Mononoke Hime | |
もののけ姫 (Mononoke Hime) | |
---|---|
Thể loại | Phiêu lưu, Siêu nhiên, Lãng mạn |
Phim anime | |
Đạo diễn | Miyazaki Hayao |
Sản xuất | Suzuki Toshio |
Kịch bản | Miyazaki Hayao |
Âm nhạc | Hisaishi Joe |
Lồng tiếng chính | Matsuda Yōji Ishida Yuriko Tanaka Yūko Kobayashi Kaoru |
Chỉ đạo hình ảnh | Okui Atsushi |
Dựng phim | Seyama Takeshi |
Hãng phim | Studio Ghibli |
Công chiếu |
|
Thời lượng | 134 phút |
Quốc gia | Nhật Bản |
Ngôn ngữ | tiếng Nhật |
Kinh phí | 2.135.666.804,93¥ (23,5 triệu$) |
Doanh thu phòng vé | 14.487.325.138,75¥ (159.375.308$) |
Bài viết này có chứa ký tự tiếng Nhật. Nếu không thích hợp hỗ trợ dựng hình, bạn có thể sẽ nhìn thấy dấu chấm hỏi, hộp, hoặc ký hiệu khác thay vì kanji và kana. |
Mononoke Hime (Nhật: もののけ姫, Hepburn: Mononoke-hime, 'Công chúa Mononoke') là một bộ phim hoạt hình Nhật Bản mang đề tài sử thi giả tưởng của đạo diễn Miyazaki Hayao do hãng phim Ghibli sản xuất năm 1997. 'Mononoke' (物の怪, 'Mononoke') không chỉ là một cái tên mà còn là một cụm từ tiếng Nhật có nghĩa là ma quỷ hay quái vật, và ở đây có thể hiểu là 'linh hồn oán hận'. Phim được công chiếu lần đầu tại Nhật Bản vào ngày 12 tháng 7 năm 1997, và tại Hoa Kỳ vào ngày 29 tháng 10 năm 1999.
Bối cảnh của bộ phim là những cánh rừng bạt ngàn và bí ẩn với nhiều yếu tố kỳ ảo vào cuối thời kỳ Muromachi (1392 - 1572), nơi mà súng đạn dần thay thế cho đao kiếm, sự thống trị của các samurai suy yếu đến mức biến họ thành những tên cướp. Vào thời điểm này, người Nhật Bản nói riêng và loài người nói chung đã có ý thức về việc khai phá thiên nhiên bằng sức mạnh và trí tuệ của mình. Tuy nhiên, sự khai thác thiếu suy nghĩ đã làm cho thiên nhiên giận dữ, không ít lần mang tới tai họa cho loài người.
Mặc dù thường được biết đến là một bộ phim hoạt hình dành cho trẻ em, Mononoke Hime thực sự phù hợp với đối tượng người lớn và thanh thiếu niên nhất. Vấn đề mà bộ phim đề cập đến cũng là vấn đề nóng bỏng của mọi thời đại: Bảo vệ môi trường sinh thái.
Cốt truyện
Ngôi làng bé nhỏ của bộ tộc Emishi ở phía Đông bị tấn công bởi Tatarigami (hay còn gọi là Tà Thần). Hoàng tử Ashitaka của tộc Emishi buộc phải dùng cung tên để tiêu diệt Tatarigami và bảo vệ người dân. Trong trận chiến, anh bị nguyền khi những con giun quỷ bám vào tay, đem lại cho anh sức mạnh đặc biệt nhưng cũng dần tiêu hao linh hồn anh. Người tiên tri trong làng cho rằng Tatarigami là một vị thần heo rừng từ phương Tây xa xôi, bị một viên đá kì lạ bắn gãy xương và trở thành Tatari Gami. Để giải mã lời nguyền và tìm hiểu nguyên nhân, Ashitaka cắt tóc và cùng linh dương Yakul đi về phía Tây. Theo truyền thống, hành động này đồng nghĩa với sự chấp nhận chết của Ashitaka, nhưng hôn thê của anh - Kaya, đã dũng cảm chạy ra để tiễn và tặng anh một chiếc dây chuyền ngọc bích hình lưỡi dao, cầu chúc anh bình an trở về.
Ashitaka rời làng và đi qua nhiều cánh đồng, núi đá và làng mạc mới đến Tây vực. Rừng ở khu vực này còn sinh sống nhiều thần thú khổng lồ từ thời cổ đại. Tại đây, hoàng tử Ashitaka quen biết với bà Eboshi, người luôn mơ ước chiếm đoạt khu rừng Tây vực. Anh cũng gặp công chúa Mononoke
Nhân vật
Con người:
- Ashitaka
- Lồng tiếng bởi: Yōji Matsuda
- Hoàng tử dũng cảm của bộ tộc Emishi. Anh dũng cảm, quả cảm và đầy lòng nhân hậu. Vết thương trên cánh tay phải của Ashitaka mang lại cho anh một sức mạnh kỳ diệu, nhưng mỗi lần sử dụng, sức mạnh ấy lại rút ngắn tuổi thọ của anh. Trong cuộc chiến giữa Eboshi và Mononoke Hime, Ashitaka luôn giữ thái độ trung lập: anh từng giúp Mononoke thoát khỏi lò rèn an toàn và bị bắn trúng; anh cũng cứu Eboshi khi bà gặp nguy hiểm trong rừng. Suốt bộ phim, anh luôn nỗ lực để giải thoát Mononoke Hime khỏi sự oán hận với loài người. Khao khát của anh là sự hòa hợp giữa thiên nhiên và con người.
- Mononoke Hime
- Lồng tiếng bởi: Yuriko Ishida
- Con nuôi của thần Sói trắng Moro, tên thật là San. Cha mẹ của San bị thần sói Moro giết chết, còn cô thì Moro thương tình giữ lại nuôi. Được Moro nuôi dưỡng từ nhỏ, lớn lên cùng 2 sói con, San cứ luôn nghĩ cô là một con sói hoang còn Moro là mẹ mình. San sống chỉ với một mục đích duy nhất: Giết Eboshi để bảo vệ rừng. Nhờ Ashitaka, San trở nên giống con người hơn, nhân bản hơn. Cuối phim, cô đã thổ lộ với Ashitaka rằng cô rất thích anh nhưng ' những gì con người đã làm với khu rừng thì em không thể bỏ qua được ' và hai người chia tay nhau. Cái tên 'San' trong tiếng Nhật nghĩa là số 3, có lẽ Moro muốn ám chỉ San là đứa con thứ ba của nó.
- Eboshi Gozen
- Lồng tiếng bởi: Yūko Tanaka
- Người đàn bà quyết đoán, tham vọng, chủ nhân một lò rèn tatara (Tatara Ba/ Làng Sắt). Lò rèn của Eboshi còn chuyên làm các loại súng lửa rất lợi hại vào thời bấy giờ, viên đá kì dị giết chết Tatarigami, thực chất chính là viên đạn của loại súng lửa đó. Ban đầu bà rắp tâm chiếm đoạt khu rừng thần kì của phía Tây, nhằm đem lại giàu có và no ấm cho người dân của mình. Nhưng khi chứng kiến cuộc chiến giữa người với người còn độc ác, gian xảo hơn những gì thần thú của rừng gây ra, Eboshi bắt đầu tỉnh ngộ trước tội lỗi bấy lâu của bản thân.
- Jigo
- Lồng tiếng bởi: Kaoru Kobayashi
- Tăng lữ làm việc cho triều đình, rất gian manh, cơ hội và giỏi võ nghệ. Lão lợi dụng Eboshi bằng cách thoả thuận với Eboshi rằng lão sẽ tâu lên triều đình không chiếm mỏ quặng sắt của bà cũng như giúp bà tìm Shishigami, với điều kiện bà phải giúp lão lấy được đầu nó. Bởi dân gian đồn rằng máu của Shishigami có thể chữa bách bệnh và khiến người ta trở nên bất tử. Nhưng sau khi đoạt được cái đầu, lão không ngần ngại bỏ rơi Eboshi giữa nguy hiểm. Đối với lão, bà chỉ như một công cụ để lợi dụng. Cuối phim, sau khi có được cái đầu Shishigami, lão và đồng bọn bị nó đuổi sát thì Ashitaka và San đã đuổi kịp, lấy lại cái đầu cho Shishigami.
Thần linh của khu rừng:
- Nago
- Vua lợn rừng Tây vực. Trong một lần tấn công con người vì họ khai thác rừng quá mức, Nago đã bị Eboshi dùng súng bắn trọng thương. Vết thương khiến nó đau đớn, oán hận, để rồi hoá thành Tatari Gami đến phá hoại làng Emishi và bị Ashikata giết chết.
- Moro
- Lồng tiếng bởi: Akihiro Miwa
- Thần Sói trắng giữ khu rừng, bảo vệ Shishigami và là mẹ nuôi của San. Khi tấn công cha mẹ San, họ đã bỏ lại San để cứu mạng. Moro đã nuôi San và coi cô như con gái. Moro luôn căm hận Eboshi, ngay cả sau khi chết, cái đầu của nó còn sống, cắn đứt tay Eboshi. Ngoài ra, Moro cũng bị bắn bởi viên đạn của Eboshi nhưng không biến thành Tatari Gami. Sau khi cứu San, Moro đã chết vì Shishigami.
- Okkoto
- Lồng tiếng bởi: Hisaya Morishige
- Con gái là Okkoto-nushi, vị thần già của lợn rừng (Inoshishi Gami) nhưng thông thái. Theo lời Jigo, nó đã chết cách đây 100 năm và có thể Shishigami đã hồi sinh nó. Giống như Moro, nó cũng có thể nói chuyện với con người. Mặc dù mù nhưng khứu giác của nó rất nhạy bén, chỉ cần ngửi là biết Nago đã biến thành quái vật. Tức giận vì con người phá rừng, Okkoto triệu hồi đàn lợn từ xa để tấn công con người. Sau cuộc chiến, tất cả đồng loại của Okkoto đều chết, nó cũng bị thương nặng và sau đó biến thành Tatarigami. Khác với những con lợn khác, Okkoto hiểu đúng sai trong vụ này mặc dù tức giận khi Shishigami đã cứu Ashitaka nhưng để Nago chết.
- Shishigami
- Vị thần cai quản khu rừng, biểu tượng của sự sống và cái chết. Shishigami có 2 hình dạng: Ban ngày là con nai vàng có sừng lớn và mặt người; ban đêm là Daidarabotchi, một linh hồn khổng lồ. Chỉ có thể giết Shishigami khi nó đổi dạng. Nếu vào lúc mặt trời mọc Shishigami không trở lại hình dạng cũ, nó sẽ chết. Hoa dưới chân Shishigami nở và tàn theo nơi nó đi. Shishigami đã chữa lành vết thương của Ashitaka và lấy mạng sống của Moro, Okkoto.
- Trước cuối phim, Eboshi đã bắn đầu của Shishigami, khiến vị thần này nổi giận và biến thành một thứ chất bao quanh một Tatari Gami, làm héo úa cả khu rừng và giết bất kỳ ai chạm vào. Jigo mang đầu Shishigami đi và bị nó đuổi. Ashitaka và San đã lấy lại và trả cái đầu cho Shishigami. Shishigami sau khi nhận lại đầu đã chết khi mặt trời mọc vì không kịp trở lại hình dạng cũ. Nhờ sự hi sinh của Shishigami, lời nguyền trên tay Ashitaka và San đã được xóa bỏ, khu rừng héo úa đã mọc lại những mầm xanh mới.
- Kodama
- Loài linh thần nhỏ sống trong cây rừng Tây vực, được gọi là 'mộc linh' trong bản dịch tiếng Việt của anime. Kodama chiếm số lượng đông nhất trong rừng, là những linh thần hiền lành và dễ thương. Chúng đã giúp đỡ Ashitaka khi anh lạc trong rừng. Trước khi Shishigami phải trở về hồ nước, Kodama đã chào đón vị thần tối cao bằng cách lắc cổ răng rắc. Cuối phim, một Kodama nhỏ xuất hiện trong khu rừng mới tái sinh.
- Tatarigami
- Tatarigami không phải là tên của một linh thần riêng biệt, mà là hiện thân của bất kỳ linh thần nào trong khu rừng khi sự tức giận và đau đớn của chúng đạt đến đỉnh điểm. Khi điều này xảy ra, một chất dịch đen như giun sẽ xuất hiện từ cơ thể chúng, bao phủ toàn bộ cơ thể. Sau đó, Tatarigami sử dụng những xúc tu này để di chuyển và tấn công. Ai bị dính chất dịch này sẽ phải chịu cái chết từ từ và đau đớn. Tuy nhiên, những xúc tu này không tấn công con người khi ở dưới nước. Thực tế, trong 2 trên 3 lần Tatarigami xuất hiện, nạn nhân của chúng đã thoát khỏi bằng cách xuống nước. Trong phim, Tatarigami xuất hiện nhiều lần. Lần đầu là Nago, sau khi bị con người bắn, đã biến thành Tatarigami. Ashitaka bị nguyền rủa khi dính vào chất dịch này trong lúc cố giết nó. Lần thứ hai là Okkoto, khi bị thương nặng, đã biến thành Tatarigami và tấn công San, nhưng Shishigami đã ngăn chặn kịp thời trước khi nó hoàn toàn biến đổi. Lần thứ ba là khi Shishigami bị bắn bởi Eboshi, biến thành một chất dịch đen lan rộng và hủy diệt cả khu rừng cùng ngôi làng gần đó. Mặc dù không có gì xác nhận rõ ràng, nhiều người tin rằng chất dịch đen này chính là xúc tu của Tatarigami. Vì vậy, trong suốt phim, có 3 lần Tatarigami xuất hiện.
- Shoujou
- Những sinh vật này giống như khỉ đột ngoài đời thực. Chúng cố gắng trồng rừng trong khi con người lại chặt phá những cây chúng trồng. Giống như các thần thú khác, chúng căm ghét con người, nhưng không tấn công trực tiếp mà chống lại bằng cách tiếp tục trồng rừng. Chúng nhiều lần đe dọa giết Ashitaka và tin rằng nếu ăn thịt anh, chúng sẽ có đủ sức mạnh và trí tuệ để chống lại con người.
- Yakul
- Yakul là chú linh dương đỏ thông minh và trung thành, là phương tiện di chuyển và người bạn đồng hành của Ashitaka trong suốt cuộc hành trình. Gần cuối phim, chú bị bắn trọng thương nhưng sau đó phục hồi kỳ diệu và là nhân vật đầu tiên tìm thấy Ashitaka và San sau khi họ trả lại đầu cho Thần Rừng.
Khác
- Toki
- Lồng tiếng bởi: Sumi Shimamoto
Người phụ nữ đẹp làm việc ở lò rèn, cô rất cảm kích Ashitaka vì anh đã cứu chồng mình. Dù là người phụ nữ bình thường, Eboshi lại rất tin tưởng cô và xem cô là người phụ nữ quyền lực thứ hai tại Làng Sắt. Cô thường hay châm chọc Gonza và cho rằng ông ta là nguyên nhân của mọi thất bại.
- Gonza
- Lồng tiếng bởi: Tsunehiko Kamijō
Người đứng đầu đội cận vệ của Eboshi và là cánh tay phải của bà. Mặc dù vẻ ngoài bặm trợn, ông lại là kẻ bất tài, vô dụng và luôn bị Toki chỉ trích.
- Kohroku
- Lồng tiếng bởi: Masahiko Nishimura
Chồng của Toki, yêu vợ đến mức rất sợ cô. Anh bị ngã xuống vực sau khi bị đàn sói tấn công và được Ashitaka cứu sống. Cũng như vợ mình, anh rất khâm phục Ashitaka.
- Kaya
- Lồng tiếng bởi: Yuriko Ishida
Công chúa bộ tộc Emishi và là hôn thê của Ashitaka. Bất chấp luật lệ bộ tộc coi Ashitaka như đã chết và không ai được tiễn đưa anh, cô đã gặp anh, tặng anh con dao găm đính đá và cầu chúc anh may mắn.
- Hii-Sama
- Lồng tiếng bởi: Mitsuko Mori
- Những phụ nữ ở Làng Sắt
- Lồng tiếng bởi: Takako Fuji và Ikuko Yamamoto
Sản xuất
Miyazaki đã dành 16 năm để xây dựng kịch bản và nhân vật cho Mononoke Hime. Nhiều cảnh nền trong phim có thể thấy trong manga năm 1983 của ông, The Journey of Shuna. Cốt truyện và nhân vật đã thay đổi nhiều trong quá trình chuẩn bị. Mononoke Hime cuối cùng được thực hiện sau khi Miyazaki thăm rừng cổ trên đảo Yakushima, dù ông chưa hoàn thành toàn bộ cốt truyện cho đến khi sản xuất. Bản phác thảo cho cảnh cuối cùng được hoàn thành chỉ một tháng trước ngày công chiếu tại Nhật.
Hầu hết các cảnh trong Mononoke Hime là bản vẽ tay, nhưng mỗi 5 phút của phim lại có sự kết hợp với CGI. Phần hoạt họa máy tính hỗ trợ và hòa trộn với hoạt họa gốc, kỹ thuật này chủ yếu dùng trong các cảnh kết hợp giữa hình vẽ máy tính và bản vẽ tay. Hơn 10 phút của phim sử dụng mực in điện tử, kỹ thuật này sau đó được sử dụng trong mọi tác phẩm của Studio Ghibli. Hầu hết phim được tô bằng màu vẽ truyền thống, nhưng nhà sản xuất đã chấp nhận sự can thiệp của máy tính để kịp ngày công chiếu.
Miyazaki đã tự tay kiểm duyệt lại toàn bộ 144.000 bức vẽ tay của phim và chỉnh sửa, vẽ lại khoảng 80.000 bức trong số đó. Đây là một trong những phim hiếm hoi của ông mà không có cảnh bay lượn, một đặc điểm thường thấy trong các tác phẩm của Miyazaki.
Khi ra mắt, Mononoke là bộ phim anime đắt giá nhất thời bấy giờ, chỉ riêng chi phí sản xuất đã tốn 2,35 tỷ ¥ (khoảng 23,5 triệu US$).
Miyazaki không muốn Ashitaka trở thành một anh hùng truyền thống:
'Ashitaka không phải là một chàng trai vô tư, hồn nhiên. Anh luôn mang nỗi buồn sâu kín và là người đã được định sẵn số phận. Tôi cảm thấy mình cũng như vậy, nhưng đến giờ, tôi chưa từng làm phim nào có nhân vật như thế. Ashitaka bị nguyền rủa vì một lý do phi lý. Chắc chắn rằng, Ashitaka đã làm điều mà mình không được phép làm - giết một Tatari Gami. Nhưng có lý do chính đáng từ góc nhìn của con người. Dù thế nào, anh đã phải gánh chịu lời nguyền chết người. Tôi thấy điều này giống như cuộc sống của chúng ta ngày nay. Dù điều này phi lý, nhưng nó là một phần của cuộc sống.'
— Miyazaki Hayao
Ông nói rằng nhân vật Eboshi có một quá khứ đầy bi kịch, dù không được đề cập cụ thể trong phim. Bà có cá tính mạnh mẽ và thận trọng, bằng chứng là bà cho phép Ashitaka tự do đi lại trong Iron Town mà không cần ai hộ tống, dù động cơ của anh không rõ ràng. Bà gần như không thừa nhận quyền lực của hoàng đế tại Iron Town, một quan điểm cách mạng thời đó, và thể hiện một tính cách điển hình của người phụ nữ thời đại, không ngần ngại hy sinh bản thân và những người xung quanh để đạt được ước mơ. Miyazaki nói rằng Eboshi 'giống như một shirabyōshi'.
Khi xây dựng nhân vật Jigo, đạo diễn Miyazaki đã phân vân giữa việc cho nhân vật này là gián điệp triều đình, ninja, tín đồ tôn giáo hay 'một người rất tốt'. Cuối cùng, ông đã xây dựng Jigo dựa trên tất cả những hình tượng đó.
Phong cảnh trong Mononoke Hime được lấy cảm hứng từ những khu rừng cổ đại của Yakushima, Kyūshū, và ngọn núi Shirakami-Sanchi ở Bắc Honshū. Tuy nhiên, mốc thời gian trong phim là không xác định, nghĩa là phim không có thời điểm cụ thể.
Ngày phát hành
Bộ phim đạt thành công rực rỡ tại Nhật Bản với sự ủng hộ đông đảo từ cộng đồng fan anime và cũng gây ấn tượng tại các rạp chiếu phim nghệ thuật ở các nước nói tiếng Anh. Tại những quốc gia này, khán giả mô tả phim như một câu chuyện truyền thuyết Nhật Bản về môi trường. Hãng phim Miramax của Disney đã mua bản quyền phát hành phim tại Mỹ nhưng muốn cắt bỏ một số đoạn để phù hợp với Hệ thống phân loại phim. Tuy nhiên, Miyazaki đã từ chối yêu cầu này, và bộ phim được công chiếu đầy đủ với mức PG-13. Miramax đã đầu tư nhiều cho việc lồng tiếng Anh cho 'Mononoke Hime' với dàn diễn viên nổi tiếng. Khi công chiếu tại rạp, phim được quảng bá rất ít và chỉ chiếu ở một số rạp hạn chế trong thời gian ngắn. Sau đó, Disney đã chỉ trích việc phim không thành công tại các rạp chiếu. Vào tháng 9 năm 2000, phim được thông báo sẽ phát hành bản DVD với lồng tiếng Anh tại Bắc Mỹ. Để đáp ứng yêu cầu của fan về việc thêm bản nhạc tiếng Nhật và tránh mất khách hàng, Miramax đã ẩn phần dịch tiếng Anh trong phiên bản tiếng Nhật. Điều này khiến việc phát hành DVD bị trì hoãn gần 3 tháng, nhưng sau đó đĩa bán rất chạy khi ra mắt.
Phát hành tại các nơi khác
DVD phát hành tại Mỹ và Anh đều có hai phiên bản tiếng Anh và tiếng Nhật của các bản nhạc trong phim, cùng với phụ đề cho cả phần lồng tiếng Anh và phần dịch nghĩa.
Theo yêu cầu của Miyazaki, bộ phim giữ nguyên bản gốc trong phiên bản phát hành tiếng Anh, chỉ thay đổi phần âm nhạc. Phần lồng tiếng Anh của 'Mononoke Hime' được dịch và chuyển thể bởi Neil Gaiman, tác giả của The Sandman.
Phim cũng có các phiên bản thuyết minh bằng tiếng Trung Quốc phổ thông, Quảng Đông, Séc, Pháp, Đức, Ý, Hàn Quốc, Na Uy, Đan Mạch, Ba Tư và Bồ Đào Nha.
Sự đón nhận
Mononoke Hime là bộ phim đứng đầu thị trường Nhật Bản năm 1997 với tổng doanh thu từ các kênh phân phối lên đến 11,3 tỷ ¥. Bộ phim được đề cử là phim Nhật cho giải Oscar Phim ngoại ngữ xuất sắc nhất trong năm đó và nhận được sự đón nhận nồng nhiệt. Leonard Klady của tạp chí Variety đã viết bài đánh giá tích cực cho phim từ lần đầu ra mắt. Trong chương trình Roger Ebert & The Movies, phim nhận được 2 ngón cái lên của Harry Knowles và Roger Ebert. Ebert đã cho phim 4/4 sao trong bài đánh giá và xếp phim vào danh sách 10 phim hay nhất năm. Dù hầu hết các đánh giá đều tích cực, một số phê bình cho rằng lựa chọn dàn diễn viên lồng tiếng, đặc biệt là Billy Bob Thornton cho nhân vật Jigo và Claire Danes cho San, đã làm giảm sự cảm thụ khi xem phim. Tuy nhiên, phần lồng tiếng của phim vẫn được coi là xuất sắc nhất, ngang với Vùng đất linh hồn. Tháng 6 năm 2011, trang Rotten Tomatoes thông báo có 93% đánh giá tích cực cho bộ phim, với điểm trung bình 7.7/10 và nhận xét: 'Với cốt truyện xuất sắc và những cảnh phim tuyệt vời, Mononoke Hime xứng đáng là một cột mốc trong thế giới phim hoạt hình'.
Roger Ebert xếp bộ phim đứng thứ 6 trong danh sách 10 phim hay nhất năm 1999. Mononoke Hime là bộ phim có doanh thu cao nhất tại Nhật cho đến khi bị phim 'Titanic' vượt qua vài tháng sau đó.
Mononoke Hime xếp thứ 488 trong danh sách 500 phim hay nhất mọi thời đại của tạp chí Empire.
Phim được Terry Gilliam xếp vào danh sách 50 phim hoạt hình hay nhất mọi thời đại.
Phim đứng thứ 26 trong bảng xếp hạng 50 phim hoạt hình của Total Film.
Tháng 1 năm 2001, bộ phim trở thành anime bán chạy nhất ở châu Mỹ, mặc dù không thành công lắm tại Mỹ, thu về 2.298.191 USD trong 8 tuần đầu ra mắt.
Giải thưởng
- Hình ảnh xuất sắc nhất: Giải thưởng Hàn lâm Nhật Bản lần thứ 21
- Phim Nhật xuất sắc nhất, Hoạt hình xuất sắc nhất, và Giải khán giả bình chọn cho phim Nhật; Giải thưởng phim Mainichi lần thứ 52
- Phim Nhật xuất sắc nhất và Giải độc giả bình chọn; Liên hoan phim Asahi 10 phim xuất sắc nhất
- Giải phim xuất sắc nhất; Cơ quan Văn hóa Nhật Bản
- Giải thưởng lớn tại Hạng mục Hoạt hình; Liên hoan nghệ thuật truyền thông Nhật Bản lần thứ nhất (do Cục Văn hóa của Bộ Giáo dục tổ chức)
- Đạo diễn xuất sắc; Liên hoan phim Takasaki
- Phim Nhật xuất sắc nhất; Hiệp hội Các nhóm xem phim
- Giải phim xuất sắc; Giải thưởng nghệ thuật Mainichi lần thứ 39
- Đạo diễn xuất sắc; Giải thưởng phim thể thao Tokyo
- Giải Nihon Keizai Shinbun cho xuất sắc; Giải thưởng sản phẩm/dịch vụ xuất sắc của Nikkei (chi tiết)
- Giải Hạng mục nhà hát; Giải thưởng giải trí kỹ thuật số Asahi
- Giải đặc biệt MMCA; Giải thưởng lớn đa phương tiện 1997
- Đạo diễn xuất sắc nhất và Giải Yujiro Ishihara; Giải thưởng phim Nikkan Sports
- Giải Thành tựu đặc biệt; Ngày phim ảnh
- Giải đặc biệt; Giải thưởng phim Hochi
- Giải đặc biệt; Giải thưởng Blue Ribbon
- Giải đặc biệt; Liên hoan phim Osaka
- Giải đặc biệt; Giải thưởng Elandore
- Giải văn hóa; Giải thưởng Fumiko Yamaji
- Giải thưởng lớn và Giải thành tựu đặc biệt; Giải thưởng Golden Gross
- Hạng nhất, phim xuất sắc nhất năm; 'Pia Ten' lần thứ 26
- Hạng nhất; Japan Movie Pen Club, 5 phim Nhật xuất sắc nhất 1997
- Hạng nhất; Kinema Junpo 10 phim Nhật xuất sắc nhất 1997 (bình chọn của độc giả)
- Hạng nhì; Kinema Junpo 10 phim Nhật xuất sắc nhất 1997 (bình chọn của các nhà phê bình)
- Đạo diễn xuất sắc nhất; Phim Nhật năm 1997 của Kinema Junpo (bình chọn của độc giả)
- Hạng nhất; Giải thưởng Best Comicker's
- Hạng nhất; Bình chọn của độc giả CineFront
- Giải Nagaharu Yodogawa; RoadShow
- Nhà soạn nhạc xuất sắc nhất và Album xuất sắc nhất; Giải thưởng âm nhạc Nhật Bản lần thứ 39
- Giải xuất sắc; Giải thưởng Yomiuri cho Quảng bá phim/kịch
Nhạc phim
Hầu hết các bản nhạc trong phim đều mang âm hưởng sâu lắng và huyền bí. Giai điệu cuối phim vang lên đầy yên bình, dễ chịu và chứa đựng hy vọng, như hàng vạn mầm cây nảy lộc từ đống tro tàn. Âm nhạc đã đóng góp lớn vào thành công của bộ phim.
Bài hát chủ đề của anime này là 'Mononoke hime' do Joe Hisaishi sáng tác và ca sĩ Yoshikazu Mera trình bày. Lời ca đầy ai oán và thương cảm cho tâm hồn đầy oán hận của Mononoke Hime. Đây là lời bài hát cùng bản dịch tiếng Anh và tiếng Việt: Lời hát tiếng Anh đã được điều chỉnh một chút so với bản gốc tiếng Nhật.
Mononoke hime - lời bài hát gốc bằng tiếng Nhật
- Romaji: |
- Kanji và kana: 張り詰めた弓の震える弦よ 悲しみと怒りに潜む誠の心を知るは森の精
|
- Dịch nghĩa: |
The princess Mononoke - phiên bản bài hát tiếng Anh
In the moonlight I felt your heart When the sun is gone, I see you All of your sorrow, grief and pain |
- Dịch nghĩa: Khi mặt trời lặn, tôi trông thấy em: Tất cả gian khổ, phiền muộn và đau đớn mà em mang theo |
Đánh giá
Đây có thể xem là một trong những anime kinh điển của Ghibli, thể hiện rõ sự quan tâm đến môi trường và con người của Hayao Miyazaki. Bộ phim tái hiện cảnh rừng núi, muông thú, làng quê rất chân thực và đẹp mắt. Tâm lý nhân vật được khắc hoạ một cách rõ ràng và ngắn gọn. Qua những cử chỉ, sự việc nhỏ nhặt, Hayao Miyazaki đã phác họa toàn bộ tính cách nhân vật. Xem 'The princess Mononoke', ta thấy một hoàng tử Ashitaka anh hùng, gần gũi và nhân hậu. Cảnh anh cõng San ra khỏi lò rèn với vết đạn đang rỉ máu trên ngực; khi bị San kề dao vào cổ, dù sắp chết nhưng anh vẫn nhìn cô và nói: 'Cô xinh đẹp lắm!' (nhờ câu nói này mà công chúa sói đã không giết anh). Mọi người xem San như một con thú hoang, riêng Ashitaka lại tôn trọng và xem cô như một con người, một người con gái thực sự.
Cuộc chiến khốc liệt đã đưa Ashitaka và San lại gần nhau, San trở nên 'người' hơn và mở lòng với Ashitaka, thay lòng thù hận bằng tình yêu. Khi các anh em sói của San muốn ăn thịt Ashitaka, chính cô đã ngăn cản. Cô còn nhờ Shishigami chữa lành vết thương cho anh và mang anh về hang chăm sóc. Họ hiểu về thế giới của nhau hơn và cùng chiến đấu cho sự hòa bình giữa con người và thiên nhiên. Cảnh đẹp nhất phim có lẽ là khi San nổi giận vì Ashitaka cứu Eboshi, cô dùng mặt dây chuyền anh tặng để đâm anh. Nhưng Ashitaka chỉ nhẹ nhàng ôm cô vào lòng, lúc này vết thương đã lan ra khắp người anh. San thổn thức:
- Mọi thứ đã kết thúc rồi, khu rừng đã chết!
- Không, vẫn còn kịp. Hãy giúp tôi nhé, San!
Rừng cây đang bị thu hẹp và sẽ tiếp tục bị thu hẹp nữa bởi sự can thiệp của con người. Các vị thần của núi rừng đã rút lui và cho đến ngày nay vẫn tiếp tục rút lui. San sẽ không quay lại Tatara Ba như cách Tarzan trở về thành phố. Ashitaka sẽ không từ bỏ cuộc sống của con người để đi cùng cô vào rừng sâu. Cuối phim, San đã tỏ tình với Ashitaka: 'Tôi rất thích anh, Ashitaka! Nhưng tôi vẫn không thể tha thứ cho những gì con người đã làm.' Ashitaka mỉm cười đáp: 'Cô ở trong rừng, tôi ở Tatara Ba. Chúng ta sẽ sống cùng nhau trong hòa bình. Khi có thời gian, tôi và Yakul sẽ đến thăm cô!'
Mononoke Hime muốn thể hiện rằng không có một kết thúc hoàn hảo trong cuộc đấu giữa con người và thiên nhiên. Dù có bao phủ bởi sự thù hận, sự đau khổ và những mất mát, nhưng vẫn có những điều tuyệt đẹp như mối quan hệ giữa Ashitaka và San. Thiên nhiên và con người tồn tại cùng nhau, một cách hài hòa tự nhiên. Nhà phê bình phim Julie Setori nhận xét: 'Mononoke Hime không chỉ nói về sinh thái mà còn nói về sự hiện diện vĩnh cửu.' Ngoài Ashikata, mọi người trong Mononoke Hime đều muốn có một nơi riêng biệt cho mình. Con người, kẻ giàu muốn thống trị các vị thần để kiếm quyền lực và sinh mệnh. Kẻ nghèo muốn tự do khai thác sắt và gỗ. Các vị thần của núi rừng muốn nơi mình cai quản không bị can thiệp. Với thời gian, mọi thứ đều phải thay đổi và con người cũng là một phần của sự thay đổi đó.
Phim có sâu sắc với nội dung thể hiện rõ các vấn đề của cuộc sống hiện đại, không bị ràng buộc bởi không gian và thời gian. Điều nổi bật nhất là triết lý trừu tượng về mối quan hệ giữa con người và các vị thần. Princess Mononoke không đưa ra lời khẳng định ai đúng ai sai trong cuộc xung đột giữa con người và thiên nhiên. Sự giải thích của con người về hành động phá hủy thiên nhiên để bảo vệ cuộc sống cộng đồng không phải là điều vô lý, nhưng sự phẫn nộ của rừng xanh và cuộc chiến đòi quyền sống của các loài là điều đáng lý. Trắng đen xen kẽ như cuộc sống hiện đại và quan điểm nhân sinh ngày nay của chúng ta. Không ai là người chiến thắng ở đây, những gì còn sót lại chỉ là một lời hy vọng cho sự chung sống hòa bình giữa con người và thiên nhiên, đó là điều mà cảnh cuối cùng của bộ phim muốn truyền tải.