Làng Mộ Trạch (慕澤) là một ngôi làng cổ kính thuộc xã Tân Hồng, huyện Bình Giang, tỉnh Hải Dương. Làng Mộ Trạch nổi bật trong lịch sử Việt Nam nhờ số lượng Tiến sĩ Nho học nhiều nhất cả nước, với 36 người đỗ Tiến sĩ, trong đó có 1 Trạng nguyên (Lê Nại) và 11 Hoàng giáp. Họ Vũ là dòng họ chiếm ưu thế với 29 vị đại khoa, còn các vị đại khoa khác đều có mẹ là họ Vũ. Làng được vinh danh là 'Làng Tiến sĩ xứ Đông', đứng đầu cả nước về số lượng Tiến sĩ Nho học, nằm tại trấn Hải Đông.
Di tích lịch sử
Làng Mộ Trạch là một trong bốn làng của xã Tân Hồng, huyện Bình Giang, tỉnh Hải Dương, cách Hà Nội khoảng 50 km qua quốc lộ 5 và cách thành phố Hải Dương khoảng 30 km về phía Tây Nam. Làng có nhiều dòng họ sinh sống như Vũ, Lê, Nhữ, Nguyễn, Tạ, Cao, Đương, Trương, trong đó họ Vũ chiếm tỷ lệ cao nhất với 87,3%.
Theo truyền thuyết, làng được Vũ Hồn sáng lập và đặt tên ban đầu là Khả Mộ trang (nghĩa là ấp đáng yêu) thuộc huyện Đường An, với mong muốn duy trì sự bình yên của triều đại nhà Đường. Vào thế kỷ IX, khu vực xung quanh làng được gọi là làng Chằm (nghĩa là vùng đất thấp). Làng này nguyên thủy tên là Chằm Thượng, cùng với hai làng lân cận là Chằm Hạ và Chằm Trung (sau gọi là Nhuận Đông, Nhuận Tây, hay Hạ Trong, Hạ Ngoài).
Theo truyền thuyết, Vũ Hồn, với sự am hiểu phong thủy, nhận thấy khu vực này có địa thế tốt, là nơi sẽ mang lại thành công trên con đường khoa bảng cho các thế hệ. Ông tin rằng Hải Dương là một vùng đất lý tưởng, huyện Đường An là trung tâm và làng Chằm Thượng là điểm hội tụ. Do đó, ông đã quyết định lập làng và đặt tên là Khả Mộ, mang ý nghĩa là vùng đất có thể trở nên trù phú và được yêu mến trong tương lai. Vào thời triều đại nhà Trần (1226-1400), tên gọi được đổi thành Mộ Trạch, biểu thị vùng đất được yêu mến.
Truyền thống học vấn
Theo truyền thuyết, sau khi thành lập làng, Vũ Hồn đã mở lớp dạy học, khuyến khích tinh thần hiếu học và tạo dựng nền tảng học vấn cho các thế hệ sau. Điều này đã hình thành nên truyền thống hiếu học nổi bật của làng.
Truyền thống khoa bảng của làng Mộ Trạch được bắt nguồn từ hai anh em Vũ Nghiêu Tá và Vũ Hán Bi (còn được ghi là Nông hoặc Minh Nông). Họ là con của Vũ Nạp, theo cổ phả 'Mộ Trạch Vũ tộc Thế hệ sự tích' do các Nho gia Vũ Phương Lan, Vũ Tông Hải và Vũ Thế Nho viết năm 1677-1679, cho biết: 'Ông (Nạp) từ nhỏ đã học theo nền Nho học, thông thạo cả các kinh điển đạo Thiền [tức Phật học]. Ông (Nạp) dạy con theo đạo đức và nghĩa lý. Hai con ông đều thi đậu.' Sách Đại Việt sử ký toàn thư ghi nhận: 'Nghiêu Tá (người Hồng Châu) và em Nông đều đỗ cùng một khoa khi Thượng hoàng còn tại vị (chỉ Trần Anh Tông)'. Theo 'Vũ tộc khoa hoạn phả ký' do Vũ Bật Hài viết, Vũ Nghiêu Tá 'là anh của Vũ Minh Nông, là người khai khoa của họ Vũ tại làng Mộ Trạch', còn Vũ Minh Nông 'là em của Vũ Nghiêu Tá, hai anh em cùng đỗ thời Trần Minh Tông'. Theo bia văn chỉ 'Lịch đại tiên hiền bi' dựng năm Thiệu Trị thứ 4 (1844) của xã Hoạch Trạch, huyện Đường An (nay là xã Thái Học, huyện Bình Giang, tỉnh Hải Dương), cả Vũ Nghiêu Tá và Vũ Hán Bi đều 'là người làng Mộ Trạch. Đỗ Thái học sĩ khoa Giáp Thìn'. Tuy nhiên, các nghiên cứu hiện đại chưa xác định chính xác khoa thi của họ. Vũ Nghiêu Tá sau này được bổ nhiệm chức quan Nhập nội hành khiển môn hạ hữu ti lang trung thời Trần Minh Tông.
Một trường hợp đáng chú ý khác là Lê Cảnh Tuân, người đỗ Thái học sinh. Sách Đại Nam nhất thống chí ghi chép về Lê Cảnh Tuân 'người huyện Đường An... Lúc trẻ có chí khí, đỗ Thái học sinh triều Trần'. Theo Giáo sư Nguyễn Huệ Chi và sách Từ điển bách khoa Việt Nam, Lê Cảnh Tuân đỗ Thái học sinh năm 1381. Tuy nhiên, Tiến sĩ Nguyễn Đăng Na lại cho rằng ông thi đỗ vào thời nhà Hồ.
Truyền thống khoa bảng của làng Mộ Trạch tiếp tục với Vũ Đức Lâm, người đỗ Đệ tam giáp Đồng tiến sĩ vào năm 1448.
Sau này, làng Mộ Trạch ngày càng phát triển và nổi bật trong lĩnh vực khoa bảng. Trong triều đại Lê (1428-1789), làng đã có đến 36 vị đỗ tiến sĩ, nhiều người khác đỗ hương cống, sinh đồ, tú tài; nhiều vị đảm nhiệm chức vụ cao trong triều đình. Có những gia đình nhiều anh em cùng đỗ đại khoa và các chi họ như chi họ Vũ Khắc nối đời đỗ đạt. Tên làng Mộ Trạch đã được lưu danh gần tám trăm năm, và được vua Tự Đức tặng câu nói: 'Mộ Trạch nhất gia bán thiên hạ' (Mộ Trạch tài năng bằng nửa thiên hạ).
Danh sách các Tiến sĩ Nho học
Dưới đây là danh sách 36 vị đại khoa nổi bật của làng Mộ Trạch, được ghi chép từ nhiều tài liệu và bia văn lịch sử. Trong số đó, họ Vũ chiếm ưu thế với 9 hoàng giáp và 20 tiến sĩ. Họ Lê có 1 trạng nguyên, 2 hoàng giáp và 1 tiến sĩ. Các đại khoa không thuộc họ Vũ đều có mẹ là họ Vũ. Làng Mộ Trạch được biết đến với danh xưng “Tiến sĩ sào” (進士巢) (sào nghĩa là tổ chim, chỉ việc làng Mộ Trạch như một tổ chim nuôi dưỡng nhiều người học giỏi và đạt học vị cao quý).
- Vũ Nghiêu Tá, đỗ Thái học sinh năm 1304, sau trở thành Tể tướng.
- Vũ Hán Bi (còn gọi là Vũ Minh Nông), đỗ Thái học sinh năm 1304, giữ chức Thượng thư và sau đó kế nhiệm anh là Nghiêu Tá làm Tể tướng.
- Lê Cảnh Tuân, đỗ Thái học sinh năm 1381.
- Vũ Đức Lâm, đỗ Đồng tiến sĩ xuất thân năm 1448.
- Vũ Hữu, đỗ Hoàng giáp năm 1463, tác giả của Lập thành toán pháp.
- Vũ Ứng Khang, đỗ Hoàng giáp năm 1472.
- Vũ Quỳnh, đỗ Hoàng giáp năm 1478, người hiệu đính sách Lĩnh Nam chích quái.
- Vũ Đôn, đỗ Hoàng giáp năm 1487.
- Vũ Thuận Trinh, đỗ Hoàng giáp năm 1499.
- Vũ Cán, đỗ Hoàng giáp năm 1502, tác giả của Tùng Hiên thi tập và Tùng Hiên văn tập.
- Lê Nại, đỗ Trạng nguyên năm 1505.
- Lê Tư, đỗ Hoàng giáp năm 1511.
- Vũ Lân Chỉ, đỗ Đồng tiến sĩ xuất thân năm 1520.
- Lê Quang Bí, đỗ Hoàng giáp năm 1526.
- Nhữ Mậu Tô, đỗ Đồng tiến sĩ xuất thân năm 1526.
- Vũ Tĩnh, đỗ Đồng tiến sĩ xuất thân năm 1562 (thời nhà Mạc).
- Vũ Đường, đỗ Đồng tiến sĩ xuất thân năm 1565 (thời nhà Mạc).
- Vũ Bạt Tụy, đỗ Hoàng giáp năm 1634.
- Vũ Lương, đỗ Đồng tiến sĩ xuất thân năm 1643.
- Vũ Trác Oánh, đỗ Đồng tiến sĩ xuất thân năm 1656.
- Vũ Đăng Long, đỗ Đồng tiến sĩ xuất thân năm 1656.
- Vũ Công Lượng, đỗ Đồng tiến sĩ xuất thân năm 1656.
- Vũ Cầu Hối, đỗ Đồng tiến sĩ xuất thân năm 1659.
- Vũ Bật Hài, đỗ Đồng tiến sĩ xuất thân năm 1659.
- Vũ Công Đạo, đỗ Đồng tiến sĩ xuất thân năm 1659.
- Lê Công Triều, đỗ Đồng tiến sĩ xuất thân năm 1659.
- Vũ Duy Đoán, đỗ Đồng tiến sĩ xuất thân năm 1664.
- Vũ Công Bình, đỗ Đồng tiến sĩ xuất thân năm 1664.
- Vũ Đình Lâm, đỗ Hoàng giáp năm 1670.
- Vũ Duy Khuông, đỗ Đồng tiến sĩ xuất thân năm 1670.
- Vũ Đình Thiều, đỗ Đồng tiến sĩ xuất thân năm 1680.
- Vũ Trọng Trình, đỗ Đồng tiến sĩ xuất thân năm 1685.
- Nguyễn Thường Thịnh, đỗ Đồng tiến sĩ xuất thân năm 1703.
- Vũ Đình Ân, đỗ Đệ tam giáp Đồng tiến sĩ xuất thân năm 1712.
- Vũ Phương Đề, đỗ Đồng tiến sĩ xuất thân năm 1736, tác giả của Công dư tiệp ký.
- Vũ Huy Đỉnh, đỗ Đệ tam giáp Đồng tiến sĩ xuất thân năm 1754, Quốc tử giám Tế tửu.
Làng Mộ Trạch còn nổi tiếng với các danh sĩ lừng lẫy như:
- Lê Thiếu Dĩnh, con của Thái học sinh Lê Cảnh Tuân, tác giả của Tiết Trai thi tập.
- Vũ Huy Tấn, con của Tiến sĩ Vũ Huy Đỉnh, đỗ Hương cống (Cử nhân) năm Mậu Tý 1768.
Mộ Trạch là nơi sinh ra 5 vị được gọi là Trạng, bao gồm: Trạng chữ Lê Nại, Trạng toán Vũ Hữu, Trạng cờ Vũ Huyến, Trạng vật Vũ Phong (em ruột của Vũ Hữu), và Trạng chạy Vũ Cương Trực.
Chú giải
- Làng Xuân Lan