Mô phỏng cách vua Quang Trung kể lại Hoàng Lê nhất thống chí với 5 mẫu văn độc đáo nhất, cùng với dàn ý chi tiết, giúp các em học sinh lớp 9 nắm bắt nhanh chóng cách thể hiện vai vua Quang Trung kể lại Hoàng Lê nhất thống chí một cách tinh tế.

Với bộ 5 bài mô phỏng vai vua Quang Trung kể lại Hoàng Lê nhất thống chí dưới đây, các em sẽ tận hưởng trải nghiệm hóa thân và sáng tạo khi kể chuyện bằng góc nhìn của vua Quang Trung. Mời các em cùng khám phá những tác phẩm tuyệt vời này trong bài viết dưới đây của Mytour:
Dàn ý Mô phỏng vai vua Quang Trung kể lại Hoàng Lê nhất thống chí
a. Khởi đầu: Giới thiệu về sự kiện vua Quang Trung hành binh thần tốc ra Bắc và đại phá quân Thanh của nghĩa quân Tây Sơn bằng cách sử dụng ngôn ngữ ngôi thứ nhất (tự xưng 'ta')
b. Trung tâm: Tường thuật theo trình tự các sự kiện trong cuộc hành binh thần tốc ra Bắc và đại phá quân Thanh của nghĩa quân Tây Sơn từ góc nhìn của vua Quang Trung:
- 1. Vụ 1: Nghe tin quân Thanh xâm nhập nước ta, chiếm kinh thành Thăng Long nhờ sự mời gọi của vua Lê Chiêu Thống
- 2. Vụ 2: Hội ý với các tướng lĩnh, quyết định lên ngôi vua, lấy tên là Quang Trung để chính danh đánh giặc Thanh
- 3. Vụ 3: Sau khi lên ngôi, Quang Trung độc xúc toàn quân, tiến về phía Bắc để tiêu diệt giặc
- 4. Vụ 4: Đến Nghệ An, Quang Trung dừng lại để tuyển binh, huấn luyện quân đội, sẵn sàng cho trận chiến
- 5. Vụ 4: Sử dụng chiến thuật đánh lừa giặc Thanh, tạo cơ hội tấn công bất ngờ
- 6. Vụ 5: Thăng cấp cho danh tướng Ngô Thì Nhậm và tổ chức tiệc khao quân, nâng cao tinh thần toàn quân, tăng sự tin tưởng vào triều Tây Sơn
- 7. Vụ 6: Dẫn quân tấn công Thăng Long, bất ngờ đánh tan quân Thanh, khiến chúng hoảng sợ tháo chạy
- 8. Vụ 7: Hoàn toàn tiêu diệt giặc Thanh, thống nhất đất nước
c. Tổng kết: Suy ngẫm và đánh giá của vua Quang Trung về cuộc hành binh thần tốc ra Bắc và đại phá quân Thanh của nghĩa quân Tây Sơn
Mô phỏng vai vua Quang Trung kể lại cuộc hành binh thần tốc ra Bắc và đại phá quân Thanh của nghĩa quân Tây Sơn
Nghe nói quân Thanh đã chiếm Thăng Long, lòng tôi tức giận và quyết định ra trận ngay. Tuy nhiên, các tướng quân khuyên tôi nên đợi dân chúng ủng hộ trước khi tấn công, vẫn còn kịp. Ngày 25 tháng chạp, tôi lên ngôi Hoàng Đế với tên Quang Trung và quyết định khởi binh dẹp giặc.
Sau khi lên ngôi, tôi lập kế hoạch tấn công Thanh và tổ chức các cuộc duyệt binh để nâng cao tinh thần quân lính. Tôi đề xuất mỗi người tự mang vũ khí và lương thực để hành quân nhanh chóng và tiết kiệm sức lực. Tôi rất hài lòng khi thấy kế hoạch này được thực hiện thành công.
Khi đến Nghệ An, tôi cho quân nghỉ ngơi và tiến hành thêm một cuộc duyệt binh. Tăng cường binh lính, tôi dẫn quân tiến vào Bắc và dùng kế sách tấn công Hà Hồi, khiến quân Thanh đầu hàng mà không cần phải chiến đấu nhiều.
Sau chiến thắng, tôi tiến vào đánh Ngọc Hồi, sử dụng kế sách quân sự thông minh để đánh bại quân địch. Tôi tỏ ra quyết thắng và dẫn quân vào thành, khiến quân Thanh phải bỏ chạy. Chiến thắng này khiến Tôn Sĩ Nghị không kịp trang bị giáp và phải bỏ chạy qua cầu phao, làm đứt cầu và tắc nghẽn sông Nhĩ Hà.
Trong trận chiến, quân Thanh bị đánh bại hoàn toàn và kết thúc chiến tranh. Tôi và quân đại thắng, mang lại chiến công vĩ đại.
Tôi rất hạnh phúc nên đã tổ chức một buổi tiệc để mừng thắng lợi, để quốc gia được bình yên trở lại và nhân dân quay trở lại với cuộc sống bình thường.
Vai vua Quang Trung kể lại Hoàng Lê nhất thống chí
Khi tôi dẫn quân ra Bắc lần thứ hai để truy bắt Vũ Văn Nhậm, lo sợ sức mạnh của Thanh, Lê Chiêu Thống đã tham gia với Thanh. Thấy cơ hội này, giặc Thanh đã xâm lược, muốn thôn tính nước ta.
Nghe tin, tôi rất tức giận. Tôi tức giận với sự tàn bạo của giặc và sự tham nhũng của quan lại. Lòng tôi đau đớn và bất an. Tôi muốn tức thì ra quân nhưng phải lắng nghe ý kiến của quần thần, xin ý dân, lên ngôi hoàng đế mới dám ra lệnh xuất quân.
Khi mọi thứ đã được chuẩn bị, tôi tổ chức một cuộc duyệt binh, động viên binh sĩ, và tổ chức tiệc mừng thắng lợi trước khi ra trận. Sau đó, tôi chia quân thành năm đạo và dẫn đầu quân ra chiến trận. Vào tối mùng 30 Tết, chính là thời điểm giặc Thanh thường chủ quan nhất. Tôi hứa hẹn sẽ dẫn quân chiến thắng và mở tiệc ăn mừng trên kinh thành Thăng Long vào ngày mồng 7 Tết.
Quân ta tiến đến sông Gián, lính Thanh ở đó tan hoang. Đội thám quân Thanh bị bắt hết. Vào lúc nửa đêm mồng 3 Tết Kỷ Dậu (1789), quân ta vây kín thành Hà Hồi, Thượng Phúc, bắc loa gọi vào trong. Lúc đó, quân giặc mới biết và sợ hãi xin hàng, lương thực khí giới đều bị tịch thu.
Mồng 5 Tết, quân ta tiến sát đồn Ngọc Hồi. Ta ra lệnh lấy sáu chục tấm ván, cứ ghép liền 3 tấm làm một bức, ngoài cùng phủ rơm dấp nước, mỗi bức do mười người khiêng dàn thành trận chữ 'nhất'.
Nhờ gió bắc, quân Thanh dùng ống phun khói lửa để tiêu diệt quân ta nhưng không ngờ trời lại đổi gió nam, thiêu đốt lại bọn chúng. Quân Thanh không cầm cự được, bỏ chạy tán loạn, giẫm đạp lên nhau mà chết. Tướng giặc Sầm Nghi Đống phải thắt cổ tự tử. Lường trước rằng quân Thanh sẽ tìm lối chạy, ta sai một toán quân theo bờ đê Yên Duyên kéo lên, mở cờ gióng trống đánh nghi binh ở phía đông. Quân Thanh tháo chạy, thấy lại càng hoảng sợ, bèn tìm lối tắt theo đường Vịnh Kiều. Ta đón đường, dồn giặc xuống đầm Mực, cho voi giày đạp khiến quân giặc kinh hồn bạt vía, chết như ngả rạ. Giữa trưa hôm đó, quân ta đến thành Thăng Long. Tổng đốc Tôn Sĩ Nghị vẫn đang yến tiệc, nghe tin cấp báo, sợ mất mật, không kịp mặc áo giáp bỏ chạy. Tướng sĩ chen chúc, giẫm đạp lên nhau đến nỗi các cây cầu không chịu nổi đều bị đứt sập. Sông Nhị Hà tắc nghẽn vì thế. Lê Chiêu Thống cũng hốt hoảng chạy trốn sang Trung Quốc.
Ta vô cùng hạnh phúc vì đã trả được món nợ nước, rửa sạch vết nhơ nô lệ. Ta dẫn quân vào Thăng Long, mở tiệc mừng thắng lợi vào ngày mồng 5 Tết Kỷ Dậu.
Vua Quang Trung hóa thân kể lại chiến thắng Hoàng Lê
Năm đó, quân ta đưa ra Bắc để bắt Vũ Văn Nhậm nhưng lo sợ sức mạnh của Thế Tây Sơn, ta phải rút lui. Lê Chiêu Thống nhẫn nhục tìm đến triều đình Mãn Thanh xin cứu. Kẻ thù chỉ chờ có cơ hội, dồn dập kéo đến, muốn chiếm nước ta làm quận, huyện. Nghe tin đó, ta tức giận. Nhưng lúc ấy lòng dân vẫn chưa yên, tình hình nước nhà rối ren, ta không có cách nào khác, phải lên ngôi hoàng đế để an dân, khởi binh đánh giặc.
Ngày 25 tháng chạp, ta lên ngôi Hoàng Đế trước sự chứng kiến của ba quân, sau đó sắp xếp quân lực và tiến binh ra Bắc. Ngày 29, quân ta hội ngộ ở Nghệ An. Tại đây, ta hỏi ý Nguyễn Thiếp, một nhà nho nổi tiếng, để lên kế hoạch cho cuộc tấn công sắp tới. Khi mọi việc đã được sắp đặt, ta tổ chức duyệt binh, an ủi và kêu gọi binh sĩ đoàn kết đánh đuổi giặc ngoại xâm và mở tiệc khao quân. Vào tối ngày 30 Tết, quân ta lên đường, sẵn sàng cho cuộc tấn công Thăng Long vì đây là thời điểm kẻ thù chủ quan nhất. Ta hứa với các tướng sĩ là vào ngày mồng 7 tết, quân ta sẽ chiếm được kinh thành và ăn mừng chiến thắng.
Khi đến sông Gián, quân ta phá được phòng thủ. Đội thám quân Thanh ở đó đều bị bắt sống. Nửa đêm ngày 3 tháng giêng, quân ta tấn công Hà Hồi. Hà Hồi là một cứ điểm trước biên giới, quân lính không tập trung nhiều. Biết địch không cố phòng bị, tinh thần lại đang hoang mang, ta bao vây hết kinh thành, bắt loa gọi vào trong để làm rối loạn đội hình kẻ thù. Quân giặc nửa đêm nghe tiếng chiêng trống vang lên trời, cùng khói mịt mù làm chúng hoảng sợ, run rẩy xin đầu hàng. Tất cả lương thực khí giới đều bị quân ta thu giữ.
Sáng ngày 5 tháng giêng, quân ta tiến gần đền Ngọc Hồi. Đây là nơi quân giặc hội quân quan trọng nhằm kiểm soát phía nam kinh thành, quân số rất đông. Nơi này tập trung hỏa lực và cung tiễn rất mạnh. Biết thế, ta ra lệnh binh lính lấy những tấm ván ghép liền nhau, phủ rơm dấp nước kín mít, mỗi bức mười người nâng, tạo thành thế trận chữ “nhất”. Hành động này nhằm giúp quân lính tránh khỏi đạn, dễ dàng tiến quân và tiếp cận phá thành.
Tối hôm ấy, ta cho quân tiến công, tận dụng hướng gió thổi để ống phun khói lửa làm rối loạn đội hình của quân Thanh và sau đó khai thác cơ hội chém giết. Nhưng không ngờ, trời lại đổi gió, khói quay về khiến quân ta bị bất lợi. Ngay lập tức, chúng phóng tên như mưa nhằm ngăn cản quân ta tiến bước để kịp phòng bị. Bất chấp nguy hiểm, từng đội tiên phong cầm những tấm ván ấy đã che chở và dập tắt được chúng. Tên bắn đến đâu, chúng tan biến đến đó. Quân Thanh hoảng loạn, không biết phản kháng như thế nào.
Khi đó, quân ta vượt qua cầu thang, tiến vào đền Ngọc Hồi. Quân giặc hoảng loạn, giẫm đạp lên nhau chết. Ngay cả Sầm Nghi Đống cũng phải tự tử. Lường trước rằng quân Thanh sẽ tìm cách chạy trốn, ta sai quân theo bờ đê Uyên Duyên, đánh nghi binh ở phía Đông để chặn đứng. Quân Thanh tìm lối thoát theo đường Vịnh Kiều, ta dồn quân xuống đầm Mực, dùng voi chiến giẫm đạp khiến quân thù chết nhiều như rơi rạ.
Trưa hôm sau, quân ta tiến vào thành Thăng Long. Tôn Sĩ Nghị đang tiệc tùng vui vẻ, nhưng nghe tin sợ hãi, không kịp mặc áo giáp đã chạy trốn. Quân lính hoảng loạn, giẫm đạp lên nhau chết đến mức cây cầu không chịu nổi mà sập. Sông Nhị Hà bị tắc nghẽn, còn Lê Chiêu Thống bỏ chạy sang Trung Quốc.
Ta rất hài lòng khi trả được mối nợ nước, xóa sạch dấu vết của nô lệ và đưa quân vào thành Thăng Long tổ chức tiệc khao quân mừng chiến thắng. Và đặc biệt, hôm đó là mồng 5 Tết Kỷ Dậu.
Trở thành Quang Trung kể lại trận đánh ở Ngọc Hồi
Năm Kỷ Dậu 1789, khi nghe tin quân Thanh tiến vào Thăng Long, ta tức giận. Kế hoạch ban đầu là đưa quân ra Bắc đánh đuổi chúng ngay, nhưng vì lòng dân chưa yên, nên ta chờ lên ngôi hoàng đế trước, sau đó mới ra lệnh xuất quân đánh giặc.
Ngay sau khi lên ngôi, ta lập tức “kêu gọi binh sĩ lớn”, cả đội hải quân cùng ra đường. Khi đến Nghệ An, ta triệu tập một vạn quân tinh nhuệ để phục vụ cho lợi ích của nước nhà. Ở Thuận Hóa, Quảng Nam, ta tổ chức duyệt binh, động viên, khích lệ quân lính, nhắc nhở quân lính ăn tết sớm, sẵn sàng hành quân vào ngày 30 Tết, mùng 7 tháng Giêng sẽ tiến vào Thăng Long ăn mừng, tất cả đạo quân đều tuân thủ mệnh lệnh và tiếp tục hành trình. Quân ta đến sống Gián, kẻ thù trấn thủ tan rã chạy trốn trước. Đến sông Thanh Quyết, khi thấy quân ta mạnh mẽ, quân Thanh lập tức bỏ chạy, ta cho quân đuổi theo, không để bất kỳ ai thoát khỏi để tránh để những toán quân Thanh ở Hà Hồi và Ngọc Hồi biết.
Nửa đêm mồng 3 tháng Giêng năm Kỷ Dậu, quân ta bí mật bao vây làng Hà Hồi, sử dụng loa truyền gọi, quân lính hò hét tạo ra âm thanh lớn như có hàng vạn người. Quân Thanh trong làng hoảng sợ, ngay lập tức xin ra hàng. Mồng 5, quân ta tiến sát đồn Ngọc Hồi trong đêm tối tối tăm, mỗi mười lính cầm một miếng ván phòng thủ, dàn trận chuẩn bị cho cuộc chiến. Quân Thanh nổ súng, nhưng không trúng mục tiêu, thử mọi cách nhưng không thành công, đành bất lực nhìn quân ta từ từ tiến vào đồn.
Ngay khi tiếp xúc với quân địch, quân ta liền vứt ván, rút hết vũ khí và lao vào chiến đấu. Quân Thanh không thể chống lại và bỏ chạy tán loạn, giẫm đạp lên nhau chết, xác quân Thanh lan tỏa khắp nơi, Sầm Nghi Đống chạy không kịp nên tự tử. Quân Thanh chạy thoát theo đường Vịnh Kiều, ta cho quân xuống đầm mực, cho voi chiến giẫm đạp chết hàng vạn. Thừa thắng xông lên, quân Tây Sơn ta tiến quân áp sát thành Thăng Long, Tôn Sĩ Nghị đang tiệc tùng vui vẻ, nghe tin sợ hãi, không kịp mặc áo giáp, liền lên ngựa phóng thẳng về nước. Quân lính bỏ chạy giẫm đạp lên nhau chết, khi qua cầu, cầu không chịu nổi và sập, quân lính ngã xuống và chết hết, nước sông Nhị Hà bị tắc nghẽn không chảy được. Quân Thanh thảm bại.
Chỉ trong năm ngày đêm, ta đã trả được mối thù cho nước nhà, đánh đuổi hoàn toàn quân xâm lược. Là một vị vua, ta đã hoàn thành nghĩa vụ của mình khi mang lại hòa bình và độc lập cho đất nước sau hơn 45 năm nội chiến. Ta vô cùng hạnh phúc.
Viết những dòng ký ức này, tôi lại nhớ về những kỷ niệm khi tôi làm người lính Tây Sơn cùng nhau chiến đấu để đẩy lùi quân Thanh về phía chúng. Bây giờ, đất nước bình yên, phồn thịnh, tôi có cơ hội gặp gỡ những người tiền bối, những dòng họ tiếp tục truyền dạy cho thế hệ sau.
Trong vai vua Quang Trung, tôi kể lại cuộc hành binh nhanh chóng ra Bắc và đánh tan quân Thanh của quân Tây Sơn.
Ngay khi nghe tin giặc đã chiếm được Thăng Long, đất nước đặt trên bờ vực của nguy cơ, tôi không do dự mà quyết định dẫn quân đấu ngay. Tuy nhiên, sau khi nhận được lời khuyên từ các tướng lĩnh, tôi đồng ý chờ đợi lòng dân ổn định trước khi khởi binh. Vào ngày 25 tháng chạp, tôi lên ngôi Hoàng Đế với tên là Quang Trung, ra lệnh khởi binh dẹp giặc.
Ngay khi đảm nhận vị trí, tôi ngay lập tức triển khai kế hoạch chiến đấu chống lại quân Thanh, tổ chức cuộc duyệt binh, động viên binh lính, tăng cường quyết tâm chiến đấu. Tôi cũng phải suy nghĩ về cách bảo đảm hành quân và bảo toàn binh lính trong suốt nhiều ngày. Tôi nảy ra ý tưởng để mỗi người tự mang vũ khí và lương thực nhưng phải nhẹ nhàng. Mặc dù dân làng tiếp đón chúng ta một cách nồng hậu, nhưng theo lệnh, chúng ta chỉ nhận những thứ cần thiết và trả lại những thứ không cần.
Khi tạm nghỉ tại Nghệ An, tôi mở cuộc duyệt binh khác. Đội quân nhanh chóng được bổ sung và chúng tôi tiến thẳng ra Bắc. Theo kế hoạch, chúng tôi tiêu diệt một toán quân gián điệp trên sông Giang trước tiên. Tiếp theo, chúng tôi đánh Hà Hồi vào ngày ba tháng giêng. Bằng cách bao vây thành và gây tiếng ồn lớn, quân lính trong thành sợ hãi và đầu hàng. Chúng tôi chiếm thành mà không một mũi tên nào như dự đoán.
Ngay sau đó, chúng tôi tiến đến đánh Ngọc Hồi vào ngày 5 tháng giêng. Đây là điểm quan trọng nơi quân địch có thể chống cự. Tôi đã sắp xếp quân lính thành hình chữ 'Nhất' và tự mình dẫn đầu để tăng thêm động lực cho quân. Quân Thanh không thể chống lại và đã bỏ chạy, để lại nhiều xác quân giặc.
Trong buổi trưa nắng, chúng ta dẫn quân vào Thăng Long. Trong lúc đó, Tôn Sĩ Nghị đang say sưa uống rượu, không kịp mặc giáp. Hắn đã vội vàng bỏ chạy qua cầu phao. Kẻ thù cuống cuồng lao vào cầu, làm cầu vỡ nát và xác chết văng vẳng, làm cho sông Nhĩ Hà bị tắc nghẽn. Quân ta chiến thắng, địch Thanh bị hoàn toàn đánh bại. Trước chiến thắng vang dội đó, ta đã mở tiệc mừng vì đã báo thù cho đất nước, lập lại hòa bình, mang lại cuộc sống an lành cho nhân dân.