Ở vùng Tây Bắc, tôi đã gặp một người Thái tên là Bạc Kỳ Sinh. Tình cờ, tôi và Bạc Kỳ Sinh quen biết nhau. Câu chuyện xảy ra như sau: Hôm đó, tôi đang đi chợ Mường La. Chợ Mường La nằm ngay ven đường trên dãy núi. Chợ này rất sôi động, đầy màu sắc đến nỗi khó phân biệt được hàng thật và hàng giả. Các cô gái Thái, Xá ngồi bày bán các loại trái cây như đào, mận, mắc cơm... thu hoạch từ núi.
Các gian hàng bày bán vải hoa, phích nước, xoong nồi... nhập từ Trung Quốc được sắp xếp gọn gàng. Các người đàn ông, phụ nữ H'mông dắt theo những con ngựa, mang theo những gói hàng chứa những loại thảo dược như nhân sâm, đẳng sâm, ba kích... cũng có cả những gói gạo nếp đặc biệt, màu hồng như nhuộm, thơm và dẻo.
Chợ Mường La mở cửa từ sáng sớm, khi màn sương dày đặc vẫn còn phủ lên khắp nơi, làm cho người đi chợ có cảm giác như trong một giấc mơ, chỉ cách đường chợ một tay vẫn không thể nhìn rõ gì. Sương mù ở rừng núi cao khác với sương mù ở vùng đồng bằng: nó dày đặc như một lớp sữa sệt mịn màng, bao phủ bí ẩn và rộng lớn, không gây ra sự sợ hãi, nó chỉ là hơi ẩm từ núi tản ra và sau đó lại tụ lại; không phải là hơi nước, bụi hay mưa phùn mà chúng ta thường gọi là sương ở đồng bằng.
Gần giữa trưa, khi sương mù tan biến, chợ trở nên sôi động hơn bao giờ hết. Người H'mông đứng quây quần xung quanh nồi rượu, uống rượu, thổi sáo. Người Thái, người Xá cũng tham gia uống rượu và thổi sáo. Người La Hủ thổi sáo lá. Các cô gái Thái, Xá, Dao tụ tập lại hát đối, hát ghẹo, hát giao duyên với các chàng trai. Một vài người còn bắn pháo lên trời, khiến đám đông xung quanh chạy tán loạn như một đàn ong bị phá tổ.
Khi tôi đến chợ, không có ý định mua bán gì cả. Tôi không phải là người duy nhất như vậy. Chợ ở vùng núi là nơi gặp gỡ, giao tiếp, cũng như một lễ hội nhỏ, là nơi để thư giãn, thoát khỏi cuộc sống hàng ngày. Tôi dạo dọc phố chợ, đi hết và quay lại. Giữa chợ có một ông lão người Hoa đang ngồi xem bói. Trước mặt ông có một cái đa và ba viên xúc sắc. Người xem bói đặt tiền rồi tung ba viên xúc sắc vào trong cái đa, gọi là “giải quẻ”. Ông lão dựa vào tổng điểm của ba viên xúc sắc để nói về số mệnh của họ. Mọi người đều ngạc nhiên, kính phục và sợ hãi. Mọi thứ đều thật sự và đáng tin cậy. Có điều gì đó vừa huyền bí, vừa đáng sợ, và cũng vừa hài hước lơ đãng đang tồn tại ở trong đám đông. Tôi cảm thấy hồi hộp, muốn thử sức vận may. Nhưng ngay lúc đó, có một người nắm chặt tay tôi. Tôi quay lại, thì thấy một người đàn ông Thái mặc trang phục dân tộc, đội mũ rộng, khuôn mặt chân thành, nói tiếng Kinh lưu loát và nhấn mạnh:
– Đừng tin vào những lời dối trá đó! Mời ông xem điều này!
Hắn giơ trước mặt tôi một vật đen đen, phát ra khói bốc mù mịt, bẩn thỉu và thối mùi không chịu nổi, giống như một miếng mề gà khô cứng:
Đây là mật gấu thật 100%. Tôi bắn được con gấu này tại Xốp Cộp. Nặng 137 cân. Tôi để giá rẻ cho ông…
Tôi chỉ cười lắc đầu. Tôi đã biết cách làm giả mật gấu bằng mật lợn như thế nào. Tôi cũng biết cách họ dùng xilanh để rút mật gấu thật ra, rồi bơm nước lã vào sao cho đầy. Hắn Thái nói vài câu, rồi tỏ ra thất vọng. Hắn giơ hai tay lên trời, than phiền vài câu bằng tiếng Thái rồi bỏ đi. Tôi quay lại chỗ cũ, nhận ra chiếc đồng hồ đã biến mất từ khi nào. Tôi vừa tức giận vừa bực mình. Đó là vì lúc ấy tôi còn trẻ! Cảm giác bị người khác lừa gạt, bị hốt, bị đánh lừa chỉ vì mình luôn tin vào sự thật khiến tôi mất hết bình tĩnh. Với một giáo viên như tôi, chiếc đồng hồ khi ấy với tôi là một vật quý, một tài sản, một điều không thể thiếu, dù nó luôn chạy sai giờ.
Tôi đi qua chợ, tìm gã bán mật gấu, tôi định sẽ cho hắn một bài học đáng nhớ. Bỗng tôi thấy một cô gái Thái dắt một con ngựa tiến lại gần tôi.
Cô gái Thái trẻ trung, xinh đẹp, đôi mắt sâu thẳm, hoang dại và sáng sủa có sự sâu sắc. Đằng sau cô gái là hai ông già ôm hai con gà chọi.
Cô gái chào tôi:
– Xin chào… Thưa ông, em có thể nhờ ông giữ hộ con ngựa một chút được không?
Tôi bối rối, không biết phải trả lời như thế nào thì cô gái đã đưa tay cầm ngựa cho tôi. Cô gái nói: ông đứng ở đây, chỉ một lát thôi là em quay lại…
Cô gái cười, nụ cười đầy hứa hẹn rồi rời đi. Hai ông già theo cô gái ngồi xuống lòng đường rồi thả gà ra. Liền, hai con gà lao vào đánh nhau, nổi bụi mù mịt. Đám đông xung quanh tụ lại tạo thành vòng tròn, hỗn loạn, phấn khích đến không ngờ.
Có tiếng la hét xô ra, sau đó một chiếc xe 'com' đi tới. Trên xe có mấy cảnh sát đưa một người tù bị còng số 8 trên tay. Xe phải dừng vì đám gà chọi cản đường. Mấy cảnh sát xuống xe, đám đông quanh họ ồn ào, bụi bặm tung trời. Một tổ ong vàng xuất hiện bất ngờ, vỡ tung trên đầu đám đông. Mọi người kinh ngạc chạy trốn, va vào nhau. Tôi chưa kịp nhận ra đã thấy cô gái Thái xuất hiện giữa tất cả, giương tay cầm ngựa. Người tù trên xe nhảy lên ngựa. Tôi chỉ nhìn thấy anh ta tóc dài, mặc quần áo chàm xanh. Cô gái Thái nhảy lên sau và họ liền phi ngựa chạy về phía rừng Tạ Bú, bên bờ sông Đà.
Tôi bị đưa vào đồn cảnh sát. Họ xem tôi là nghi phạm trong vụ cướp tù, sau đó chứng cớ không đủ nên tôi được chuyển sang làm nhân chứng. Tôi phải ký vào một tờ khai rối rắm. Tôi được biết người tù đó là một kẻ không trung thành, một người sống ngoài luật pháp xã hội. Tên hắn là Bạc Kỳ Sinh.