
Không có quốc gia nào thất bại ngay trong một đêm. Các nguyên nhân gây ra sự suy tàn thường nằm sâu trong cấu trúc chính trị của những quốc gia này.
Daron Acemoglu và James A. Robinson
Một số quốc gia đã trải qua sự thất bại một cách thảm hại, như việc thất bại hoàn toàn của mọi cơ cấu chính trị tại Afghanistan sau khi quân đội Xô Viết rút lui và treo cổ tổng thống Mohammad Najibulla lên cột đèn, hoặc trong cuộc nội chiến kéo dài hàng thập kỷ tại Sierra Leone, nơi chính phủ hoàn toàn chấm dứt tồn tại.
Tuy nhiên, sự suy thoái ở hầu hết các quốc gia khác đã không xảy ra đột ngột mà là dần dần, âm thầm. Những quốc gia này không thất bại vì chiến tranh và bạo lực mà vì họ không thể khai thác được tiềm năng tăng trưởng lớn của xã hội, buộc công dân sống trong nghèo đói suốt đời. Kiểu thất bại này đã khiến các quốc gia Châu Phi dưới Sahara, Châu Á và Mỹ Latin có mức sống thấp hơn rất nhiều so với phương Tây.
Điều đáng sợ là thất bại này là kết quả của một kế hoạch. Những quốc gia này sụp đổ vì chúng được cai trị bởi các thể chế kinh tế mà chúng ta gọi là 'bòn rút'. Những thể chế này làm chết chất lượng, ngăn cản sự đổi mới và làm suy thoái tài năng của nhân dân bằng cách tạo ra các cơ hội không công bằng và cướp đoạt cơ hội của họ. Thực tế, những thể chế này tồn tại không phải vì sơ xuất mà vì mục đích. Chúng tồn tại vì lợi ích của tầng lớp tinh hoa, những người hưởng lợi lớn từ sự bòn rút - có thể là từ tài nguyên quý hiếm, lao động bắt buộc hoặc các đặc quyền được bảo vệ - và toàn bộ xã hội phải trả giá. Tất nhiên, những tầng lớp tinh hoa này cũng hưởng lợi từ những thể chế chính trị gian trá, dùng quyền lực của họ để thúc đẩy hệ thống về hướng có lợi cho họ.
Tuy nhiên, các chính phủ dựa trên sự bóc lột sẽ không tránh khỏi sự suy tàn, kéo theo sự sụp đổ của toàn bộ hệ thống thối nát và thường dẫn đến cảnh đau khổ vô tận. Mỗi năm, Chỉ số Thất bại Quốc gia đưa ra số liệu kinh khủng của những quốc gia sụp đổ. Dưới đây là hướng dẫn của chúng tôi về 10 con đường mà sự suy tàn diễn ra.
1. Bắc Triều Tiên: Thất quyền sở hữu
Các thể chế kinh tế của Bắc Triều Tiên làm cho người dân gần như không thể sở hữu bất cứ thứ gì; tất cả đều thuộc sở hữu của nhà nước, kể cả đất đai và vốn. Nông nghiệp được tổ chức thông qua các trang trại tập thể. Mọi người làm việc cho Đảng Lao động Triều Tiên thay vì cho họ. Điều đó giết chết động lực để họ thành công.
Bắc Triều Tiên có thể trở nên giàu có hơn rất nhiều. Năm 1998, một đoàn kiểm tra của Liên Hợp Quốc phát hiện ra rằng nhiều máy cày, xe tải và thiết bị nông nghiệp khác của quốc gia này chỉ đơn giản là không được sử dụng hoặc bảo dưỡng. Kể từ những năm 1980, người nông dân được phép sở hữu các miếng đất nhỏ và bán những gì họ trồng. Tuy nhiên, điều này cũng không tạo ra nhiều động lực vì sự thiếu vắng quyền sở hữu rộng rãi. Năm 2009, chính phủ tiến hành đổi tiền và chỉ cho phép mỗi người dân đổi từ 100.000 đến 150.000 won [2] tiền cũ sang tiền mới (tương đương khoảng 30, 40 đô la Mỹ theo giá chợ đen). Những người đã làm việc và tích luỹ tiền bằng tiền cũ nhìn thấy số tiền tiết kiệm của họ trở nên vô giá trị.
Bắc Triều Tiên không chỉ thất bại về tăng trưởng kinh tế - trong khi Nam Triều Tiên tăng trưởng nhanh chóng - mà cả dân số của họ cũng thất bại trong việc trở nên giàu có hơn. Bị mắc kẹt trong vòng xoay này, Bắc Triều Tiên không chỉ nghèo hơn rất nhiều so với Nam Triều Tiên, mà họ cũng thấp hơn (trung bình có thể đến 7,6 centimet) so với hàng xóm phía nam mà họ đã tách ra trong sáu thập kỷ qua.
2. Uzbekistan: Lao động bị ép buộc
Ép buộc là một cách chắc chắn để thất bại. Tuy nhiên, cho đến gần đây, ít nhất là trong lịch sử nhân loại, hầu hết các nền kinh tế đều dựa vào việc ép buộc lao động - nô lệ, nông nô và nhiều hình thức khác của lao động ép buộc. Thực tế là, danh sách các cách để buộc con người làm những điều họ không muốn cũng dài như danh sách các xã hội dựa trên việc ép buộc. Lao động bị ép buộc cũng là nguyên nhân của sự thiếu đổi mới và tiến bộ kỹ thuật trong hầu hết các xã hội từ thời cổ đại La Mã cho đến miền Nam nước Mỹ.
Uzbekistan hiện tại là một ví dụ hoàn hảo cho thấy cái quá khứ bi thảm đó đã diễn ra như thế nào. Bông là một trong những hàng xuất khẩu lớn nhất của Uzbekistan. Vào tháng 9, khi bông đến vụ thu hoạch, không có học sinh nào ở trường, tất cả đều bị ép buộc đi thu hoạch bông. Thay vì dạy học, giáo viên trở thành nhà tuyển dụng lao động. Trẻ em được giao nhiệm vụ thu hoạch từ 20 đến 60 kg bông mỗi ngày tùy thuộc vào độ tuổi. Người hưởng lợi chính từ hệ thống này là tổng thống Islam Karimov và đồng minh của ông ta, những người kiểm soát việc sản xuất và bán bông. Những người chịu tổn thất không chỉ là 2,7 triệu trẻ em bị ép buộc lao động mà còn là toàn bộ xã hội Uzbekistan, một xã hội không thể thoát ra khỏi cảnh nghèo đói. Thu nhập bình quân đầu người ở đây không khác biệt nhiều so với khi Liên Xô sụp đổ, ngoại trừ thu nhập của gia đình Karimov, những người đang chiếm đóng ngành khai thác dầu khí ở nước này, đang rất giàu có.
3. Nam Phi: Một trận đấu không công bằng
Vào năm 1904, công nghiệp khai khoáng đã lập ra một hệ thống bất công về việc làm ở Nam Phi. Từ đó trở đi, chỉ có người Châu Âu mới được làm thợ rèn, thợ làm gạch, thợ làm lò hơi - tức là mọi công việc đòi hỏi kỹ năng. 'Rào cản [da] màu' này, như người Nam Phi gọi, đã mở rộng ra toàn bộ nền kinh tế vào năm 1926 và kéo dài cho tới những năm 1980, đã cướp đi mọi cơ hội sử dụng kỹ năng và tài năng của người da đen Nam Phi. Họ buộc phải làm những công việc không đòi hỏi kỹ năng trong các mỏ và nông nghiệp với mức lương rất thấp. Điều này mang lại lợi nhuận khổng lồ cho giới tinh hoa - những người sở hữu các mỏ và nông trại. Không có gì ngạc nhiên, Nam Phi dưới chế độ phân biệt chủng tộc đã thất bại trong việc cải thiện điều kiện sống cho 80% dân số của quốc gia này trong gần một thế kỷ. Trong vòng 15 năm trước khi chế độ phân biệt chủng tộc sụp đổ, nền kinh tế Nam Phi thậm chí còn co lại. Từ năm 1994 với sự thăng tiến của một nhà nước dân chủ, nền kinh tế Nam Phi đã trở nên ổn định và phát triển.
4. Ai Cập: Các bậc lớn trở nên tham lam
Khi các tầng lớp ưu tú kiểm soát nền kinh tế, họ thường sử dụng quyền lực của mình để tạo ra các độc quyền và ngăn cản sự tiến bộ của những người mới hoặc các doanh nghiệp mới. Điều này đã diễn ra tại Ai Cập trong suốt ba thập kỷ dưới thời Hosni Mubarak. Chính phủ và quân đội chiếm đến khoảng 40% nền kinh tế - theo một số ước tính. Ngay khi họ 'tự do hóa', họ đã tư nhân hóa một phần lớn nền kinh tế vào tay bạn bè hoặc con trai của Mubarak - Gamal. Các doanh nhân lớn gần gũi với chính quyền, như Ahmed Ezz (trong ngành sắt và thép), gia đình Sawiris (trong đa phương tiện, nước ngọt và viễn thông) và Mohamed Nosseir (trong ngành nước ngọt và viễn thông) đã nhận được không chỉ sự bảo hộ từ chính phủ mà còn các hợp đồng và khoản vay lớn từ ngân hàng mà không cần thế chấp.
Các doanh nhân lớn này được biết đến như những con 'cá voi'. Việc kiểm soát nền kinh tế trong tay của họ đã tạo ra lợi nhuận khổng lồ cho các tầng lớp nội bộ của chính phủ, nhưng lại ngăn chặn cơ hội của đa số dân số Ai Cập thoát khỏi cảnh nghèo đói. Trong khi đó, gia đình Mubarak đã gom góp một tài sản ước tính khoảng 70 tỷ đô la.
5. Áo và Nga: Quyền lực cản trở sự tiến bộ của công nghệ mới
Các công nghệ mới đặc biệt có tính phá hủy. Chúng phá vỡ các mô hình kinh doanh cũ và làm cho các kỹ năng và tổ chức hiện tại trở nên lỗi thời. Chúng phân phối lại không chỉ thu nhập và tài sản mà còn quyền lực chính trị. Điều này làm cho giới tinh hoa cố gắng ngăn chặn tiến bộ. Điều này có lợi cho họ, nhưng không lợi cho xã hội.
Hãy nhìn vào những gì đã xảy ra vào thế kỷ 19, khi đường sắt lan rộng khắp Anh và Mỹ. Một kế hoạch xây dựng đường sắt được đề xuất tới Francis I, hoàng đế Áo. Vẫn còn ám ảnh bởi cuộc Cách mạng Pháp 1789, ông trả lời: “Không, tôi sẽ không làm điều đó, nếu không có thể xảy ra cuộc cách mạng ở đất nước chúng ta.” Một tình huống tương tự xảy ra ở Nga cho đến những năm 1860. Với sự ngăn chặn của các công nghệ mới, chế độ Sa hoàng đã giữ vững, ít nhất trong một thời gian. Trong khi Anh và Mỹ phát triển nhanh chóng, Áo và Nga không thể làm được điều đó. Sự phát triển của đường sắt nói lên tất cả: vào những năm 1840, Anh đã xây dựng hơn 6000 dặm đường sắt, trong khi ở Nga chỉ có một tuyến duy nhất. Thậm chí tuyến đường đó cũng không được xây dựng vì lợi ích của dân Nga; nó dài 17 dặm kết nối St. Petersburg với dinh thự hoàng gia ở làng Tsarskoe và Pavlovsk.
6. Somali: Thiếu luật pháp và trật tự
Một yếu tố cần thiết cho một nền kinh tế thành công là một nhà nước trung ương hiệu quả. Thiếu điều này sẽ không có hy vọng nào về bảo đảm trật tự, hệ thống pháp luật hiệu quả và cung cấp các hàng hóa công cơ bản.
Thực ra, phần lớn thế giới hiện nay vẫn tồn tại các xã hội không có chính phủ. Mặc dù có những quốc gia như Somali hoặc Nam Sudan có chính phủ được công nhận quốc tế, nhưng những chính phủ này vẫn không thực hiện được quyền lực ở ngoại ô, thậm chí có thể là không có ở thủ đô. Cả hai quốc gia này được xây dựng trên các xã hội mà trong lịch sử chưa bao giờ thiết lập được chính phủ trung ương, mà thay vào đó, chúng được phân chia thành các bộ lạc nơi các quyết định được đưa ra thông qua sự đồng thuận của các người đàn ông trưởng thành. Không một bộ lạc nào có thể thống trị hoặc xây dựng một hệ thống pháp luật hoặc quy tắc được công nhận toàn quốc. Không có các vị lãnh đạo chính trị, không có các quan chức hành chính, không có thuế, không có chi tiêu chính phủ, không có cảnh sát, không có luật sư - nói cách khác, không có chính phủ.
Tình hình này đã kéo dài suốt thời kỳ thuộc địa ở Somali khi người Anh thậm chí không thể thu được thuế thường xuyên, một nguồn tài chính quan trọng cho thuộc địa châu Phi của họ. Sau khi độc lập vào năm 1960, đã có nhiều nỗ lực nhằm thiết lập một chính phủ trung ương hiệu quả, nhưng sau hơn năm thập kỷ, có thể nói rằng mọi nỗ lực đều thất bại hoặc ít nhất là không thành công. Điều này có thể được coi là quy luật Somali: không có chính phủ trung ương thì không có pháp luật và trật tự; không có pháp luật và trật tự thì không thể có một nền kinh tế thực sự; và không có một nền kinh tế thực sự thì quốc gia chắc chắn sẽ thất bại.
7. Colombia: Chính quyền trung ương yếu đuối
Colombia không giống như Somali. Mặc dù vậy, chính phủ trung ương của Colombia không thể hoặc không muốn thực hiện sự kiểm soát đối với một nửa lãnh thổ, nơi bị kiểm soát bởi các nhóm du kích bên cạnh, đặc biệt là lực lượng FARC, và ngày càng nhiều, các nhóm vũ trang cánh hữu. Các ông trùm ma túy có lẽ đang bị loại bỏ, nhưng sự vắng mặt của chính phủ trên phần lớn quốc gia không chỉ dẫn đến việc thiếu hụt các dịch vụ công như giao thông và y tế mà còn thiếu hụt các quyền sở hữu được xác định rõ ràng và thể chế hóa.
Hàng ngàn nông dân ở Colombia chỉ có quyền sở hữu không chính thức hoặc quyền sở hữu không có giá trị pháp lý. Mặc dù điều này không làm họ ngừng giao dịch đất, nhưng nó giảm động lực đầu tư của họ và tạo ra sự không chắc chắn thường dẫn đến bạo lực. Trong những năm 1990 và đầu thập kỷ 2000, có khoảng 5 triệu hecta đất ở Colombia bị cướp, chủ yếu bằng vũ trang. Tình hình trở nên tồi tệ đến mức vào năm 1997, chính phủ trung ương cho phép các quan chức địa phương cấm các giao dịch đất ở vùng nông thôn. Kết quả là gì? Nhiều vùng ở Colombia về cơ bản đã không thể tham gia vào các hoạt động kinh tế hiện đại, thay vào đó chìm sâu vào nghèo đói, và không cần phải nói tình trạng này tạo điều kiện cho các lực lượng du kích và bán vũ trang tạo ra những nơi ẩn náu mầu mỡ.
8. Peru: Dịch vụ công kém cỏi
Calca và gần đó là Acomayo là hai tỉnh của Peru. Cả hai đều nằm trên núi cao, đều là nơi cư trú của các hậu duệ của sắc tộc Inca nói tiếng Quechua. Cả hai đều canh tác một loại cây, nhưng Acomayo nghèo hơn Calca rất nhiều. Tiêu dùng của cư dân Acomayo ít hơn một phần ba so với cư dân ở Calca. Mọi người đều biết điều này. Ở Acomayo, người ta thường hỏi những người ngoại quốc dũng cảm: “Bạn có biết người ở đây nghèo hơn người ở Calca không? Tại sao bạn vẫn muốn đến đây?”
Thực ra, đi từ thủ đô Cusco đến Acomayo, một tỉnh của Peru, khó khăn hơn nhiều so với việc đi đến Calca. Đường đến Calca đã được trải nhựa trong khi đường đến Acomayo đã xuống cấp nghiêm trọng. Để đến Acomayo, bạn cần sử dụng ngựa hoặc lừa - không phải vì địa hình khác biệt mà là vì không có đường nhựa. Ở Calca, người ta bán ngô và đậu tương ra thị trường để kiếm tiền, trong khi ở Acomayo, người ta trồng các loại cây đó nhưng chỉ để sử dụng cho nhu cầu cá nhân. Kết quả là người dân Acomayo nghèo hơn người dân Calca một phần ba. Cơ sở hạ tầng quan trọng thật!
9. Bolivia: Khu vực chính trị bị lợi dụng
Bolivia có lịch sử lâu dài của các chế độ bóc lột bắt đầu từ thời kỳ thực dân Tây Ban Nha, một lịch sử mà sự oán giận ngày càng gia tăng từng năm. Vào năm 1952, nhân dân Bolivia đứng lên chống lại giới ưu tú truyền thống, những người kiểm soát các mỏ và ruộng đất. Những nhà lãnh đạo của cuộc cách mạng này phần lớn là những người thành thị bị loại trừ khỏi quyền lực và sự bảo trợ trong chế độ cũ. Một khi chiếm quyền, những nhà cách mạng này tịch thu một phần lớn các ruộng đất và mỏ và thành lập một đảng chính trị - Phong trào Dân tộc Cách mạng (MNR). Sự bất bình đẳng giảm đi đáng kể nhờ các biện pháp tịch thu ruộng đất và cải cách giáo dục của MNR. Tuy nhiên, MNR thiết lập một chính phủ độc đảng và dần dần hủy bỏ các quyền chính trị mà họ đã ban hành năm 1952. Vào cuối những năm 1960, bất bình đẳng thực tế lại cao hơn trước cách mạng.
Đối với người dân nông thôn Bolivia, một tầng lớp ưu tú chỉ được thay thế bởi một tầng lớp khác, theo như “định luật sắt của chế độ hoạt đầu chính trị” của nhà xã hội học Đức Robert Michels. Nông dân vẫn chỉ có các quyền sở hữu không được bảo đảm và phải bán phiếu bầu của mình để có đất đai, tín dụng và việc làm. Sự khác biệt duy nhất là giờ đây họ phải làm như vậy với MNR thay vì giới tinh hoa truyền thống.
10. Sierra Leone: Cuộc tranh giành quyền lợi
Sự bóc lột tàn nhẫn sẽ dẫn đến bất ổn và thất bại, bởi vì, đúng với 'định luật sắt của chế độ hoạt đầu chính trị', nó sẽ khuyến khích các nhóm khác lật đổ tầng lớp ưu tú hiện tại để giành quyền.
Đó là điều đã xảy ra ở Sierra Leone. Siaka Stevens và đảng Quốc Đại Toàn Dân (APC) của ông cai trị đất nước từ năm 1967 đến 1985 như một thái ấp cá nhân. Khi Stevens rời ghế và trao quyền cho Joseph Momoh, tình hình không thay đổi. Momoh tiếp tục hành động cướp bóc.
Vấn đề là lối bóc lột này gây nên sự bất mãn sâu sắc và thúc đẩy những kẻ tham vọng giành lấy quyền lực với hy vọng được hưởng lợi. Tháng 3 năm 1991, Mặt trận Cách mạng Thống nhất của Foday Sankoh, được hỗ trợ và có lẽ chỉ đạo bởi nhà độc tài Liberia Charles Taylor, đã vượt biên vào Sierra Leone, kéo quốc gia này vào cuộc nội chiến kéo dài một thập kỷ. Sankoh và Taylor chỉ quan tâm đến quyền lực để chiếm đoạt kim cương và các tài nguyên khác. Chế độ Stevens và APC đã tạo điều kiện cho điều này. Sierra Leone nhanh chóng rơi vào hỗn loạn, với cuộc nội chiến cướp đi mạng sống của khoảng 1% dân số và gây thương tích cho nhiều người khác. Nhà nước và các thể chế của Sierra Leone hoàn toàn sụp đổ. Thu nhập của chính phủ giảm từ khoảng 15% tổng thu nhập quốc gia xuống gần bằng không vào năm 1991. Nhà nước, nói cách khác, đã biến mất hoàn toàn.
Daron Acemoglu và James A. Robinson là tác giả của cuốn sách 'Tại sao các quốc gia thất bại: nguồn gốc của quyền lực, giàu có và nghèo đói'.
Nguồn: Viet-Studies