Mùa ôn đới | |
---|---|
Buổi sáng mùa hạ ở Thụy Sỹ | |
Vùng ôn đới phía bắc | |
Mùa thiên văn | 21 tháng 6 - 23 tháng 9 |
Mùa khí tượng | 1 tháng 6 - 31 tháng 8 |
Mùa mặt trời | 1 tháng 5 - 31 tháng 7 |
Vùng ôn đới phía nam | |
Mùa thiên văn | 22 tháng 12 - 21 tháng 3 |
Mùa khí tượng | 1 tháng 12 - 28/29 tháng 2 |
Mùa mặt trời | 1 tháng 11 - 31 tháng 1 |
Hạ Xuân Thu Đông |
Mùa hè hay mùa hạ (âm Nôm cho chữ Hạ, Tiếng Anh: summer) là một trong bốn mùa thường được công nhận ở các vùng ôn đới và cận cực. Mùa hạ là mùa nóng nhất trong năm và thời điểm nó diễn ra rơi vào khoảng sau mùa xuân và trước mùa thu, thường bắt đầu từ tháng sáu đến tháng tám ở Bắc Bán Cầu và từ tháng mười hai đến tháng hai ở Nam Bán Cầu (Tức là khi ở Bắc Bán Cầu đang là mùa hè thì ở Nam Bán Cầu sẽ là mùa đông và ngược lại) Vào ngày hạ chí, ngày là dài nhất còn đêm thì ngắn nhất, và kể từ sau ngày hạ chí trở đi quãng thời gian ban ngày bắt đầu giảm dần. Điểm khởi đầu của mùa hè là khác nhau phụ thuộc vào khí hậu, truyền thống và văn hóa của từng quốc gia trên thế giới.
Hai mươi tư tiết khí Kỷ nguyên J2000 | ||
Kinh độ | Tiết khí | Dương lịch (thông thường) |
---|---|---|
Xuân | ||
315° | Lập xuân | 4 - 5/2 |
330° | Vũ thủy | 18 - 19/2 |
345° | Kinh trập | 5 - 6/3 |
0° | Xuân phân | 20 - 21/3 |
15° | Thanh minh | 4 - 5/4 |
30° | Cốc vũ | 20 - 21/4 |
Hạ | ||
45° | Lập hạ | 5 - 6/5 |
60° | Tiểu mãn | 21 - 22/5 |
75° | Mang chủng | 5 - 6/6 |
90° | Hạ chí | 21 - 22/6 |
105° | Tiểu thử | 7 - 8/7 |
120° | Đại thử | 22 - 23/7 |
Thu | ||
135° | Lập thu | 7 - 8/8 |
150° | Xử thử | 23 - 24/8 |
165° | Bạch lộ | 7 - 8/9 |
180° | Thu phân | 23 - 24/9 |
195° | Hàn lộ | 8 - 9/10 |
210° | Sương giáng | 23 - 24/10 |
Đông | ||
225° | Lập đông | 7 - 8/11 |
240° | Tiểu tuyết | 22 - 23/11 |
255° | Đại tuyết | 7 - 8/12 |
270° | Đông chí | 21 - 22/12 |
285° | Tiểu hàn | 5 - 6/1 |
300° | Đại hàn | 20 - 21/1 |
Từ nguyên
Hạ có nguồn gốc từ chữ Hán: 夏.
Trên Trái Đất
Trên Trái Đất, mùa hạ được định nghĩa trong khí tượng học là các tháng Sáu, Bảy và Tám ở Bắc bán cầu và các tháng Mười Hai, Một và Hai ở Nam bán cầu. Ở một số nước phương Tây, ngày đầu tiên của mùa hạ (ở Bắc bán cầu) rơi vào khoảng ngày 21 tháng 6 (hạ chí) hoặc ngày 1 tháng 6 (theo khí tượng học). Theo lịch Trung Quốc cổ đại, mùa hạ bắt đầu vào ngày 6 tháng 5, với tiết khí gọi là 立夏 (lập hạ), tức 'ngày bắt đầu mùa hè' và kết thúc khi tiết đại thử vào ngày 6 hoặc 7 tháng 8 dương lịch.
Mùa hạ được xem như mùa có ngày dài và nóng nhất trong năm, với ánh sáng ban ngày chiếm ưu thế, tuy nhiên điều này thay đổi theo vĩ độ. Ở các vùng cao, thời gian chạng vạng chỉ kéo dài vài giờ, và càng cao vĩ độ thì thời gian này càng ngắn (nếu so sánh cùng một thời điểm trong mùa hạ). Thỉnh thoảng, các ngày gần ngày hạ chí có thể tạo ra các đêm trắng nổi tiếng như ở St. Petersburg và Scandinavia.
Nhiều người còn gọi mùa hạ là 'Mặt Trời giữa đêm' ở Bắc cực và Iceland.
Đối với nhiều người ở phương Tây, mùa được xác định bắt đầu và kết thúc dựa trên các điểm chí và phân theo nghĩa 'thiên văn học'. Tuy nhiên, do hiện tượng trễ mùa, thời điểm bắt đầu của mùa 'khí tượng học' đến sớm hơn, khoảng 3 tuần so với mùa 'thiên văn'. Sự chênh lệch về thời gian này khiến định nghĩa 'khí tượng học' phân chia mùa xung quanh thời điểm ấm nhất/lạnh nhất trong năm hơn so với mùa 'thiên văn'. Ngày nay, định nghĩa 'khí tượng học' là phổ biến nhất, mặc dù trong quá khứ, định nghĩa 'thiên văn' được sử dụng nhiều hơn và vẫn còn một số người thích sử dụng nó. Ngoài ra, các điểm phân và chí cũng được xem như là điểm chia cắt giữa các mùa, chứ không phải là điểm bắt đầu, ví dụ trong thiên văn học của người Trung Quốc và các nước khác có ảnh hưởng, mùa hạ bắt đầu vào khoảng ngày 6 tháng 5, với tiết khí có tên là 立夏 (lập hạ), tức 'ngày bắt đầu mùa hè'.
Trong phần lớn các quốc gia, trẻ em được nghỉ hè trong khoảng thời gian này của năm, mặc dù ngày có thể khác nhau. Một số bắt đầu vào đầu tháng Sáu, nhưng tại Anh, trẻ em từ 5-16 tuổi chỉ được nghỉ hè từ giữa tháng Bảy.
Mùa hè cũng là thời điểm mà nhiều loại hoa quả, rau củ và cây cối khác phát triển mạnh mẽ nhất.
Mùa hè ở một số nước
Mùa hè ở Việt Nam là thời điểm học sinh được nghỉ học. Tại các trường tiểu học, trung học cơ sở và trung học phổ thông, học sinh được nghỉ học từ cuối tháng 5 và bắt đầu học lại vào đầu tháng 9. Các trường đại học thường có lịch nghỉ học và bắt đầu năm học sớm hơn. Đối với học sinh, mùa hè thường gắn liền với hình ảnh của cây phượng và tiếng ve, cũng như là mùa của lễ tốt nghiệp của các lứa học sinh. Trong nông nghiệp, mùa này cũng là thời điểm thu hoạch lúa chiêm xuân. Với những người thích du lịch, đây là mùa lý tưởng để đi tắm biển hoặc nghỉ mát ở các vùng núi cao để tránh cái nắng nóng.
Trong ngành công nghiệp điện ảnh Hoa Kỳ, mùa hạ còn được biết đến với cái tên 'mùa của bom tấn'. Đây là thời điểm sôi động với các cuộc cạnh tranh và mang lại doanh thu cao nhất trong năm, với nhiều bộ phim đầu tư lớn (thường là phim hành động và khoa học viễn tưởng) được ra mắt. Do đó, mùa hạ thường được công nhận là mùa của những bộ phim thành công nhất và cũng là mùa của nhiều thất bại trong ngành điện ảnh. 'Mùa phim hè' kéo dài từ tuần đầu tiên của tháng Năm cho đến đầu tháng Chín, tính đến cuối tuần nghỉ của Lễ Quốc lao tại Bắc Mỹ (1 tháng 9 thay vì 1 tháng 5 như trên toàn thế giới).
Trên các hành tinh
Các hành tinh có trục xoay không vuông góc với mặt phẳng quỹ đạo đều có mùa, bao gồm cả mùa hạ. Mùa hạ trên bắc bán cầu bắt đầu khi hành tinh đạt đến điểm hạ chí (Ls = 90°) trên quỹ đạo và kết thúc khi nó đạt đến điểm thu phân (Ls = 180°). Mùa hạ trên bắc bán cầu xảy ra đồng thời với mùa đông ở nam bán cầu và ngược lại.
Thời gian áp dụng giờ mùa hè
Giờ mùa hè, hay còn gọi là Daylight Saving Time (DST), là thực tiễn điều chỉnh đồng hồ bổ sung thêm một khoảng thời gian (thường là 1 giờ) so với giờ chuẩn, áp dụng tại một số địa phương của một số quốc gia trong một giai đoạn nhất định (thường là vào mùa hè) trong năm.
Thực tiễn này thường được áp dụng ở các nước ôn đới hoặc gần cực, nơi mà vào mùa hè, ban ngày bắt đầu sớm hơn so với mùa đông vài tiếng đồng hồ.
Hạ và hè trong tiếng Việt
Trong tiếng Việt, hai từ 'mùa hè' và 'mùa hạ' (thường dùng nhiều hơn trong miền nam) được sử dụng để chỉ mùa này, nhưng hiện nay từ 'mùa hè' có vẻ được sử dụng phổ biến hơn. Tuy nhiên, hai từ 'hạ' và 'hè' khi nói về các vấn đề liên quan đến mùa này không phải lúc nào cũng tương đương nhau. Ví dụ, người ta nói 'hạ chí'/'hạ chí tuyến' mà không nói 'hè chí'/'hè chí tuyến', nói 'lập hạ' mà không nói 'lập hè', hay nói 'nghỉ hè' mà không nói 'nghỉ hạ'.
- Sự nghiêng trục Trái Đất
- Quy ước giờ mùa hè
- Nghỉ hè
Liên kết ngoài
- 'Mùa hạ của động và thực vật ở Phần Lan' Lưu trữ 2005-11-18 tại Wayback Machine của 'Northern Nature Project' (tiếng Anh)
Mùa trong năm | |
---|---|
Ôn đới |
|
Nhiệt đới |
|
Riêng biệt |
|