Bài văn về một câu chuyện em đã nghe hoặc đọc về một anh hùng, một nhân vật lịch sử nổi tiếng của nước ta cho lớp 5 bao gồm dàn ý chi tiết và 30 bài văn hay nhất, ngắn gọn được tổng hợp từ bài văn của học sinh lớp 5 trên toàn quốc sẽ giúp em triển khai ý, tích lũy từ vựng để viết bài văn về một câu chuyện em đã nghe hoặc đọc về một anh hùng, danh nhân của nước ta.
Kể một câu chuyện về một anh hùng, một danh nhân của nước ta dành cho học sinh lớp 5 (dàn ý, 30 mẫu siêu hay)
Kể một câu chuyện về một anh hùng, danh nhân của nước ta - Thánh Gióng
Xưa kia, ở làng Gióng có một đứa bé kỳ lạ, đã tròn ba tuổi mà chẳng biết đi, chẳng biết nói, chỉ biết nằm yên một chỗ.
Giặc Ân từ phương Bắc xâm lược vào nước ta. Vua đã sai sứ giả đi tìm người dũng cảm để cứu nước. Nghe tin, đứa bé đột nhiên biết nói. Cậu nhờ mẹ gọi sứ giả tới và nói: “Xin ông về báo tin vua, làm cho tôi một con ngựa sắt, một bộ giáp sắt, và một chiếc nón sắt. Tôi sẽ đánh tan quân giặc”.
Kể từ khi gặp sứ giả, đứa bé lớn nhanh như chớp. Cậu ăn không đủ no, quần áo mới may xong đã quá chật. Mẹ cậu không đủ gạo, cả làng phải cùng nhau góp thức ăn để nuôi cậu.
Khi nhà vua trao cho các trang sĩ trang bị, Gióng trở thành một anh hùng mạnh mẽ. Anh ấy mặc áo giáp sắt, đội nón sắt, cầm roi sắt, cưỡi ngựa sắt. Ngựa sắt rống rền, phun lửa, lao vào trận địa. Anh sử dụng roi sắt đánh đuổi kẻ thù. Khi roi sắt gãy, anh nhổ từng cọng cỏ tre bên đường tiếp tục đấu tranh. Giặc thù chết như cỏ dại.
Sau khi tiêu diệt xong kẻ thù, Gióng tháo áo giáp sắt, nón sắt, để lại dưới chân núi, nhìn lại quê hương một lần nữa rồi cưỡi ngựa bay lên trời. Cư dân trong vùng ghi nhớ công ơn lớn lao của Gióng, xây đền thờ và tôn vinh anh là Thánh Gióng.
Truyền thuyết về Thánh Gióng bắt nguồn từ thời Hùng Vương khai hoá đất nước và đã được truyền miệng từ đời này sang đời khác trong dân gian Việt Nam.
Dàn ý Kể một câu chuyện em đã nghe hay đã đọc về một anh hùng, danh nhân của nước ta
1. Mở đầu: Giới thiệu câu chuyện về một nhân vật văn hóa mà em đã nghe hoặc đọc.
– Câu chuyện được nghe kể qua miệng hay đọc từ sách báo?
– Câu chuyện kể về nhân vật văn hóa nào?
2. Phần chính:
– Tóm tắt tiểu sử của nhân vật văn hóa:
+ Họ và tên, tuổi, quê quán
– Tóm tắt cuộc đời và thành tựu của nhân vật văn hóa
+ Các hoạt động và đóng góp của họ
+ Danh tiếng và vinh danh của nhân vật văn hóa
– Trình bày câu chuyện về nhân vật văn hóa.
3. Điểm tựa: Ý kiến của em về câu chuyện về nhân vật văn hóa:
- Những nhân vật văn hóa là cống hiến vô cùng quý giá đối với mỗi quốc gia, dân tộc, cần được tôn trọng và học hỏi.
Kể một câu chuyện em đã nghe hay đã đọc về một anh hùng, danh nhân của nước ta - Nữ tướng Lê Chân
Ngày nay, du khách gần xa đến tham quan thành phố Hải Phòng có thể ngắm nhìn bức tượng của nữ tướng Lê Chân được đặt tại dải vườn hoa Trung tâm thành phố. Bức tượng cao 6m, được làm bằng đồng, trang nghiêm và hùng vĩ. Cầm kiếm bên cạnh, Lê Chân vươn lên phía biển Đông, ánh mắt rực sáng và uy nghiêm. Theo sách sử, Lê Chân là con gái của ông Lê Đạo, một bác sĩ nổi tiếng trong khu vực. Bà sinh ra ở làng An Biên (hay còn gọi là làng Vẻn) thuộc phủ Kinh Môn, nay là huyện Đông Triều, Quảng Ninh.
Khi mới 16 tuổi, Lê Chân đã nổi tiếng với sự thông minh, sức mạnh và tài võ xuất chúng. Thống trị Giao Chỉ lúc bấy giờ là một tên cực kỳ tàn bạo và tham lam. Không thành công trong việc ép buộc bà kết hôn, hắn đã bày mưu vu oan đóng đinh tội phản quốc để tiêu diệt Lê Đạo! Lê Chân phải trốn tới khu vực ven biển An Dương để bắt đầu cuộc đối đầu với kẻ thù nhà nước, quyết tâm không khuất phục trước giặc Hán xâm lược.
Khi Hai Bà Trưng khởi nghĩa, cùng với hàng loạt anh hùng nữ khác từ khắp nơi đều nổi dậy để tham gia, Lê Chân đã lãnh đạo binh đoàn nữ anh hùng từ làng An Biên tiến vào Luy Lâu để đối đầu với quân Đông Hán. Lửa cháy bùng lên, tiếng rống của quân ngựa và tiếng trống của lính dân quân khiến đối phương sợ hãi. Chính quyền địa phương bị phá hủy, quân thù phải rút lui về phía Bắc. Đó là vào tháng 3 năm 40. Lê Chân đã tuyển mộ thanh niên trẻ, lập làng mới. Một khu vực ven biển ngày càng phát triển với nghề đánh cá, nông trại và đóng thuyền. Sau một vài năm, Lê Chân đã có một đội quân lớn mạnh, sẵn sàng cho cuộc chiến lớn.
Cuộc nổi dậy của họ đã thành công, 65 thành trì được giải phóng, Hai Bà Trưng lên ngôi làm nữ hoàng với danh hiệu Trưng Vương, đặt kinh đô tại Mê Linh. Đất nước ta đã đoạt được tự do.
Gần một trăm anh hùng nữ tướng được thưởng phong, được giao nhiều trách nhiệm. Trưng Vương sai nữ tướng Thánh Thiên đóng quân ở Hợp Phố giữ phía bắc, tướng Đô Dương giữ Cửu Chân phòng vệ phía nam, nữ tướng Lê Chân được phong 'Chưởng quản binh quyền nội bộ' đóng bản doanh ở Giao Chỉ, và nhiều trường hợp khác.
Tháng 4 năm 42, vua nhà Hán sai Mã Viện dẫn đội quân sang xâm lược nước ta. Bà Trưng cùng các tướng lĩnh ra trận đấu. Nhiều trận đánh lớn diễn ra ở Lãng Bạc, cẩm Khê, Hát Môn. Tháng 5-43, Hai Bà Trưng thất bại và đành phải nhảy sông Hát Giang tự tử. Nhiều nữ tướng của Bà Trưng đã hy sinh anh dũng. Nữ tướng Lê Chân đã đào hố, ngăn sông, chặn địch dũng cảm. Đến cuối năm 43, Lê Chân đã hy sinh anh dũng trên chiến trường Lạt Sơn, Kim Bảng (tỉnh Hà Nam ngày nay), tôn vinh dũng cảm anh hùng của người phụ nữ Việt Nam.
Để ghi nhận công ơn lớn lao của nữ anh hùng Lê Chân, người dân An Biên đã xây dựng đền thờ được gọi là đền Nghè, một trong những di tích lịch sử cổ kính, trang nghiêm của thành phố Cửa Biển.
Kể một câu chuyện em đã nghe hay đã đọc về một anh hùng, danh nhân của nước ta - Nguyễn Viết Xuân
Anh Nguyễn Viết Xuân sinh ra trong một gia đình nông dân nghèo ở xã Ngũ Kiên, huyện Vĩnh Tường, tỉnh Vĩnh Phú. Lúc bảy tuổi, anh phải đi ở xa để kiếm sống. Khoảng thời gian này kéo dài tới mười năm.
Khi 18 tuổi, từ vùng chiến trường tạm, anh gia nhập quân đội. Đó là vào năm 1952, anh trở thành chiến sĩ quân đội nhân dân và tham gia một trung đoàn cao xạ. Trong trận chiến ở Điện Biên Phủ, đơn vị của anh bắn rơi hàng chục máy bay của quân Pháp. Lần đầu tiên bắn rơi máy bay B.24 ngay tại chỗ, anh vô cùng vui mừng và nói với chỉ huy của mình, 'Em nghĩ bắn rơi máy bay B.24 khó lắm, nhưng nó cũng phải rơi chứ anh nhỉ.' Chỉ huy trả lời: 'Dũng cảm và quyết tâm thì máy bay nào của địch cũng phải rơi!'.
Trong một trận đánh, hàng loạt máy bay địch lao vào. Bom rơi như mưa. Anh Vĩ vững chắc đứng trên hầm pháo chỉ huy, quyết liệt hét lên: 'Nhắm vào máy bay địch, bắn!' - Nhưng sau đó, anh hy sinh mạnh mẽ.
Bức ảnh của người chỉ huy dũng cảm cùng tiếng hô quyết liệt đó đã in sâu trong trái tim của Nguyễn Viết Xuân. Lấy đó làm gương, anh luôn phấn đấu và cuối cùng được kết nạp vào Đảng Lao động Việt Nam. Anh trở thành chính trị viên phó đại đội, sau đó là chính trị viên đại đội. Vào năm 1964, thiếu úy Nguyễn Viết Xuân đã dẫn đơn vị cao xạ của mình đến miền tây Quảng Bình để bảo vệ vùng biên giới của Tổ quốc.
Vào ngày 18 tháng 11 năm 1964, máy bay địch tiếp tục xâm nhập vùng trời miền Bắc ở phía tây Quảng Bình. Trên các khẩu pháo, các chiến sĩ dũng cảm đã bắn hạ máy bay địch. Tiếng hô của Nguyễn Viết Xuân vang vọng:
– Hãy nhắm chính xác và bắn!
Hai chiếc máy bay phản lực F.100 bị tiêu diệt.
Lần thứ tư, khi máy bay địch tiếp tục tấn công, anh vội chạy về trạm chỉ huy để ra lệnh chiến đấu. Ba chiếc F.100 lao tới và bắn phá liên tục. Anh bị thương và ngã xuống hầm pháo, một chân bị thương nặng. Nhưng anh không phàn nàn, chỉ ra hiệu im lặng. Sau đó, anh dặn dò: 'Không ai được phép biết tôi bị thương. Hãy giúp tôi truyền lệnh chiến đấu.'
Y tá Nhu đến và thấy máu chảy nhiều, nhưng anh từ chối sự giúp đỡ và nói: 'Hãy chăm sóc những người khác bị thương trước đã…' Anh yêu cầu cắt chân của mình để không gây trở ngại. Y tá ngần ngại, nhưng anh cố gắng thúc giục: 'Hãy cắt đi… và giấu chân vào một nơi kín đáo hộ tôi…'
Khi chân đã được cắt, Nguyễn Viết Xuân yêu cầu một khăn để nhắm mắt lại. Y tá quá xúc động, bật khóc và nói:
– Mọi người hãy bắn mạnh vào, trả thù cho anh chiến sĩ.
Các khẩu pháo liên tiếp nổ, tạo ra một mạng lưới lửa quét sạch kẻ thù khi chúng tiến đến. Khói lửa bao trùm. Một chiếc máy bay F.100 khác lao đầu xuống núi, kéo theo dải lửa dài. Kẻ thù sợ hãi và tẩu thoát về phía đông.
Khi bầu trời dần trở lại sáng sủa, mọi người đến bên chiến sĩ, nhưng anh đã hy sinh.
Lệnh 'Hãy nhắm chính xác vào quân thù và bắn!' của anh hùng liệt sĩ Nguyễn Viết Xuân đã trở thành điều vĩnh cửu. Lệnh tấn công này đã luôn khiến cho lũ kẻ thù sợ hãi, khi chúng xâm phạm không trung miền Bắc của Tổ quốc.
Kể một câu chuyện em đã nghe hoặc đã đọc về một anh hùng, danh nhân của Việt Nam - Hai Bà Trưng
Vào năm 43 sau Công nguyên, nhà Đông Hán sai Tô Định sang làm Thái thú quận Giao Chỉ.
Tô Định là một người tham lam và tàn bạo. Dân chúng rất căm hận, cũng như các quan Lạc hầu, Lạc tướng. Lạc tướng Châu Diên là Thi Sách, quyết tâm chống lại quân Tàu. Tô Định đã giết Thi Sách. Vợ của Thi Sách, Trưng Trắc, nổi dậy đánh Tô Định để trả thù cho chồng và giành lại danh dự cho nước nhà.
Trưng Trắc là con của Lạc tướng Mê Linh, nay thuộc tỉnh Phúc Yên. Khi bà cùng em gái Trưng Nhị khởi nghĩa, sự hưởng ứng từ các Lạc tướng và dân chúng rất lớn. Không mất lâu, quân của Hai Bà Trưng lan rộng khắp nơi, chiếm được 65 thành trì. Tô Định không thể chống lại mà phải chạy về nước Tàu. Hai Bà Trưng lên ngôi vua và đóng đô ở Mê Linh (năm 40 sau lịch). Dân chúng vui mừng về sự độc lập.
Trưng Nữ Vương trị vì hơn một năm thì nhà Đông Hán sai danh tướng Mã Viện đem quân đánh. Quân Mã Viện là quân thiện chiến, trong khi quân ta chỉ mới nhóm lên, nhưng nhờ dũng cảm, quân ta đã thắng được một số trận đầu. Quân địch phải rút về và đóng quân ở vùng Lãng Bạc (gần Hồ Tây ở Hà Nội thời đó). Sau đó, Mã Viện được bổ sung binh lực và sử dụng mưu lừa để đánh quân ta khi chúng tiến lên. Hai Bà thất bại nên rút quân về giữ Mê Linh.
Mùa thu năm 43, Mã Viện đem quân bao vây Mê Linh. Quân ta ít người, tình hình bất lợi. Hai Bà phải chạy trốn và bị quân Mã Viện truy đuổi. Hai Bà nhảy xuống sông Hát (gần sông Đáy đổ vào sông Hồng Hà) để tránh rơi vào tay kẻ thù. Mặc dù thời gian làm vua của Hai Bà Trưng không lâu, nhưng vì họ là hai nữ anh hùng cứu nước đầu tiên của dân tộc, nên hậu thế luôn tôn vinh và kính trọng.
Ngày nay, ở làng Hát Môn, thuộc huyện Phúc Thọ, tỉnh Sơn Tây và làng Đồng Nhân gần Hà Nội, có đền thờ Hai Bà. Hằng năm vào ngày mồng sáu tháng hai âm lịch là ngày hội để tưởng nhớ hai nữ anh hùng.
Kể một câu chuyện về một anh hùng hoặc danh nhân của Việt Nam mà em đã nghe hoặc đọc - Trần Quốc Toản
Trong giờ sinh hoạt lớp tuần trước, cô em đã kể cho chúng tôi nghe rất nhiều câu chuyện về những vị anh hùng và danh nhân của dân tộc. Trong số đó, câu chuyện về Trần Quốc Toản là cái mà em thích nhất.
Trần Quốc Toản là một quý tộc nhà Trần, sống trong thời vua Trần Nhân Tông. Ông đã có công trong cuộc kháng chiến chống lại quân Mông - Nguyên xâm lược lần thứ hai. Ai trong chúng ta cũng biết câu chuyện về việc ông 'Bóp nát quả cam'. Lúc đó, Trần Quốc Toản chỉ là một thiếu niên nhưng khi thấy giặc Nguyên cho sứ giả mượn đường xâm lược nước ta, ông căm tức lắm.
Một sáng, Trần Quốc Toản nghe tin vua triệu họp để thảo luận về công việc quốc gia dưới thuyền Rồng. Dù đã đợi từ sáng đến trưa nhưng vẫn không gặp được vua Trần Nhân Tông, Trần Quốc Toản quyết định liều mạng xô lên thuyền Rồng. Lính gác cố gắng ngăn lại nhưng Trần Quốc Toản mặt đỏ bừng rút gươm và nói lớn:
- Ta xuống đây xin bệ kiến vua, không ai được ngăn cản!
Lúc đó, cuộc họp dưới thuyền tạm nghỉ, vua và các quan lại bước ra ngoài mui thuyền. Trần Quốc Toản chạy đến, quỳ gối và nói:
- Nếu cho giặc mượn đường thì đất nước sẽ mất, xin vua cho phép đánh!
Sau đó, Trần Quốc Toản tự đặt gươm lên cổ, sẵn lòng chịu trừng phạt. Vua ra lệnh cho ông đứng dậy và nói:
- Trần Quốc Toản đã phạm pháp làm trái quy định của nước, phải bị trừng phạt. Nhưng tôi nhận thấy rằng ngươi vẫn còn trẻ và có lòng yêu nước, tôi muốn khen ngợi ngươi.
Sau đó, vua ban cho Trần Quốc Toản một quả cam. Ông nhận lời cảm ơn và rời đi, nhưng trong lòng vẫn còn nỗi uất hận vì bị coi thường bởi vua. Nghĩ đến việc kẻ thù đang đe dọa dân tộc, ông nghiến răng, siết chặt hai bàn tay. Khi ra về, mọi người hỏi thăm, Trần Quốc Toản cho họ xem quả cam vua ban đã nát từ lâu. Sau đó, ông quay về và huy động người dân chuẩn bị cho trận chiến.
Thông qua câu chuyện trên, chúng ta thấy được tinh thần yêu nước của Trần Quốc Toản. Ông đã không ngần ngại vi phạm quy định để có thể nói chuyện với vua về việc quốc gia. Mặc dù Trần Quốc Toản khi đó còn rất trẻ nhưng đã có tinh thần yêu nước, kỳ thị kẻ thù. Điều này là một phẩm chất rất đáng quý ở con người ông.
Tôi rất hâm mộ câu chuyện này vì nó ca tụng anh hùng trẻ Trần Quốc Toản cùng lòng yêu nước, lòng nhân ái của ông. Câu chuyện cũng giáo dục chúng ta về tình yêu quê hương đất nước.
Kể một câu chuyện mà tôi đã nghe hoặc đã đọc về một anh hùng, một danh nhân của nước ta - Nguyễn Thị Chiên
Việt Nam là quê hương của nhiều anh hùng, trong số đó, có rất nhiều nữ anh hùng xuất sắc. Trong số đó, người mà tôi ấn tượng nhất chính là bà Nguyễn Thị Chiên.
Bà Nguyễn Thị Chiên sinh năm 1930 tại huyện Kiến Xương, tỉnh Thái Bình. Trong phong trào kháng chiến chống Pháp, bà vừa là người phụ nữ duy nhất giữ chức vụ bí thư, vừa là chỉ huy một trung đội du kích ở xã. Năm 1950, bà đã tiêu diệt một tiểu đội địch bằng mìn trên đường 39. Sau đó, bà bị bắt và tra tấn dã man nhưng vẫn không chịu khai. Cuối cùng, giặc buộc phải thả bà ra. Sau khi được thả, bà trở về quê và được giao nhiệm vụ trong đội du kích.
Năm 1951, bằng mưu bắt, bà đã thu được bảy khẩu súng bắt một tiểu đội địch ngay giữa chợ. Sau đó, bằng mưu bắt, bà còn bắt được một sĩ quan Pháp chỉ huy trong một trận càn quét của chúng ở xã. Năm 1952, trong Đại hội anh hùng chiến sĩ thi đua toàn quốc lần thứ nhất, bà được tặng Huân chương Kháng chiến hạng Nhất, huân chương Quân công hạng Ba và được tuyên dương Anh hùng lực lượng vũ trang.
Bà Nguyễn Thị Chiên là một nữ anh hùng được kính trọng. Điều này khiến tôi và rất nhiều người khác ngưỡng mộ. Tôi sẽ noi theo bà, học tập, rèn luyện hết sức mình để đóng góp cho đất nước.
Kể một câu chuyện mà tôi đã nghe hoặc đã đọc về một anh hùng, một danh nhân của nước ta - Quang Trung
Khi nhắc đến Hoàng đế Quang Trung, người ta thường nghĩ đến một vị vua bách chiến bách thắng, mưu trí dũng lược vô song với những chiến công oai hùng, với nghệ thuật quân sự thần tốc… Tuy nhiên, cũng giống như các vị “thiên tử” khác, xung quanh vị hoàng đế này có nhiều giai thoại huyền ảo, lạ lùng. Câu chuyện “Chữ hiện trên lá cây làm điềm báo” mà tôi nghe đã ghi lại trong tâm trí tôi nhiều ấn tượng khó phai. Thời anh em Nguyễn Nhạc, Nguyễn Huệ, Nguyễn Lữ mới khởi nghĩa, bỗng người dân khắp vùng đất Tây Sơn khi vào rừng kiếm củi, săn bắt thì thấy một chuyện lạ, trên các lá cây rừng lớn hiện ra nhiều chữ. Những người có học đọc được thành câu: “Nguyễn Nhạc vi vương, Nguyễn Huệ vi tướng” (Nghĩa là: Nguyễn Nhạc làm vua, Nguyễn Huệ làm tướng), ai cũng cho là điềm lạ trời báo sự xuất hiện chân chúa cứu dân. Chuyện lạ đó nhanh chóng được lan truyền, dân chúng khắp vùng Tây Sơn thượng đạo, Tây Sơn hạ đạo cho đến các nơi khác rủ nhau nô nức đi theo anh em họ Nguyễn. Thực ra đây là một mẹo của Nguyễn Huệ, để thu hút quần chúng và lấy uy tín dựa trên những điềm báo thần kỳ mà người đương thời tin tưởng, ông đã lập kế học theo cách của vua Lê Thái Tổ khi xưa, bí mật sai người dùng mỡ viết chữ lên lá rừng, kiến ăn mỡ đục lá thành điềm trời báo để quần chúng kính phục. Chính vì thế ngày nay ở vùng Tây Sơn, Bình Định vẫn lưu truyền câu ca:
“Nguyễn Nhạc vi vương,
Nguyễn Huệ vi tướng”
Kiến đục lá rừng
Trời trưng gươm báu…”.
Đây là một cách thu phục lòng dân rất đặc biệt, lá sau khi bị kiến đục thành chữ rơi xuống, theo dòng suối chảy về phía dưới làm điềm trời báo cho dân. Nguyễn Huệ còn yêu cầu người thân tín dùng dao vạt các thân cây cổ thụ rồi khắc trên đó 8 chữ này cũng như để làm điềm trời báo về sứ mệnh hoàng đế của anh em nhà Tây Sơn. Vì thế cũng có câu rằng:
“Ai vào rừng cấm
Thấy tấm biển ghi:
“Nguyễn Nhạc làm vua,
Nguyễn Huệ làm tướng”
Đồn đại khắp nơi
Tây Sơn nổi lên kháng chiến”
Câu chuyện đơn giản nhưng hấp dẫn không chỉ giúp tôi có thêm kiến thức mà còn tôn trọng trí tuệ và sự thông minh của vua Quang Trung - người đã dẫn dắt quân và dân ta đánh bại 29 vạn quân Thanh.