
Dù không thích những món đồ lưu niệm lặt vặt, nhưng tôi cũng muốn sưu tầm để sau này có thể nhớ lại và trân trọng. Trước khi lên tàu, tôi quyết định hỏi một đứa trẻ ở mỗi nước, “Nếu em có thể có bất cứ thứ gì trên đời, em muốn có gì nhất?” Việc này cho tôi cơ hội kết nối với ít nhất một đứa trẻ ở mỗi quốc gia. Tôi yêu cầu họ viết câu trả lời của mình, và khi trở về, tôi sẽ tạo ra một bản đồ cho những câu trả lời của họ. Tôi dự đoán rằng tôi sẽ nghe thấy những câu trả lời như “một chiếc TV màn hình phẳng”, “một chiếc iPod” hoặc “một chiếc xe ô tô sang trọng”. Tôi nghĩ rằng tôi sẽ thu thập được một loạt các câu trả lời tương tự như những gì tôi muốn khi còn nhỏ - một món đồ chơi mới nhất, một chiếc xe mới hay một ngôi nhà rộng rãi.
Khi một cô bé dễ thương ở Hawaii đến gần tôi và hỏi liệu chúng tôi có thể làm bạn không, tôi đồng ý ngay lập tức. “Nhưng trước hết, tôi có một câu hỏi quan trọng muốn hỏi em,” tôi nói. “Nếu em có thể có bất cứ thứ gì trên đời, em muốn có gì nhất?”
Cô bé đặt ngón tay lên cằm, suy nghĩ và nhìn mẹ. “Em muốn khiêu vũ ạ,” cô bé trả lời với một cái gật đầu tự tin.
Tôi cười. “Không, ý anh là nếu em có thể có bất cứ điều gì trên đời ấy, em muốn có gì nhất?”
Cô bé mỉm cười, hiểu rõ câu hỏi của tôi bây giờ. “Muốn khiêu vũ ạ!” Cô bé vui vẻ đáp lại.
“Wow, tuyệt vời!” tôi nói cười to. Câu trả lời của cô bé thật sự chân thật. Tôi nhớ lại những khoảnh khắc hạnh phúc nhất của cuộc đời và nhận ra nhiều trong số đó liên quan đến việc khiêu vũ - từ lần đầu tiên xem buổi biểu diễn của Michael Jackson, đến bữa tiệc bất ngờ mừng sinh nhật lần thứ 40 của cha, hay trong ngày hội khiêu vũ hàng năm ở trường. Những niềm vui thuần khiết nhất luôn ở đó, trước mắt chúng ta, và chúng không liên quan gì đến địa vị, sự công nhận hay khao khát vật chất. Rõ ràng là có nhiều điều tôi cần học từ ánh nhìn trong sáng của những người tôi gặp trên hành trình này, vì vậy tôi quyết định sẽ dành nhiều thời gian hơn để nghe họ kể chuyện thay vì cố gắng trả lời câu hỏi trong suốt thời gian còn lại của chuyến đi. Lắng nghe bằng trái tim là một kỹ năng quan trọng hơn nhiều so với việc nói thao thức vô cớ.
Ở Bắc Kinh, tôi hỏi một cô bé đứng gần lối vào Tử Cấm Thành, mong muốn có điều gì nhất trong cuộc đời, và cô bé trả lời, “Muốn có một cuốn sách.”
“Thực sự không? Em có thể có mọi thứ mà.” tôi nói khuyên.
“Một cuốn sách anh ạ.”
Mẹ của cô bé giải thích rằng em rất thích đi học, nhưng không có một cuốn sách nào. Giấc mơ của đứa trẻ này là có một điều mà tôi coi là hiển nhiên mỗi ngày.
Ở Kowloon, Hong Kong, tôi hỏi một cậu bé muốn có điều gì nhất trên đời. Anh trai của cậu dịch câu hỏi của tôi, sau đó dịch giúp câu hỏi: “Một phép màu”.
Dọc bờ sông Mekong ở Việt Nam, tôi đã hỏi một cô bé sáu tuổi nhút nhát xem em muốn có gì nhất. Cô bé trả lời khi mắt vẫn dán vào lớp bùn nâu, nhão nhoét dưới chân. “Em muốn mẹ khỏe lại. Mẹ em ốm và phải nằm trên giường cả ngày, em chỉ muốn được mẹ dắt đến trường thôi.”
Sau 30 ngày chúng tôi khởi hành, tôi mở mắt ra và nhìn thấy ánh mặt trời đỏ rực phủ đầy cảng Chennai, Ấn Độ. Tâm trí tôi tập trung vào Varanasi.
Sông Hằng ở Varanasi được biết đến như một trong những con sông ô nhiễm nhất thế giới, nhưng cũng là nơi linh thiêng nhất. Tôi mong muốn được dạo bộ dọc theo bờ sông từ khi xem cảnh trong phim Baraka, và trải qua trận bão biển làm cho niềm khát khao của tôi càng trở nên cháy bỏng hơn. Trong những thời điểm không biết liệu mình sẽ sống hay chết, tôi cầu nguyện nhiều hơn bao giờ hết. Việc tìm kiếm mục tiêu sống của mình khiến tôi trở nên mạnh mẽ hơn. Bây giờ, nhiệm vụ duy nhất của tôi là tìm ra mục tiêu đó là gì. Tôi tin rằng câu trả lời có thể nằm ở sông Hằng, con sông linh thiêng của Ấn Độ giáo và là một trong những nơi tôn thờ nhất thế giới.
Đêm đầu tiên ở Ấn Độ, tôi bị sốt rất cao. Khi đến sân bay vào buổi sáng hôm sau, tôi ướt sũng mồ hôi và nhiệt độ cơ thể gần 39,5°C. Tôi giữ bình tĩnh trong khi mọi người qua kiểm soát an ninh, lo sợ rằng nếu họ biết tôi bệnh, họ sẽ không cho tôi đi cùng. Với chiếc ba lô nặng trên vai, tôi cố nhìn thẳng và khi đến lượt qua máy dò kim loại, tôi thấy chân mình run lên.
Tôi tỉnh dậy và nhìn thấy hai nhân viên an ninh Ấn Độ đứng bên cạnh. Tôi đã bất tỉnh. Họ giúp tôi đứng dậy và đưa qua kiểm tra an ninh. Khi qua, họ đưa ba lô của tôi qua máy quét X và đặt nó lên vai tôi rồi chỉ tôi tới cửa lên máy bay.
Khi đến cửa, một người bạn học sinh chạy lại và kêu lên, “Cậu đang ở đâu vậy? Cả nhóm đều tìm kiếm cậu khắp nơi! Mặt cậu như thế nào rồi? Trông cậu như ma vậy. Áo cậu ướt sũng hết rồi.”
Tôi nói với người kia rằng tôi đã bị ngất xỉu. “Đừng nói với ai cả,” tôi van nài. Không có gì có thể cản trở tôi đến Varanasi. Dù ốm quá, tôi quyết định sẽ tắm trong sông Hằng khi chúng tôi đến đó. Tôi cảm thấy như thế này là xấu xa nhất rồi, không thể tệ hơn nữa, vì vậy chỉ có nước linh thiêng mới có thể giúp tôi.
Trong những ngày tiếp theo, tôi cảm thấy khá hơn. Ban đêm, khi chúng tôi tới ga xe lửa ngoại ô Agra, tôi chứng kiến một cảnh tượng chưa từng thấy trong đời: những đám trẻ chân trần, bẩn thỉu từ đầu đến chân, đi xin tiền và thức ăn. Chúng quá nhỏ để tự lo cho bản thân. Tôi nhìn thấy đứa bé khoảng bốn tuổi bế một đứa trẻ khoảng sáu tháng tuổi và đi xin. Nỗi đau khốn khổ trên khuôn mặt của chúng thật đáng thương.
Chúng tôi được cảnh báo trước rằng việc cho tiền những đứa trẻ ăn xin sẽ khiến chúng trở thành công cụ kiếm tiền cho các băng nhóm xã hội, những kẻ đã buộc chúng ra đường và ép chúng phải ăn xin. Một số trong chúng tôi mua thức ăn cho những đứa trẻ, nhưng cảm giác vẫn là bất lực và thất vọng. Tôi không biết làm thế nào để giúp đỡ họ. Tôi thức cả đêm để suy ngẫm về những gì tôi đã thấy.
Sáng hôm sau, chúng tôi đến Agra Fort, một cung điện mái đỏ tuyệt đẹp bên trong khuôn viên Taj Mahal. Nhưng tôi không thể tập trung vào các kiến trúc xung quanh. Tâm trí tôi vẫn ở với những đứa trẻ ăn xin trên đường phố, và tôi quyết định sẽ hỏi một trong số họ một câu hỏi của mình. Họ không có gì. Nếu có thể có bất kỳ thứ gì, họ muốn có gì nhất?
Tôi rời nhóm và gặp một cậu bé có đôi mắt nâu to tròn trước đây thường đi xin tiền, nhưng bây giờ đang ngồi một mình. Khi tôi tiếp cận, một người đàn ông đã đến làm thông dịch. Tôi giải thích rằng tôi có một câu hỏi dành cho cậu bé. Tôi đang thực hiện một ý tưởng, trong mỗi quốc gia, tôi sẽ hỏi một đứa trẻ một câu hỏi, nếu em có thể có bất cứ thứ gì trên đời, đó sẽ là gì? Tôi muốn biết, nếu có thể, cậu bé muốn có gì nhất? Cậu bé suy nghĩ một lúc rồi trả lời một cách tự tin:
“Một cây bút chì ạ.”
“Chắc chắn em ạ?” tôi hỏi. Cậu bé không có gia đình, không có gì cả, nhưng mong muốn của em lại quá giản dị.
Những người đàn ông khác đến gần và bắt đầu quan sát cuộc trò chuyện giữa chúng tôi. Họ khuyên cậu bé, “Cháu có thể chọn bất cứ thứ gì. Anh ta có thể tặng cho cháu mà!”
Cậu bé vẫn không thay đổi ước mơ của mình: “Một cây bút chì ạ.”
Tôi có một cây bút chì màu vàng số hai trong ba lô. Tôi lấy ra và đưa cho cậu bé.
Khi chiếc bút từ tay tôi qua tay cậu bé, khuôn mặt cậu tỏ ra rất hạnh phúc. Cậu nhìn nó như là một viên ngọc quý. Những người đàn ông giải thích, cậu bé chưa từng được đi học, nhưng cậu đã thấy những đứa trẻ khác viết bằng bút chì. Tôi bàng hoàng khi biết cậu bé chưa một lần được đến trường. Sau đó, tôi trấn tĩnh lại và nhận ra đó là thực tế đối với nhiều trẻ em trên thế giới.
' Có lẽ một thứ gì đó, chỉ nhỏ nhoi như một cây bút chì, nền tảng của giáo dục, có thể mở khóa tiềm năng của một đứa trẻ hay không? '
Đối với tôi, cây bút chì chỉ là một dụng cụ để viết, nhưng với cậu bé kia, nó là một chiếc chìa khóa. Nó là biểu tượng. Nó là cánh cửa dẫn đến sự sáng tạo, sự hiếu kỳ và khả năng. Tất cả những nhà phát minh, kiến trúc sư, nhà khoa học, nhà toán học vĩ đại ban đầu đều là một đứa trẻ, chẳng cần gì khác ngoài một cây bút chì trong tay. Mẩu gỗ hình trụ với lõi than chì ấy có thể mở ra cơ hội khám phá thế giới cho cậu bé mà nếu không cậu sẽ không bao giờ có được.
Cho đến thời điểm đó, tôi luôn nghĩ rằng mình còn quá trẻ để có thể tạo ra sự khác biệt nào đó. Có người từng nói với tôi, nếu không thể quyên góp một khoản lớn cho một tổ chức từ thiện, tôi không thể thay đổi cuộc sống của ai. Nhưng qua hành động nhỏ là tặng một đứa trẻ một cây bút chì, niềm tin cố hữu ấy đã tan vỡ. Tôi nhận ra rằng ngay cả những con sóng lớn cũng bắt đầu từ những gợn sóng nhỏ. Điều này là cần thiết, tôi nghĩ, thay vì cho tiền hoặc không làm gì cả, tôi sẽ tặng những đứa trẻ mà tôi gặp trên đường những cây bút.

Nhóm người thăm hôm trước tặng chúng tôi một bức tuyệt phẩm chụp cảnh bờ sông trong ánh nến lung linh, nhưng tôi không muốn trải nghiệm cảnh đẹp này qua ống kính của một chiếc máy ảnh. Tôi muốn đắm mình trong đó. Tôi muốn tắm mình trong dòng nước đó như một người dân địa phương.
Tôi hỏi Vanay, “Nước bẩn đến đâu vậy?”
“Về mặt sinh học, nó rất bẩn,” anh ta nói. “Nhưng về mặt tâm linh, tôi tin rằng đây là nước của Thượng đế, sao Ngài có thể gây tổn thương cho chúng ta được?”
Vanay sau đó cúi xuống, vớt nước sông vào tay và uống một ngụm. Thuyền trở nên kinh ngạc. Còn tôi, thầm mừng. Tôi đã tìm thấy một đồng minh.
Trong bữa tối đó, tôi lặng lẽ nói với vài người bạn rằng vào sáng hôm sau, khi đi ngắm bình minh, tôi sẽ xuống sông Hằng. Tin đồn lan truyền và một thầy giáo tiến lại gần tôi. “Chúng tôi không cho phép em làm thế,” ông ta nói. “Em sẽ mắc bệnh nặng nếu uống nước và có thể bị lây ký sinh chết người. Em tuyệt đối không được đuối xuống nước.”
Tôi nói với thầy rằng tôi tôn trọng lời khuyên của ông, nhưng tôi sẽ tự quyết định cho mình.
Sáng hôm sau, tôi thức dậy sớm và mặc sẵn quần đùi bên trong quần bò để sẵn sàng nhảy xuống sông khi cần. Thầy giáo đi kèm lại nhắc nhở tôi, “Nếu em nhảy xuống nước thì đừng nghĩ đến việc quay lại xe.” Vợ ông, cũng là một giáo sư, hùa vào, “Đó là việc nguy hiểm lắm đấy. Nếu em mắc bệnh do nước bẩn, mà chắc chắn là thế, chúng tôi sẽ phải bỏ em lại.”
“Em không muốn làm phiền, nhưng thầy cô không phải là cha mẹ của em,” tôi nói dứt khoát.
Trước khi chúng tôi lên xe, Vanay đến gần tôi. “Nhiều người đang lo lắng. Tôi nghe nói cậu muốn nhảy xuống nước. Sao thế?”
“Đó là dòng nước linh thiêng nhất trên đời mà,” tôi trả lời, cảm giác như một kỷ lục bị phá vỡ. “Tôi muốn cầu nguyện và thiền ở một trong những nơi mà tôi tin là gần với Thượng đế nhất. Có thể tôi không phải là tín đồ Hindu, nhưng bất cứ nơi nào mà những người khác đều một lòng cầu nguyện, theo tôi, đều rất thiêng.”
Anh đặt tay lên vai tôi. “Hay lắm. Nhưng đừng cứ thế mà nhảy xuống nhé… Tôi sẽ chỉ cho cậu biết nên nhảy ở đâu sau chuyến đi.”
Trái tim tôi như nhảy ra khỏi ngực. Tôi đã tìm được một người đồng minh.
Trong chuyến đi ngắm bình minh, chúng tôi chứng kiến người dân ở mọi lứa tuổi tắm trên dòng sông. Một người đàn ông nổi trên mặt nước, một người khác thì dạy các con về nghi lễ buổi sáng.
Khi quay trở lại bờ sông, trong khi cả nhóm đang mải mê chụp ảnh các khu nhà xung quanh, Vanay gật đầu ra hiệu cho tôi và chỉ vào những bậc thang dẫn xuống sông. Tôi đi qua nhẹ nhàng, cởi quần bò và chỉ mặc chiếc quần đùi. Tôi bước vào nước, ngập ngừng, không suy nghĩ gì, tôi ngậm mắt lại và mở miệng, để nước chảy vào miệng như tôi đã từng làm trong bồn tắm hoặc hồ bơi. Tôi nổi trên mặt nước, phun nước ra mà không quan tâm đến những sai lầm mà tôi có thể gặp phải khi tiếp xúc với nước linh thiêng nhất - nhưng cũng là ô nhiễm nhất - trên thế giới này. Bây giờ, mọi thứ đã hoàn thành.
Khi tôi đắm mình trong nước, tôi nhắm mắt lại và cầu nguyện. Mười phút sau, khi tôi bước ra khỏi nước, một pháp sư già với chiếc áo choàng màu nghệ tây, khăn đóng màu cam và mái tóc trắng như bông tuyết gọi tôi lại: “Tại sao cậu lại đến sông Hằng?”
Tôi giải thích lý do, ông nắm lấy tay tôi và đặt vào lòng bàn tay của mình. Ông rút ra một sợi dây màu đỏ và vàng tươi rồi quấn quanh cổ tay tôi hai vòng. Ông nhắm mắt và phúc lành và cầu nguyện cho tôi được bảo vệ, sau đó nói với tôi rằng đây là dây thần kỳ của Varanasi.
Một nhóm các cậu bé Ấn Độ tụ tập quanh chúng tôi. Chúng tôi đi qua một số khu nhà cùng nhau, trước khi chia tay, các em nhỏ xin tôi tiền. Thay vì đưa tiền, tôi tìm trong túi và lấy ra một số cây bút chì. Mỗi cậu bé được tặng một cây. Sự thay đổi trong các em diễn ra ngay tức khắc. Họ bắt đầu vẽ trên các tờ giấy mà một chủ cửa hàng cho mượn và luyện viết chữ để cùng nhau khoe. Các em nhận ra một cảm giác mới về tự do, đó là một loại độc lập mới lạ. Tôi rất cảm động khi thấy chỉ cần một hành động nhỏ có thể mở ra một ý thức mới về khả năng, sự kích động và sự kết nối ở những người mà trước đó dường như không có gì. Các ý tưởng bắt đầu tràn ngập trong tâm trí tôi, tuy nhiên, tôi cố kiềm chế để không quá phấn khích. Dù vậy, dù tôi cố gắng thế nào, hình ảnh cậu bé cầm cây bút chì trong tay không thể nào xóa bỏ khỏi đầu tôi.
Mytour - Readstation