Cecilia Payne-Gaposchkin đã được vinh danh là Nhà Thiên văn học vào năm 1938; nhưng cho đến năm 1956, bà mới trở thành nữ giáo sư đầu tiên tại Đại học Harvard, điều mà không phụ nữ nào làm được trước đó.
Trong một khoảng thời gian dài, nhiều nhà khoa học đã hiểu sai về thành phần của Mặt Trời, cho đến khi một nghiên cứu sinh 25 tuổi viết luận án tiến sĩ và chứng minh được rằng Mặt Trời và các ngôi sao khác chủ yếu được cấu tạo từ heli và hydro.
Cecilia Payne-Gaposchkin là người nghiên cứu sinh phát hiện ra điều này. Tuy nhiên, chỉ một số ít người biết rằng cô ấy là người chịu trách nhiệm cho khám phá quan trọng này, bởi vì khái niệm bình đẳng giới không tồn tại vào thời điểm đó.
Được biết đến là một trong những nhà thiên văn học nữ vĩ đại nhất trong lịch sử, nhưng vì sự phân biệt giới tính, danh tính và những đóng góp của bà ít được công nhận.
Jeremy Knowles, người đứng đầu Khoa Nghệ thuật và Khoa học tại Harvard, đã nói vào năm 2002:
'Người phụ nữ đã khám phá ra cấu trúc của vũ trụ không nhận được bất kỳ sự công nhận nào kể từ khi bà qua đời vào năm 1979.'
Mọi học sinh đều biết Newton phát hiện ra định luật về lực hấp dẫn, Darwin phát triển thuyết tiến hóa, Einstein đề xuất thuyết tương đối. Nhưng khi nói đến thành phần của vũ trụ, sách giáo khoa chỉ đơn giản nói rằng nguyên tố phổ biến nhất trong vũ trụ là hydro, và không ai thắc mắc làm thế nào chúng ta biết được điều đó trong danh mục khóa học; người phụ nữ đó cũng không có tư cách cố vấn cho nghiên cứu sinh của khoa thiên văn học; cô ấy không có thời gian nghỉ hè, và đồng lương ít ỏi của cô ấy chỉ là những 'thiết bị' nghiên cứu, điều này ám chỉ rằng người phụ nữ đó không được thừa nhận tại khoa. Nhưng cô ấy vẫn kiên trì và phát triển sự nghiệp của mình.
Cecilia Payne-Gaposchkin sinh ra ở Wendor, Anh vào năm 1900. Cecilia Payne-Gaposchkin ban đầu có tên là Cecilia Helena Payne và sau đó thay đổi tên sau khi kết hôn với Sergi Gaposchkin.
Khi còn 12 tuổi, Cecily đã học tiếng Pháp và tiếng Đức, hiểu biết cơ bản về tiếng Latin và hiểu biết sâu sắc về toán học.
Từ khi còn rất nhỏ, cô ấy đã mơ ước trở thành một nhà khoa học và đã làm việc chăm chỉ để đạt được mục tiêu của mình.
Trong một khoảng thời gian dài, nhiều nhà khoa học đã hiểu sai về cấu tạo của Mặt Trời cho tới khi luận án tiến sĩ xuất sắc của một phụ nữ nghiên cứu sinh 25 tuổi đã chứng minh rằng Mặt Trời và các ngôi sao khác được tạo thành chủ yếu từ heli và hydro.
Năm 1919, bà được trao Học bổng Khoa học Tự nhiên cho Đại học Newnham, Cambridge. Mặc dù Cecilia đã hoàn thành xuất sắc việc học của mình, nhưng bà không được cấp bằng vì Đại học Cambridge không cấp bằng cho phụ nữ cho đến năm 1948.
Cecilia nhận ra rằng có rất ít cơ hội dành cho phụ nữ trong ngành khoa học ở Anh và lựa chọn duy nhất lúc đó là trở thành một giáo viên. Tuy nhiên, sau khi được giới thiệu với Harlow Shapley, giám đốc Đài thiên văn Đại học Harvard, bà quyết định theo đuổi sự nghiệp khoa học thiên văn và chuyển đến Hoa Kỳ.
Giáo sư trước đây của bà, Arthur Eddington, đã viết: 'Cô ấy có kiến thức vô cùng rộng lớn về khoa học vật lý, bao gồm cả thiên văn học, và luôn mang lại nguồn năng lượng và sự nhiệt tình không giới hạn cho công việc của mình. Tôi tin rằng cô ấy là một tấm gương sáng cho sự cống hiến đời đời của mình cho thiên văn học'.
Năm 1923, bà trở thành nghiên cứu sinh Quốc gia tại Đại học Harvard ở Cambridge, Massachusetts. Từ năm 1925 đến năm 1927, Cecilia được bổ nhiệm làm trợ lý kỹ thuật cho Harlow Shapley, mặc dù lúc đó mức lương rất thấp và không xứng đáng với trình độ và thành tích của Cecilia. Tuy nhiên, ít ra Cecilia cũng có một nơi ở và có thể tiếp tục nghiên cứu của mình.
Năm 1925, Cecilia xuất bản báo cáo liên quan đến luận án của mình. Nhà thiên văn Otto Struve tại thời điểm đó gọi luận án này là 'đáng chú ý nhất trong tất cả các luận án tiến sĩ về thiên văn học'.
Luận án tiến sĩ xuất sắc của Cecilia cho rằng các ngôi sao chủ yếu được tạo thành từ heli và hydro, tuy nhiên khẳng định này đã gặp phải nghi ngờ.
Khi luận án tiến sĩ của Cecilia đang được xem xét, nhà thiên văn Henry Norris Russell đã thuyết phục Cecilia không nên tự trình bày luận án của mình, mà thay vào đó nên xuất bản nó vào năm 1930 dưới tên ông. Nghiên cứu dài 200 trang của bà đã bị lãng quên và bị chiếm đoạt công lao.
Đáng tiếc, đây không phải là lần đầu tiên bà không muốn công bố những khám phá của mình.
Hiệu ứng Stark được phát hiện trong quang phổ của các ngôi sao nóng nhất, nhưng cả Russell và Shapley đều nghi ngờ và không muốn Cecilia công bố điều đó. Cecilia cũng bị ngăn cản xuất bản các bài báo về những phát hiện của mình về lực hút giữa các vì sao.
Tuy nhiên, cả hai phát hiện đều đã được công bố bởi những người khác nhiều năm sau đó.
Cuối cùng, sau nhiều năm, Cecilia đã được đề xuất một vị trí phù hợp hơn với đóng góp của bà.
Cecilia được vinh danh là Nhà thiên văn học vào năm 1938; nhưng cho đến năm 1956, bà mới trở thành nữ giáo sư đầu tiên tại Đại học Harvard, người phụ nữ đầu tiên làm được điều này. Bà cũng trở thành người phụ nữ đầu tiên giữ chức chủ tịch Khoa Thiên văn học tại Đại học Harvard vào năm 1956.
Bà về hưu vào năm 1965 và trở thành giáo sư danh dự tại Đại học Harvard vào năm sau. Cecilia tiếp tục làm việc sau khi nghỉ hưu, làm việc tại Đài thiên văn Smithsonian từ năm 1967 cho đến khi qua đời vào năm 1979.
Bất kể sự phân biệt giới tính mà bà đã phải đối mặt, Cecilia vẫn kiên trì và mở đường cho những phụ nữ khác theo đuổi sự nghiệp khoa học. Ngày nay, bà được công nhận là nhà thiên văn học nữ vĩ đại nhất trong lịch sử.
Khi được trao Giải thưởng Henry Norris Russell của Hiệp hội Thiên văn học Hoa Kỳ, Cecilia đã chia sẻ về niềm đam mê với nghiên cứu suốt đời của mình: 'Điều phấn khích nhất với một nhà khoa học trẻ là trở thành người đầu tiên trong lịch sử chứng kiến hoặc phát hiện ra điều gì đó'.