việc sinh ra trăm trứng, nửa đi theo Cha xuống biển, nửa theo Mẹ lên rừng đã gắn kết ý thức dân tộc và tạo nên sức mạnh của chúng ta. Vì thế, hai chữ 'đồng bào' là nguồn gốc của tình yêu thương và sức mạnh của Việt Nam.
Phần lễ diễn ra trong không khí trang nghiêm tại các đền chùa trên núi Hùng. Nghi thức dâng hương, dâng hoa của các đại biểu của Đảng, Chính phủ, các địa phương trên toàn quốc,… được tổ chức trang nghiêm và trang trọng tại đền Thượng. Từ chiều ngày mồng 9, làng được phép rước kiệu dâng lễ tại nhà bảo tàng dưới chân núi, trên kiệu đặt lễ vật. Sáng mồng 10, các đại biểu tập trung ở thành phố Việt Trì, xe tiểu binh rước vòng hoa dẫn đầu, diễu hành đến chân núi Hùng.
Khi đến trước cửa 'Điện Kính Thiên”, đoàn đại biểu kính cẩn dâng lễ vào thượng cung đền Thượng. Nguyên thủ quốc gia hoặc đại biểu đại diện Bộ Văn hoá, thay mặt cho tỉnh và nhân dân cả nước đọc chúc văn lễ Tổ. Toàn bộ nghi thức hành lễ được báo chí, truyền hình trực tiếp để đồng bào cả nước theo dõi lễ hội. Người tham dự lễ dâng lễ trong các đền, chùa trên núi, ai cũng có lòng cầu nguyện tổ tiên phù hộ cho con cháu.
Lễ hội ngày nay thể hiện nhiều biểu hiện văn hóa cổ xưa. Văn hóa hiện đại được kết hợp với truyền thống. Trong khu vực diễn ra hội, có nhiều cửa hàng bán đồ lưu niệm, văn hoá phẩm, các dịch vụ ăn uống, các khu văn hóa, thể thao,… duy trì từ nhiều năm trước.
Các trò chơi dân gian vẫn được tổ chức như truyền thống: đu quay, đấu vật, chọi gà, kéo lửa, nấu cơm thi, đánh cờ tướng (cờ người)… Ngoài ra, có sân khấu của các đoàn nghệ thuật chuyên nghiệp: chèo, hát quan họ, kịch nói,… Đây là nơi để giao lưu văn hoá giữa các vùng. Những điệu hát Xoan – Ghẹo với lời ca tinh tế mượt mà làm nổi bật văn hoá của Phú Thọ.
Tổ tiên luôn muốn nhắc nhở con cháu: nên làm tròn nhiệm vụ của mình, giữ kỷ cương, để gia đình yên ổn, xã hội được an cư lạc nghiệp. Lời dạy này được nhắc lại hàng năm thông qua ngày hội giỗ và còn được khắc trên trống đồng Đông Sơn, biểu tượng của dân tộc.
Qua lễ hội đền Hùng, tổ tiên của chúng ta muốn truyền đạt cho hậu thế tinh thần giữ nước, bảo vệ dân tộc. Suốt hàng ngàn năm gìn giữ và xây dựng, đánh bại kẻ thù và xây dựng, lễ hội đền Hùng đã trở thành biểu tượng của tinh thần, là nguồn gốc của sức mạnh, sự rực rỡ của một nền văn hóa.
Không chỉ chúng ta người Việt tự hào về Đền Hùng và ngày giỗ Tổ, mà cả thế giới cũng ghi nhận những dòng lưu bút của các đại biểu quốc tế và bạn bè từ khắp nơi trên thế giới đã từng đến thăm viếng Đền Hùng. Chúng ta thật sự tự hào khi biết rằng Đền Hùng và các di tích trên núi Nghĩa Lĩnh đã làm cho thế giới phải kính trọng văn hóa và nguồn gốc dân tộc của chúng ta. Trong những dòng lưu bút đó, có những tuyên bố 'Đền Hùng là nơi bắt đầu của lịch sử Việt Nam…'.
Lịch sử không ngừng chảy đi. Qua hàng ngàn năm, với bao biến động, Đền Hùng và ngày giỗ Tổ mồng mười tháng ba vẫn là điểm sáng thu hút mọi ánh nhìn, nơi mà con cháu kính trọng công đức của tổ tiên, là biểu tượng của dân tộc và văn hóa Việt Nam – một dân tộc có truyền thống xây dựng và giữ vững đất nước hàng nghìn năm.
Thuyết minh về lễ hội Đền Hùng - Mẫu 2
Dù ai đi ngược về xuôi
Nhớ ngày giỗ Tổ mùng mười tháng ba
Bất kể ở nơi nào, người con Việt Nam luôn ghi nhớ những giá trị văn hóa, những chiến công của mười tám vị vua Hùng - những người đã khởi đầu cho đất nước Việt Nam. Vào ngày mùng mười tháng ba âm lịch, mọi người dâng hương tại Đền Hùng - Phú Thọ để thể hiện lòng thành kính đối với tổ tiên và người đi trước. Đây là một trong những lễ hội lớn nhất của đất nước chúng ta.
Lễ hội Đền Hùng và giỗ tổ Hùng Vương diễn ra hàng năm vào ngày mùng mười tháng ba âm lịch. Các đền thờ vua Hùng trên núi Nghĩa Lĩnh là nơi thể hiện sâu sắc tín ngưỡng truyền thống của nhân dân. Việc duy trì lễ hội này chứng tỏ lòng biết ơn của thế hệ sau đối với công lao của tổ tiên.
Lễ hội Rước kiệu là một phần quan trọng trong ngày lễ. Mọi người tham gia với tinh thần nghiêm trang, kính lễ. Đoàn rước kiệu trang nghiêm đi qua các đền chùa trên núi Hùng, mang theo những lễ vật truyền thống. Mọi người cầu nguyện từ tận lòng mong nhận được sự phù hộ từ thần linh.
Sau phần lễ tế, lễ hội chuyển sang phần hội với sự tham gia hào hứng của mọi người, đặc biệt là giới trẻ. Mỗi năm, lễ hội mở màn bằng phần thi kiệu của các làng xung quanh. Đây là dịp để mọi người thể hiện niềm vinh dự và sự tôn trọng đối với truyền thống. Qua đó, chúng ta nhìn thấy rõ sự phong phú và sâu sắc trong đời sống tâm linh của dân tộc.
Trong lễ hội, khách thăm sẽ được thưởng thức nghi lễ hát Xoan - một di sản văn hóa độc đáo chỉ có ở đây. Hát Xoan đã trở thành một phần không thể thiếu của các lễ hội tôn vinh văn hóa dân tộc. Ngoài ra, còn có ca trù, một loại hình âm nhạc truyền thống khác, cùng với nhiều trò chơi dân gian như đu quay, đánh cờ, chọi gà, đấu vật, thu hút sự quan tâm của khách tham quan. Buổi tối, mọi người cũng có thể tham gia vào các hoạt động văn hóa như hát đối, hát giao duyên, hát chèo tại sân của đền Hạ hoặc đền Giếng.
Lễ hội Đền Hùng là một nét đẹp văn hóa trong đời sống tâm linh của người Việt, mang lại những giá trị lịch sử quý báu cho sự phát triển của đất nước. Phú Thọ từ lâu đã được coi là thánh địa của dân tộc, nơi ghi dấu những trang sử hào hùng của quốc gia. Lễ hội này là dịp để mọi người tỏ lòng thành kính và tự hào về nguồn gốc lịch sử của dân tộc.
Thuyết minh về lễ hội Đền Hùng - Mẫu 3
Là người con của đất Việt, ai cũng quen thuộc với câu ca:
Dù ai đi ngược về xuôi
Nhớ ngày Giỗ Tổ mùng mười tháng ba
Khắp miền truyền mãi câu ca
Nước non vẫn nước non nhà ngàn năm.
Suốt từ xa xưa, trong tâm hồn của người Việt luôn hướng về một nguồn cảm hứng văn hóa - đó là lễ hội Đền Hùng và Giỗ Tổ Hùng Vương, diễn ra vào ngày mùng 10 tháng 3 âm lịch. Ngày giỗ Tổ Hùng Vương - từ lâu đã trở thành một dịp quan trọng của cả dân tộc, ăn sâu vào tâm trí của mỗi người dân Việt Nam. Dù ở bất cứ nơi nào, người Việt vẫn nhớ ngày giỗ Tổ, vẫn hướng về vùng đất nguồn - xã Hy Cương - Lâm Thao - Phú Thọ. Đó là nơi giao thoa văn hóa tâm linh của dân tộc. Từ hàng nghìn năm qua, Đền Hùng đã trở thành biểu tượng của lòng đoàn kết dân tộc Việt Nam. Người Việt may mắn khi có một Tổ chung để kính trọng, có một miền Đất Tổ chung để ghi nhớ, có một đền thờ Tổ chung để tôn vinh. Ngày nay, lễ hội Giỗ Tổ vẫn diễn ra theo truyền thống văn hóa dân tộc, nhằm truyền bá tinh thần yêu nước 'Uống nước nhớ nguồn', biết ơn sâu sắc công lao của các Vua Hùng và các bậc tiền bối đã xây dựng nước và bảo vệ đất nước.
Ngày giỗ Tổ Hùng Vương là dịp hội tụ của toàn dân, nơi mọi trái tim, dù ở bất kỳ nơi nào, cũng đồng lòng hướng về cùng một hướng: Đền Hùng.
Lễ giỗ Tổ Hùng Vương được tổ chức vào ngày mùng 10 tháng ba âm lịch:
Dù ai đi ngược về xuôi
Nhớ ngày giỗ Tổ mùng mười tháng ba
Lễ hội Đền Hùng là một trong những lễ hội truyền thống của dân tộc Việt Nam. Từ xa xưa, nó đã nổi bật với phần lễ hơn là phần hội. Những người tham dự mang trong mình tâm trạng hướng về tổ tiên, nguồn cội với lòng kính trọng và biết ơn sâu sắc (Uống nước nhớ nguồn). 41 làng xã trong tỉnh Phú Thọ tham gia rước kiệu và dâng lễ Tổ. Từ hàng nghìn năm, trên các cỗ kiệu được bày lễ vật, kèm theo những âm nhạc truyền thống, cờ quạt, bát bửu, lọng che và chiêng trống. Những người ở xa thường phải rước kiệu trong 2-3 ngày để đến Đền Hùng', 'Trong quá khứ, việc cúng Tổ diễn ra vào tháng 3 hàng năm. Thường thì con cháu ở xa sẽ tổ chức giỗ một ngày sau, vào ngày 11 tháng 3. Thời nhà Nguyễn, mỗi 5 năm sẽ tổ chức một lễ lớn vào các năm kết thúc bằng số 5 và 0 của mỗi thập kỷ. Các đại biểu của cơ quan quản lý và các quan vị địa phương sẽ thực hiện nghi lễ cúng Tổ vào ngày 10 tháng 3. Do đó, ngày giỗ Tổ sau đó mới được xác định là ngày 10 tháng 3 hàng năm'. Những lễ hội chính thường bao gồm: Lễ tế của triều đình, sau đó là lễ dân. 41 làng xã được rước kiệu từ đình làng mình đến Đền Hùng. Đó là những cuộc lễ hội thể hiện sâu sắc tinh thần tâm linh và nhân văn. Các cỗ kiệu được trang trí hoa vàng, khắc hoạ tinh tế, được rước đi trong không khí trang nghiêm nhưng vui vẻ với sự tham gia sâu sắc của nhân dân và tiếng chiêng, trống, nhạc bát âm rộn ràng.
Ngày nay, việc tổ chức lễ hội Giỗ Tổ hàng năm vẫn tuân theo truyền thống văn hoá của dân tộc. Cứ mỗi 5 năm (năm chẵn), lễ hội Giỗ Tổ được tổ chức theo nghi lễ quốc gia, năm lẻ do tỉnh Phú Thọ tổ chức. Dù là năm chẵn hay lẻ, lễ hội vẫn diễn ra rất trang trọng và gồm hai phần chính: phần lễ và phần hội.
Phần lễ được tổ chức trong các đền, chùa trên núi Hùng. Nghi thức dâng hương và hoa của các đoàn đại biểu của Đảng, Chính phủ và các địa phương trên cả nước diễn ra trọng thể tại đền Thượng. Cả nước theo dõi thông qua các phương tiện truyền thông để hiểu rõ hơn về lễ hội này.
Phần hội diễn ra sôi động, náo nhiệt xung quanh các đền, chùa và dưới chân núi Hùng. Lễ hội ngày nay kết hợp nhiều hình thức văn hoá truyền thống và hiện đại. Nơi đây cũng là nơi để các nghệ nhân thể hiện tài năng và giao lưu văn hoá giữa các vùng.
Hôm nay, cả nước hướng về Đất Tổ, mọi người đều dự lễ Đền Hùng. Tổ tiên luôn muốn nhắc nhở con cháu: mỗi người phải làm tròn bổn phận, giữ kỷ luật, tuân theo nguyên tắc cha ra cha, con ra con để đem lại hạnh phúc cho gia đình và sự phát triển cho xã hội. Lời di huân này được truyền tới mỗi năm qua ngày giỗ và được khắc trên trống Đông Sơn, biểu tượng của tinh thần dân tộc.
Không chỉ người Việt mà cả thế giới đều ngưỡng mộ Đền Hùng và ngày giỗ Tổ. Nhiều người nước ngoài khi đến thăm Đền Hùng đều phải thốt lên sự kính trọng với ý thức cội nguồn của dân tộc Việt Nam. Nhiều bài viết đều nhấn mạnh: 'Đền Hùng là nơi bắt đầu của lịch sử Việt Nam...'.
Lịch sử là một dòng chảy không ngừng. Qua hàng nghìn năm, Đền Hùng và ngày giỗ Tổ vẫn là điểm tụ hội của dân tộc, là biểu tượng của sức mạnh và niềm tự hào của người Việt.
Thuyết minh về lễ hội Đền Hùng - Mẫu 4
Phong tục 'uống nước nhớ nguồn' đã trở thành lẽ sống của người Việt từ hàng nghìn năm qua. Lễ hội Đền Hùng là dịp quan trọng để tưởng nhớ công lao của các vua Hùng trong việc xây dựng đất nước. Đây là một phần của truyền thống văn hoá sâu sắc của dân tộc Việt Nam, được tổ chức trọng thể hàng năm và thu hút sự tham gia của hàng chục vạn người.
Khu di tích đền Hùng trên núi Nghĩa Lĩnh, xã Huy Cương, huyện Phong Châu, tỉnh Phú Thọ là một tuyệt phẩm kiến trúc, từng ngôi đền được xây bằng đá để thờ các vị thần núi và các vị vua Hùng. Suốt hàng nghìn năm lịch sử, nhân dân đã vun đắp, bảo tồn, và xây dựng những ngôi đền này để ghi dấu tinh thần dân tộc. Những di tích này trở thành biểu tượng văn hóa và là bảo tàng lịch sử của dân tộc.
Mỗi công trình kiến trúc ở di tích đền Hùng đều kể một câu chuyện huyền thoại, kết hợp với hiện thực lịch sử, khiến người tham dự hội hôm nay như được sống lại quá khứ và hiện tại. Khí thiêng của núi sông khiến ngày hội trở nên trọng thêm. Từ cổng tiền lớn dưới chân núi, đến bức đại tự mang dòng chữ 'Cao sơn cảnh hàng', mọi người đều được chào đón một cách ấm áp. Đến đền Hạ, nơi bà Âu Cơ sinh ra trăm trứng, đến đền Trung, nơi các vua Hùng thường họp bàn việc nước, và đến đền Thượng, nơi các vua Hùng cầu nguyện cho mưa thuận gió hòa, mùa màng bội thu.
Trong truyền thống thờ cúng đa thần, di tích đền Hùng là tâm điểm của sự tín ngưỡng dân gian. Sự trông nom và thờ cúng từ bao đời nay là minh chứng cho đạo lý 'uống nước nhớ nguồn' của dân tộc Việt Nam. Lễ hội đền Hùng là dịp quan trọng để mỗi người nhớ về dòng giống và những người tiền nhiệm đã góp phần lớn trong việc xây dựng và bảo vệ đất nước.
Di tích đền Hùng trên núi Nghĩa Lĩnh là biểu tượng của lòng tự hào dân tộc, mỗi khi đến dịp lễ giỗ tổ. Đây là cơ hội để mỗi người dân Việt nhớ lại công lao to lớn của tổ tiên trong việc khai sáng nền văn minh và xây dựng đất nước.
Khu di tích đền Hùng trên núi Nghĩa Lĩnh là một minh chứng cho sự kiên trì và lòng hiếu nghĩa của dân tộc Việt Nam qua hàng nghìn năm lịch sử.
Tháng Giêng, ngày giỗ của Thánh Sóc Sơn
Tháng ba, nhớ về ngày giỗ Tổ Hùng Vương.
Hoặc có thể nói:
Dù ai đi gần hay xa
Đều nhớ ngày giỗ Tổ vào mùng mười tháng ba
Dù ai đi ngược hay xuôi
Cũng nhớ ngày giỗ Tổ vào mùng mười tháng ba
Hội đền Hùng kéo dài từ mùng 8 đến ngày 11 tháng 3 âm lịch, nhưng ngày mùng 10 mới là ngày chính hội. Tương tự như các lễ hội khác ở đồng bằng Bắc Bộ, hội đền Hùng cũng bao gồm hai phần: Phần lễ và phần hội.
Phần lễ được tổ chức rất trọng thể và mang tính quốc lễ cao. Lễ vật dâng cúng bao gồm 'lễ tam sinh' (một con lợn, một con dê và một con bò), bánh chưng, bánh dày và xôi nhiều màu sắc, nhạc cụ thì chủ yếu là trống đồng cổ. Sau khi trống đồng vừa vang lên, các quan chức tham dự lễ nhập vào đền dưới sự hướng dẫn của chủ lễ. Tiếp theo là lễ tế dành cho các cụ già của các làng xung quanh đền Hùng. Cuối cùng là mọi người và du khách tham gia lễ tế trong các đền thờ, tưởng nhớ các vị vua Hùng.
Sau phần lễ là phần hội. Tại lễ hội đền Hùng, mỗi năm đều tổ chức cuộc thi kiệu của các làng lân cận. Sự xuất hiện của các đoàn rước linh đình khiến không khí hội họa trở nên phấn khích hơn. Các cỗ kiệu của các làng phải được chuẩn bị kỹ lưỡng trước vài ngày mới có thể tham gia cuộc thi. Cỗ kiệu giành giải nhất sẽ được đưa lên đền Thượng để thay mặt các cỗ kiệu khác trong năm tiếp theo. Điều này được coi là niềm tự hào lớn lao của dân làng, cho rằng họ được phù hộ của các vị thần linh và các vua Hùng. Chuẩn bị cho đám rước các cỗ kiệu đòi hỏi công phu và chu đáo, nhưng những nỗ lực này đã được coi là một hành động cao cả, là sự kính trọng và tôn vinh Tổ tiên.
Mỗi đoàn rước kiệu bao gồm 3 cỗ kiệu. Chúng được trang trí rực rỡ và tinh tế. Cỗ kiệu đầu tiên mang các vật phẩm tôn thờ, hương hoa, đèn, trầu cau, chén nước và bầu rượu. Cỗ kiệu thứ hai chứa hương án và bài vị của Thánh, được trang trí lộng lẫy. Cỗ kiệu thứ ba mang bánh chưng, bánh dày và một con lợn luộc nguyên vẹn, theo sau là các vị quan chức và cụ già làng. Trong lễ hội, cũng có nghi thức hát thờ, hay còn gọi là hát Xoan, một phần không thể thiếu và đặc biệt quan trọng. Hát Xoan đã tồn tại từ thời Hùng Vương và được truyền bá rộng rãi trong cộng đồng xung quanh đền Hùng.
Mở đầu, người đứng đầu phường Xoan Kim Đức cùng các chủ tế hát chúc bằng khấn nguyện. Sau đó, một nhóm trẻ em thể hiện trò giáo trống và pháo. Tiếp theo, bốn cô gái ra hát thơ nhang và dâng hương bằng giọng hát du dương. Cuối cùng là các bài ca ngợi thần linh để kết thúc phần lễ của Xoan.
Ở đền Hạ, có màn trình diễn ca trù (hay còn gọi là hát nhà tơ, hát ả đào), một loại hình trình diễn thờ trước cửa đình trong các dịp hội làng, được phường hát Do Nghĩa thể hiện.
Ngoài sân đền Hạ, có một khu vực thoáng đãng với đu tiên. Các bàn đu có hai cô gái Mường ngồi lên, tạo nên một bức tranh tươi đẹp. Trò chơi đu tiên là một biểu tượng của sự duyên dáng và sự nhẹ nhàng của phụ nữ. Xung quanh khu vực này là các trò chơi dân gian cổ truyền, như đấu vật, chọi gà, đánh cờ và tổ tôm điếm. Các hoạt động này thu hút sự quan tâm của người cao niên và giới trẻ. Buổi tối, các buổi biểu diễn chèo và tuồng được tổ chức ở các bãi rộng gần đền Hạ, tạo ra không khí sôi động và vui vẻ cho ngày hội.
Lễ hội Đền Hùng là một truyền thống đẹp của dân tộc Việt Nam. Từ lâu, vùng đất Tổ đã trở thành 'Thánh địa linh thiêng' của cả nước, là nơi phát nguyên nguồn gốc dân tộc. Dù qua bao thời kỳ lịch sử với những thăng trầm, lễ hội Đền Hùng vẫn được tổ chức. Điều này chứng tỏ sức mạnh phi thường và bản sắc văn hóa rực rỡ, đậm đà của dân tộc Việt Nam. Người Việt không phân biệt tôn giáo khi hành hương về đất Tổ, vì họ đều tự hào là con cháu của vua Hùng. Vì thế, ai là người Việt cũng có thể hành hương về đất Tổ một cách dễ dàng và thuận tiện nếu có lòng thành và mong muốn.
Hội đền Hùng là dịp quy tụ mọi người, tôn vinh nòi giống và biểu tượng của tinh thần cộng đồng. Mọi người đều mang theo lòng ngưỡng mộ sâu sắc về quê hương, một tín ngưỡng sâu đậm trong lòng người Việt dù họ ở bất kỳ nơi nào.
Lễ hội Đền Hùng - Mẫu 5
Dù ai đi ngược về xuôi
Nhớ ngày Giỗ Tổ mùng 10 tháng 3
Khắp nơi vẫn truyền đi câu hát
Đất nước là nơi gắn bó hàng ngàn năm.
Hàng năm, lễ hội Giỗ Tổ vẫn được tổ chức theo truyền thống văn hóa của dân tộc. Mỗi 5 năm một lần, lễ hội được tổ chức theo nghi lễ quốc gia, còn lại do tỉnh Phú Thọ chịu trách nhiệm. Việc tổ chức lễ hội Giỗ Tổ rất cẩn thận, gồm hai phần: lễ và hội.
Lễ hội Rước Kiệu được tổ chức trang nghiêm tại các đền chùa trên núi Hùng. Nghi thức dâng hương hoa của các đại biểu Đảng, Chính phủ, các địa phương trên cả nước diễn ra trọng thể tại đền Thượng. Từ chiều mùng 9, các làng được phép rước kiệu dâng lễ tập trung tại nhà bảo tàng dưới chân núi, trên kiệu đặt lễ vật. Sáng mùng 10, các đại biểu tập trung tại Việt Trì, xe tiêu binh rước vòng hoa đi trước, diễu hành tới chân núi Hùng. Các đại biểu xếp hàng sau kiệu lễ, lên đền theo nhạc phường bát âm và đội múa sinh tiền. Đến trước “Điện Kính Thiên”, đoàn dừng lại, kính cẩn dâng lễ vào thượng cung đền Thượng. Một đồng chí lãnh đạo tỉnh (năm chẵn là nguyên thủ quốc gia hoặc đại biểu đại diện Bộ Văn hoá) đọc chúc căn lễ Tổ. Toàn bộ nghi thức hành lễ được truyền hình trực tiếp để người dân theo dõi. Mọi người dâng lễ trong các đền chùa trên núi, ai cũng mong tổ tiên phù hộ cho con cháu.
Lễ Dâng Hương diễn ra rộn ràng xung quanh các đền chùa và dưới chân núi Hùng. Lễ hội ngày nay phát triển nhiều hình thức văn hoá. Trong khu vực hội, có nhiều cửa hàng bán đồ lưu niệm, văn hoá phẩm, dịch vụ ăn uống, khu văn thể tổ chức gọn gàng, quy củ. Ở khu vực này, các trò chơi dân gian được duy trì như: đu quay, đấu vật, chọi gà, bắn nỏ, rước kiệu, kéo lửa nấu cơm thi, đánh cờ tướng. Có các trò văn nghệ chuyên nghiệp như: chèo, kịch nói, hát quan họ. Hội là nơi thi tuyển và giao lưu văn hoá. Nghệ nhân Mường mang lại âm nhạc trống đồng từng thời giờ trên núi Hùng, gọi mưa nắng thuận hòa, mùa màng tươi tốt. Xoan – Ghẹo với lời ca tinh tế, mượt mà làm nổi bật lễ hội, thể hiện văn hóa Trung du Đất Tổ. Nhà bảo tàng Hùng Vương lưu giữ nhiều cổ vật của các vua Hùng.
Trong thời đại hiện nay, lễ hội Giỗ Tổ Hùng Vương được tổ chức rộn ràng và phát triển. Ý nghĩa tâm linh của cuộc trẩy hội về Đền Hùng hàng năm đã trở thành một phần không thể thiếu của đời sống văn hoá tinh thần của người Việt Nam. Mọi người đều bình đẳng trong việc thăm viếng đền và tham dự lễ hội Giỗ Tổ Hùng Vương.
Lễ hội Đền Hùng - Mẫu 6
Dù ai đi ngược về xuôi
Nhớ ngày giỗ tổ mùng 10 tháng 03
Câu ca dao kể từ xa xưa luôn nhắc nhở con cháu Việt Nam về công lao của các vị vua Hùng trong việc xây dựng và giữ nước.
Lễ hội Giỗ Tổ Hùng Vương có nguồn gốc từ thời vua Lê Thánh Tông. Vào thời vua Lê Kính Tông, ngày giỗ tổ Hùng Vương được chọn vào ngày 11 và 12 tháng 3 âm lịch. Thời nhà Nguyễn, ngày này đã được xác định vào ngày mùng 10 tháng 3 âm lịch và trở thành ngày lễ truyền thống tại đền Hùng.
Ngày giỗ tổ Hùng Vương bao gồm hai phần: lễ và hội. Phần lễ bao gồm rước kiệu và dâng hương tại đền Thượng để tưởng nhớ công lao của các vị vua Hùng. Lễ được tổ chức trọng thể tại các đền chùa và được chuẩn bị cẩn thận. Phần hội với nhiều trò chơi dân gian như hát xoan, thi vật, kéo co...
Phần hội của lễ hội Giỗ Tổ Hùng Vương diễn ra sôi động và náo nhiệt với nhiều trò chơi dân gian như hát xoan, thi vật, kéo co... Lễ hội còn là dịp giao lưu văn hóa giữa các vùng miền.
Giỗ tổ Hùng Vương là một phong tục tuyệt vời trong đời sống tâm linh của người Việt, đồng thời là biểu tượng của văn hóa lịch sử đặc biệt của đất nước. Phú Thọ được coi là mảnh đất thánh địa của cả nước, là nơi bắt nguồn của dân tộc Việt Nam. Việc hành hương về đất tổ thể hiện lòng thành kính và tri ân của mỗi người Việt đối với tổ tiên.
Ngày giỗ tổ Hùng Vương vào ngày mùng 6 tháng 12 năm 2012 đã được Unesco công nhận là di sản văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại, với những giá trị và ý nghĩa vô cùng to lớn.
Lễ hội giỗ tổ Hùng Vương là một trong những lễ hội truyền thống lớn của dân tộc Việt Nam, góp phần tô điểm thêm cho nền văn hóa dân tộc và thể hiện sự kính yêu và tưởng nhớ của dân tộc tới những người đã có công khai hoang lập quốc.